Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013
Bàn về mối quan hệ giữa công lý và luật pháp
20:07
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận
sau 25 năm đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định yêu
cầu tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đó, công lý đã được ghi nhận là một trong những giá trị
cơ bản, xuyên suốt, định hướng cho toàn bộ quá trình phát triển kinh tế
- xã hội nói chung và quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh
cải cách tư pháp tại Việt Nam nói riêng.
Có
thể nói, trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta là
một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được cả xã hội thừa nhận
và hướng tới. Bài viết này sẽ làm rõ hơn nhận thức về công lý và mối
quan hệ giữa công lý với luật pháp trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch.
1. Khái niệm công lý trong nền khoa học pháp lý thế giới
Khái
niệm công lý là khái niệm thu hút được những tranh luận khoa học hàng
ngàn năm nay. Theo quan điểm truyền thống, công lý là khái niệm chỉ áp
dụng trong quá trình tương hỗ, khi hành động của một cá nhân hướng tới
người khác. Câu hỏi về công lý (justice) và bất công (injustice) chỉ
xuất hiện khi có nhiều cá nhân và có những sự kiện thực tế liên quan đến
quá trình tương tác với người khác. Trong nền khoa học pháp lý thế
giới, công lý là khái niệm có nội hàm khá năng động, tuỳ thuộc vào từng
nền văn hoá và từng giai đoạn phát triển của xã hội trong lịch sử. Theo
quan niệm từ xa xưa, nữ thần công lý đã được khắc hoạ, miêu tả với ba
biểu tượng đặc trưng: một thanh gươm biểu tượng cho quyền lực cưỡng chế
và uy quyền của toà án, một chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác,
biểu tượng cho lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không
thiên vị và một chiếc khăn bịt mắt tượng trưng cho ý tưởng công lý “mù
loà”, đề kháng, đối lập lại những áp lực, ảnh hưởng từ bên ngoài.
Từ
góc độ lịch sử, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các phân đoạn phát triển
của công lý trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo đó, công lý trong
giai đoạn thứ nhất của xã hội sơ khai được thể hiện khá rõ nét bằng sự
trả thù cá nhân, bằng luật báo thù, dĩ oán báo oán. Có thể nói, công lý
luôn là vấn đề cốt tử trong tâm thức của các nhà làm luật từ thời cổ
đại. Trong bộ luật Hammurabi của nhà nước lưỡng hà cổ đại được ban hành
trong khoảng thời gian từ năm 1792 đến năm 1750 trước công nguyên, công
lý được được hiểu là áp dụng hình phạt ngang bằng với thiệt hại mà kẻ
phạm tội gây ra và nguyên tắc báo thù Talion (mắt đền mắt, răng đền
răng) được áp dụng một cách triệt để, cứng nhắc và tàn khốc nhất. Một
người thợ xây làm chết con của chủ nhà thì con của người thợ xây phải bị
giết theo nguyên tắc báo thù Talion này.[1]
Giai
đoạn thứ hai của sự phát triển nhận thức về công lý là thay sự báo thù
bằng bồi thường, phạt vạ, để nhằm giữ yên ổn, hoà hảo trong nội bộ các
bộ tộc, bộ lạc. Một ví dụ sinh động về cách phạt vạ khá cẩn thận, tỉ mỉ
của người Abysinie trong giai đoạn này như sau: “Nếu một đứa nhỏ trên
cây té xuống đúng vào một đứa bạn của nó, làm cho đứa này chết thì mẹ
của đứa chết có quyền sai một đứa khác leo lên cây rồi buông tay cho rớt
xuống đúng đầu đứa phạm tội”. Đến giai đoạn thứ ba, để ngăn chặn các
cuộc trả thù cá nhân, toà án đã được thành lập để thẩm định, đánh giá
các mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình, phân xử các xung đột
giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững bước
song hành từ những bước phát triển của lịch sử văn minh nhân loại như
vậy.[2]
Trong
nền văn minh Hy Lạp cổ đại - cái nôi của văn minh phương Tây, công lý
được cho rằng bắt nguồn từ trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật
tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của công lý và ngược lại, một nền công lý
mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật tự, ổn định. Plato, nhà triết học Hy
Lạp xuất sắc, đã đặt những luận giải về công lý chủ yếu trong các tranh
luận về vấn đề đạo đức. Các luận điểm chỉ trích lúc đó cho rằng đạo đức
là phát minh của kẻ yếu nhằm vô hiệu hoá quyền lực của kẻ mạnh và công
lý không phải là đạo đức của người xuất chúng mà là thứ đạo đức nô lệ.
Luận điểm này cũng cho rằng người ta chỉ trích sự bất công chỉ khi người
ta là nạn nhân chứ không phải bị lương tâm cắn rứt. Sức mạnh chính là
lẽ phải và công lý chính là quyền lợi của kẻ mạnh. Đáp lại những luận
điểm nêu trên, Plato cho rằng công lý là những vấn đề đạo đức căn bản,
những lý thuyết căn bản về luân lý. Ông nhấn mạnh công lý là một sự quan
hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần được nghiên
cứu đồng thời, song song với cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu
như một thái độ cá nhân. Chúng ta chỉ có thể hình dung một quốc gia
công bằng thì chúng ta mới đủ yếu tố định nghĩa một cá nhân công bằng.
Theo Plato, công lý là một khái niệm thể hiện phẩm hạnh và sự hài hoà
của cộng đồng, là kết quả của sự đồng tâm hợp tác giữa những cá nhân có
đức hạnh tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng và quốc gia. Công
lý liên quan trực tiếp đến khả năng tự kiểm soát của cá nhân. Công lý là
một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị, rời xa lòng tham lam và
sự xa hoa và sống theo đúng chức phận của mình. Công lý xuất phát từ sự
hài hoà và nó hướng tới những người khác thông qua những hành vi nhân
hậu và tử tế.[3]
Còn
theo Aristotle, một trong những người thầy có ảnh hưởng nhất đối với
môn triết học chính trị, thì công lý cốt ở việc đối xử bình đẳng với
những người ngang nhau và bất bình đẳng với những người không ngang
hàng, tương xứng với sự khác nhau về địa vị của họ. Theo ông, công lý
được chia thành “công lý cải tạo” - nơi mà toà án sửa chữa một lỗi lầm
do một bên phạm phải đối với bên khác và “công lý phân phối” - cách
thức, nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà
người đó xứng đáng. Theo Aristotle, công lý phân phối chính là mối quan
tâm chủ yếu, hàng đầu của các nhà lập pháp. [4]
Người
La Mã tiếp tục phát triển khái niệm về công lý với nhận định rằng luật
pháp là tổng hợp các quyền cá nhân. Công lý được xem là yêu cầu bắt buộc
trao cho con người những quyền của họ. Tuy nhiên, người La Mã cũng
không còn coi công lý là một chức năng của xã hội mà coi công lý là một
nội dung và là khía cạnh pháp lý của xã hội. Nội dung này được thể chế
hoá trong các chức năng của các thiết chế bảo vệ các quyền của từng cá
nhân hơn là dành sự quan tâm xã hội cho tất các công dân.
Khái
niệm về công lý tương giao ra đời khi sự trao đổi các giá trị, lợi ích
giữa các cá nhân phát triển một cách mạnh mẽ với nguyên tắc là tôi trao
một lợi ích cho bạn thì bạn của trao một lợi ích cho tôi. Một hợp đồng
trao đổi là một hành động của công lý tương giao tự nguyện mà trong đó
mỗi người đều nhận được những giá trị lớn hơn với giá trị tương ứng mà
anh ta đã trao đi. Mục đích của công lý tương giao là duