Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Phụ nữ của các đạo Độc Thần và phụ nữ Việt Nam

Từ thái độ khinh miệt chà đạp phụ nữ của các đạo Độc Thần đến thái độ tôn trọng ca ngợi phụ nữ trong văn chương bình dân Việt Nam

                                            

Nói một cách công bình và khách quan thì trong hầu hết các nền văn hóa, Đông cũng như Tây, người phụ nữ luôn luôn bị đối xử một cách bất bình đẳng. Có lẽ vì bản chất của phụ nữ là “chân yếu, tay mềm” “liễu yếu đào tơ” nên cần được phái nam (được mệnh danh là phái mạnh) che chở bao bọc. Từ đó, phụ nữ bị phái nam lấn lướt dành quyền ưu thắng trong mọi sinh hoạt xã hội. Vì vậy, trong mọi xã hội thuộc đủ mọi nền văn hóa, quyền bình đẳng của phụ nữ không ít thì nhiều cũng luôn luôn bị xâm phạm.
Có lẽ các xã hội Phật giáo ít bị mang tiếng nhất về vấn đề nữ quyền. Phật giáo phát khởi trong bối cảnh Ấn giáo, nhưng Đức Phật  đã đưa ra nhiều quyết định sáng suốt để tránh cho Phật giáo những khuyết điểm đáng tiếc :
-         Đức Phật không chấp nhận những nghi lễ của Ấn giáo đặt trên nền tảng giai cấp phi nhân, vô lý và bất công.
-         Đức Phật luôn luôn xác định phụ nữ có khả năng  tâm linh cũng như nam giới.
-         Đức Phật kịch liệt phản đối tập tục “Sati” là một tập tục dã man vẫn tồn tại trong Ấn giáo cho đến gần đây.  Đó là tục người vợ bị buộc phải lên dàn hỏa để được thiêu với người chồng quá cố. Người đã chết không cón sợ hãi hay đau đớn, nhưng người vợ còn sống sẽ phải trải qua những cơn đau đớn kinh hoàng!
Trong bài “Đạo Phật và vấn đề phụ nữ”, tác giả là bà Thái Kim Lan cho biết: Nhà nghiên cứu người Đức là ông Kurt Schmidt, chuyên nghiên cứu về đạo Phật từ thập niên 1920 đã dịch từ tiếng Trung Hoa một số câu kệ của 42 bài kinh nguyên tác bằng tiếng Sankrit. Bản kệ nói trên có đoạn viết lời Đức Phật nói về phụ nữ như sau : “Khi nói chuyện với phụ nữ, hãy nói với sự trong sáng của con tim. Nếu người phụ nữ là một người già nua, hãy xem họ như mẹ. Nếu người đó là một chủ nhân đáng kính, hãy đối xử như một bà chị. Nếu người đó xuất thân thấp kém, hãy xem họ như em gái. Nếu người ấy còn thơ ngây, hãy đối xử tế nhị và lịch sự”.  (Bà Thái Kim Lan nguyên là một Phật tử ở Huế. Bà đã du học ở Đức từ thập niên 1970 và trở thành giáo sư đại học ở Đức từ đó đến nay.  Bà đã chuyển ngữ đoạn văn trên từ Đức ngữ sang tiếng Việt. Theo bà, dù không đúng từng chữ, nhưng những lời nói trên phản ảnh trung thực tinh thần những lời giảng dạy đích thực của Đức Phật).
Như trên đã trình bày, trong mọi xã hội thuộc mọi nền văn hóa đều có nạn kỳ thị phụ nữ với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, một sự thật hiển nhiên là không nó một nền văn hóa nào khinh miệt và chà đạp phụ nữ bằng nền văn hóa Độc thần giáo. Đó là nền văn hóa của ba đạo độc thần : đạo Do Thái, đạo Ki Tô và đạo Hồi.
I.-  Quan niệm về phụ nữ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô.
Đạo KiTô phát sinh từ đạo Do Thái, do đó mọi quan niệm chính yếu liên quan đến niềm tin tôn giáo của đạo KiTô đều được rập khuôn theo đạo Do Thái.  Câu chuyện thần thoại Vườn Địa Đàng (Gan-Eden) của người Sumerians ở Babylon đã có từ 3000 năm trước Công Nguyên, không ngờ đã trở thành nồng cốt cho niềm tin của cả Do Thái giáo, KiTô giáo và cho cả Hồi giáo sau này.
Chuyện Vườn Địa Đàng  kể rằng : trước hết, Thiên Chúa dựng nên tổ tiên loài người là Adam bằng đất sét. Sau đó, Chúa thấy Adam sống cô đơn buồn bã, nên Ngài rút một khúc xương sườn cụt của Adam để tạo ra bà Evà. Evà bị con rắn  nói tiếng người dụ dỗ ăn trái cấm. Evà dụ dỗ chồng là Adam phạm tội chống Chúa, nên cả hai đã trở thành những kẻ đầu tiên phạm tội. Tội này được gọi là “nguyên tội” (the original sin) và là tội đầu tiên của loài người, và đặc điểm của tội này là di truyền cho con cháu loài người đến muôn đời.
Câu chuyện thần thoại Vườn Địa Đàng đã được ông thánh Augustine khai thác tạo thành một gia tài giáo lý, biến Công giáo La Mã thành một tôn giáo nổi tiếng về óc kỳ thị phụ nữ.
Augustine viết: Mỗi người đàn bà là một Evà. Sự kết án của Thiên Chúa không phải trên cá nhân Evà, mà là trên phái tính của các người. Các người là hình ảnh của qủi dữ, vì các người phá hoại đàn ông là hình ảnh của Thiên Chúa. Đàn bà là cửa hỏa ngục. Chỉ vì tội lỗi của các người mà con của Thiên Chúa phải chết .....
Câu chuyện thần thoại Vườn Địa Đàng đưa đến nhiều hậu quả bất lợi cho phụ nữ: 
Trước hết, đàn bà phải phụ thuộc đàn ông vì “đàn bà chỉ là một cái xương sườn cụt của đàn ông mà thôi”! Chúa dựng nên Eva trực tiếp từ một cái xương sườn cụt thành một người đàn bà hoàn chỉnh. Cho nên Eva không được sinh ra bởi cha mẹ, không được cưu mang trong bụng mẹ ngày nào, do đó Eva không được sinh ra từ bụng mẹ, không được cắt rốn, và Eva trở thành người duy nhất trên thế giới không có lỗ rốn!
Một trong những lý thuyết quan trọng nhất của Augustine là “tội tổ tông” được di truyền cho con cháu muôn đời là do hành vi giao cấu tội lỗi của cha mẹ. Augustine quan niệm dù là hành vi giao cấu giữa vợ chồng là hợp pháp, nhưng động lực chính yếu vẫn là sự ham muốn dâm dục. Vì vậy hành vi giao cấu của cha mẹ vẫn cấu thành hành vi tội lỗi và làm cho Tội Tổ Tông (Nguyên Tội) được di truyền liên tục muôn đời.
Bà Maria có cha mẹ là ông Joachim và bà Anna. Bà Maria đã được sinh ra bởi cha mẹ. Bà Maria đã được sinh ra từ bụng mẹ, có cắt rốn cho nên bà Maria phải có lỗ rốn. Cái lỗ rốn của bà Maria là bằng cớ hùng hồn chứng tỏ là bà ta đã mắc tội tổ tông, vì (theo lý thuyết của Augustine) bà ta đã sinh ra  do sự giao cấu của cha mẹ là ông Joachim và bà Anna.
Một khi bà Maria đã bị “nhiễm tội tổ tông”, thì bà ta sẽ truyền tội cho thằng con trai của bà là Jesus, và biến Jesus thành kẻ có tội (a sinner). Hậu qủa cuối cùng là Jesus không thể vừa là một tội nhân lại vừa là Đấng Chí Thánh! Jesus phải hiện nguyên hình là một người thường (a man), chứ không thể là một thứ quái thai nửa người nửa Thiên Chúa (half-man, half-god). Cái lỗ rốn của bà Maria, không ít thì nhiều, cũng làm tổn hại đến thằng con trai của bà.
Tội Ác Dã Man đối với Phụ Nữ của Công Giáo La Mã và Thệ Phản Giáo dưới chiêu bài Diệt Nạn Phù Thủy.
Tác phẩm “Búa Phù Thủy”, do bác sĩ Trần Qúi Nhu dịch, Giao Điểm xuất bản Hè 2003. Nguyên tác bằng tiếng la-tinh “Malleus Maleficarum” của hai linh mục “quan án đạo” là Heinrich Kramer và James Sprenger. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1486  để làm tài liệu   chính thức cho các quan tòa án đạo xử dụng.
Mấy trang đầu sách có in sắc lệnh 1482 của giáo hoàng Innocent VIII. Sắc lệnh của giáo hoàng là văn kiện luật pháp tối cao chỉ đạo công cuộc diệt phù thủy. Đây là chứng tích không thể chối cãi về một thời kỳ kinh hoàng cho phụ nữ kéo dài 300 năm (1450-1750). Bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng bị ghép vào tội phù thủy. Người phụ nữ có thể bị người hàng xóm thù ghét vu cáo cho tội đã dùng bùa phép làm chết con bò hay con ngựa của hắn ta. Thế là người phụ nữ đó có thể bị truy tố ra Tòa Án Đạo và bị kết tội phù thủy. Một phụ nữ bỗng nhiên bị nổi ở trên mặt một vài cái nốt ruồi hay mụn cơm có hình thù đặc biệt khiến cho kẻ mê tín tin đó là dấu hiệu của ma qủi. Người phụ nữ đó có thể bị kết án về tội phù thủy.
Vào đầu thế kỷ 15, các tu sĩ dòng Đa Minh (Dominicans) được giáo hoàng cử làm các quan án xử tội phù thủy. Trong hai thế kỷ 15 và 16, riêng tại Đức có 100,000 người bị giết bằng cách thiêu sống trên dàn hỏa.
Năm 1572, tại Saxony, phe Thệ Phản giáo (Tin Lành) tỏ ra còn khắc khe với phù thủy hơn cả công giáo La Mã. Cuối thế kỷ 16, phe Thệ Phản giáo thiêu sống 20,000 người riêng tại Saxony. Từ 1615-1635, hơn 5,000 người bị đưa lên dàn hỏa về tội phù thủy tại miền Strasburg.
Sắc lệnh 9-12-1482 của giáo hoàng Innocent VIII
Sắc lệnh của giáo hoàng đưa ra nhiều “kiến thức lạ lùng” về phù thủy,thầy pháp, bói toán, ... Giáo hoàng cũng đưa ra nhiều “niềm tin mê tín” của riệng ông ta để dạy dỗ các quan án :
-         Các phù thủy có thể thông đồng với “qủi đực, qủi cái” để gây ra bão táp phá hoại mùa màng, giết hại súc vật.
-         Bọn phù thủy đã lạc ra ngoài đức tin Công giáo, sa vào tay qủi dữ và có khả năng xử dụng tà thuật , phù phép, bùa ngải để làm các việc ác.
-         Phù thủy có khả năng vận dụng sự di chuyển các ngôi sao để gây ra bệnh hoạn. Họ kết ước với ma qủi để có thể biết trước tương lai bằng cách đoán mộng.
Đó là tiêu biểu những “kiến thức” của giáo hoàng về phù thủy. Giáo hoàng đã tán bậy theo sự suy tưởng ngu xuẩn của hắn. Chủ trương diệt phù thủy thực sự đã bắt nguồn từ Cựu Ước, ít nhất từ 3000 năm trước CN:
-         Deut. 7:16  (Sách Phục Luật) “ Ngươi phải diệt các dân tộc mà Thiên Chúa của ngươi đã giao cho ngươi”.
-         Deuteromy 18:10  Phải giết hết các thầy pháp và các thầy bùa ngải”.
-         Leviticus 19:26  Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này trước mặt dân chúng”.
-         Levi. 20:26-27  Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải được đem ra giết hết”.
Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh!  Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu , không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
II. Quan Niệm của đạo Hồi về Phụ Nữ.
Số tín đồ Hồi giáo hiện nay trên 1 tỷ 200 triệu, trải rộng khắp các lục địa gồm nhiều quốc gia dân tộc với những tục lệ và luật pháp khác nhau. Do đó, số phận của phụ nữ mỗi nơi một khác. Tuy nhiên, vượt lên trên  mọi dị biệt của địa phương, kinh thánh Koran và “thánh luật” Sharia là hai bộ sách luật pháp tối cao quyết định phần lớn số phận của người phụ nữ Hồi giáo.
-         Koran 33:53  Phụ nữ phải mặc kín đáo hoàn toàn, không được để lộ phần nào của cơ thể trước mặt bất cứ một người đàn ông nào, bao gồm cả mặt và tay”.
-         Koran 4:34  Đàn ông có thẩm quyền trên người đàn bà. Chúa sinh ra đàn ông cao qúi hơn đàn bà. Đối với phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ và đánh đập”.
-         Koran 2:22  Đàn bà là “cánh đồng lạc thú”, đàn ông có quyền chủ động bước vào nếu muốn”.
Các thánh tử đạo lên thiên đàng được chúa Allah cấp cho mỗi người  72 trinh nữ để hưởng lạc suốt đời. Kinh Koran coi “Thiên Đường là khu vườn của lạc thú nhục dục muôn đời”.
Đàn ông không có tội “ngoại tình” vì có quyền lấy nhiều vợ. Đàn bà không được  lấy người thứ hai ngoài chồng. Khi bị buộc vào tội ngoại tình thì người đàn bà phải bị đưa ra cho công chúng ném đá cho đền chết.
Tại Afganistan, phụ nữ không được đi học. Các cán bộ tôn giáo có nhiệm vụ như cảnh sát. Họ được trang bị một cái roi dài, quấn dây cáp bằng thép, dùng để đánh bất cứ một phụ nữ nào trên đường phố mà mặc y phục không đúng qui định, như mặc quần áo bó sát thân hình, để lộ vớ trắng ở bàn chân, đeo nữ trang, đi giầy gây tiếng kêu. Phụ nữ bị cấm đi học, cấm làm việc, cấm đi xe đạp, v.v...
Tuy nhiên, mọi sự cấm đoán vô lý và quá đáng cuối cùng sẽ bị phản ứng ngược lại. Xưa kia, trong thế giới Hồi giáo ít có ai dám viết sách chống lại đạo Hồi. Cách đây vài thập niên, nhà văn Anh gốc Ấn rất nổi tiếng là Salmon Rushdie đã dám viết tiểu thuyết “Satanic Verses” chống đạo Hồi và bị giáo chủ Khomeni lên án tử hình. Nhưng ngày nay, người ta thấy có nhiều sách do chính các tín đồ Hồi giáo viết để lên án Hồi giáo và kêu gọi cải tổ. Chẳng hạn như tác phẩm “Tại sao tôi không theo đạo Hồi” (Why I am not a Muslim) của Ign Warra (Prometheus Books xuất bản năm 2003). Ngay ở trang đầu cuốn sách, tác giả đã trích dẫn câu nói rất nổi tiếng của triết gia kiêm sử gia Pháp Joseph Ernest Renan (1823-1892): “Những tín đồ Hồi giáo là những nạn nhân đầu tiên của đạo Hồi. Rất nhiều lần trong các cuộc du lịch của tôi tại phương Đông, tôi thấy sự cuồng tín của một nhóm ít người nguy hiểm đã buộc người khác phải theo đạo bằng cách khủng bố. Giải phóng tín đồ Hồi giáo thoát ra khỏi tôn giáo của họ là việc làm tốt nhất mà chúng ta có thể làm cho họ” (Muslims are the fisrt victims of Islam. Many times I have observed in my travels in the Orient, that fanatism comes from a small number of dangerous men who maintain the others in the practice of religion by terror. To liberate the Muslim from his religion is the best service that one can render him).
Điều làm tôi cảm thấy vui là mới đây xuất hiện một cuốn sách tựa đề “Chuyện rắc rối với đạo Hồi” (The Trouble with Islam) của Irshad Manjii, một nữ tín đồ Hồi giáo ở Đông-Phi (East Africa), Random House, Canada xuất bản 2003. Tác giả tố cáo các chính quyền Hồi giáo trên khắp thế giới xâm phạm nữ quyền và kêu gọi toàn toàn thế giới can thiệp để cải tổ đạo Hồi :
-         Tại Nigeria, một cô gái 17 tuổi bị các bạn của cha cô hiếp dâm; có 7 nhân chứng, nhưng cô ta vẫn bị tòa án Hồi giáo phạt đánh 180 roi.
-         Tại Pakistan, hiện nay mỗi ngày có ít nhất 2 phụ nữ bị giết vì “honor killing”
-         Tại Tunisia và Algéria, phụ nữ Hồi không được lấy chồng ngoài đạo Hồi.
-         Cảnh sát Saudi Arabia bắt giam các phụ nữ mua hoa, quà tặng, hay mặc áo đỏ trong dịp lễ Valentine.
-         Khi vào đền thờ Hồi giáo, đàn ông và đàn bà đi vào bằng các cửa khác nhau. Đàn bà đứng sau đàn ông, do đó đàn bà có thể nhìn thấy đàn ông, nhưng đàn ông không nhìn thấy đàn bà. Trong đền thờ, chỉ đàn ông có quyền điều khiển các buổi đọc kinh. Đàn bà bị cấm triệt để, vì kinh Koran đã qui định rõ như vậy : “Girls can’t lead prayer. They are not permitted”.
Irshad Manjii là một phụ nữ Hồi giáo trẻ tuổi  đã khám phá ra một điều mà tác giả cho là mới mẻ và đáng ngạc nhiên. Trước đó, Manjii nghĩ Hồi giáo là một tôn giáo riêng biệt, nhưng sau đó Manjii mới biết Hồi giáo đã phát sinh từ truyền thống Do Thái – Kitô giáo (Islam comes from Judae-Christian traditions). Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo là ba đạo độc thần, đều là con cháu của một ông tổ chung là Abraham. Hồi giáo là món quà tặng từ Do Thái giáo (Islam is a gift of the Jews). Vấn đề được đặt ra là tại sao Hồi giáo, Do Thái giáo và Kitô giáo lại căm thù nhau, chem giết nhau không nương tay.  Đáng lẽ cả ba đạo phải thân thiết nhau mới phải, vì cả hai đều thờ chung một Chúa và cùng một gốc Abraham! Lý do đơn giản là bản chất của độc thần giáo là tự cho đạo của mình có độc quyền chân lý, là “chánh đạo” còn tất cả những ai có ý nghĩ khác họ là “tà đạo”.
III. Thái độ tôn trọng và ca ngợi phụ nữ trong văn chương bình dân Việt Nam.
Dân tộc chúng ta theo truyền thống thờ cúng Tổ Tiên, nên rất tôn kính Ông Bà, Cha Mẹ. Chúng ta coi cha mẹ ngang nhau :
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.
 
Cha mẹ là hình ảnh của vợ chồng vì phải là vợ chồng rồi mới thành cha mẹ. Vợ chồng là đầu mối của gia đình, gia tộc và dân tộc. Vì tầm mức quan trọng của mối liên hệ vợ chồng như vậy, nên dân tộc ta đã đưa mối liên hệ vợ chồng thành “Đạo Vợ Chông”, đặt trên căn bản kết ước lâu dài trọn cuộc đời :
Đạo vợ chồng khó lắm anh ơi
Không như ong bướm đậu rồi lại đi.
Vợ chồng bình đẳng và lo giúp đỡ nhau tác động hai chiều:
Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau nương cậy để phòng nắng mưa.
 
Đôi ta như rắn liu điu
Nước chảy mặc nước, ta đìu lấy nhau.
 
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay
Làm nên danh vọng hay ăn mày cũng theo.
 
Thuận vợ, thuận chồng
Tát bể Đông cũng cạn.
Trong đời sống gia đình Việt Nam, người phụ nữ luôn luôn đóng vai chính, biểu lộ lòng yêu thương và hy sinh cho gia đình, luôn luôn cần cù siêng năng, chịu khó chịu khổ, tự lực tự cường, chỉ biết trông cậy vào sức mình để lo bản thân, cho gia đình, cho con cái, cho dòng tộc và luôn cho cả đất nước. Phụ nữ Việt Nam giống như hình ảnh con cò trên đồng ruộng :
Trời sinh mẹ đẻ tay không
Nên tôi bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nên đời cò con
Một mai khôn lớn vuông tròn
Rủ nhay bay khắp nước non xa gần.
Nhà thơ Tú Xương ví vợ của ông như con cò ở ven sông :
Thân cò lặn lội bờ sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lịch sử Việt Nam cho thấy nhiều phụ nữ là những anh thư liệt sĩ, như bà Triệu, bà Trưng, Nguyễn thị Xuân :
Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh.
 
Ghé vai gánh vác sơn hà
Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam.
 
Phụ nữ Việt còn biểu lộ đức tính tự trọng, và hiên ngang lên tiếng chống lại cường quyền. Dưới thời nhà Nguyễn, nhiều nhà nho bị hủ hóa vì tư tưởng Tống Nho, khinh thường văn hóa nước nhà :
“Nôm na là cha mách qué”
coi các nguyên tắc cứng ngắc của Khổng Mạnh như những khuôn vàng thước ngọc. Bà vợ Việt Nam chống lại ông chồng hủ nho chỉ biết trọng cái vỏ hư danh bề ngoài mà không biết lo thực tế :
Ra ngoài làm dáng anh đồ
Về nhà hỏi vợ: “Cám khô đâu mày?”
Cám khô tao để cối xay
Chó mà ăn hết thì mày đừng ăn.
 
Ngày 6-3-1828, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm phụ nữ không được mặc váy. Phụ nữ dám dùng lời mỉa mai châm biếm chống lại triều đình :
Chiếu Vua mồng sáu tháng ba,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì bắt lột quần chồng sao đang!
 
Có một đức tính rất đặc biệt ở người phụ nữ Việt Nam mà ít có phụ nữ của một nước nào khác có thể có được. Đó là đức tính nhẫn nhịn :
Một  câu nhịn, chín câu lành.
 
      Chữ “Nhẫn” là chữ tượng vàng,
      Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.
      Chồng giận thì vợ bớt lời
      Cơm sôi nhỏ lửa thì đời nào khê.
 
      Nói đây cho chị em nhà
      Còn dăm bát gạo, còn vài lạng bông
      Bán đi trả nợ cho chồng
      Còn ăn, hết nhịn, bằng lòng chồng con
      Đắng cay ngậm quả bồ hòn.
 
Vì có nhiều đức tính cao qúi nên phụ nữ Việt Nam được tôn trọng từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong một số trường hợp, ý kiến của phụ nữ còn được tôn trọng hơn ý kiến của chồng :
Lệnh ông không bằng cồng bà
Có một câu nói phổ biến trong dân gian, câu nói đó không vần không điệu nhưng cũng rất thông thường trên cửa miệng nhiều người đàn ông Việt Nam. Đó là câu “Nhất Vợ, nhì Trời”.
Dù cho câu nói này chỉ là một câu nói đùa, nhưng nó vẫn là một câu nói độc đáo, vì trong các nền văn hóa độc thần không thể nào có một câu nói tương tự. Những câu nói như “Con cóc là cậu ông Trời” chỉ có thể có trong văn hóa Việt Nam, vì đại đa số dân tộc Việt Nam , tuy hay nói tới “Ông Trời”, nhưng không bao giờ họ tin rằng Ông Trời là Đấng Tối Cao hay Đấng Tạo Hóa Toàn Năng. Các linh mục Công giáo và các mục sư Tin Lành  luôn luôn viết sách, viết báo, giảng đạo trên đài phát thanh hay trong các giáo đường, cố gắng đồng hóa “ông Trời” của văn hóa Việt với “Đức Chúa Trời” của đạo KiTô. Họ hí hửng tin rằng: hề người Việt Nam tin có “ông Trời” sẽ đương nhiên tin có “Đức Chúa Trời” mà họ tôn thờ. Thực sự, đối với người Việt Nam, “ông Trời” chỉ là bầu trời xanh, là năng lực thiên nhiên, là sự vận hành của vũ trụ, ... Thế còn sao lại gọi Trời bằng “ông”. Thưa rằng ngưòi Việt chúng tôi còn gọi nhiều “vật” bằng “ông” lắm, như “ông bình vôi”, “ông ba mươi”, v.v... Khi người bình dân Việt nói  Nhất Vợ Nhì Trời” là họ thật sự đặt các bà xã của họ ngồi lên đầu “Ông Trời” đó. Tôi khuyên các linh mục Công giáo và các mục sư Thệ Phản giáo không nên ví “ông Trời” của văn hóa Việt với Chúa Trời của các ông, kẻo bị hiểu nhầm là các bà xã ở nhà được ngồi trên đầu Chúa!

                                                                                    Charlie Nguyễn
                                                                                    Lập Xuân 2004

0 nhận xét:

Đăng nhận xét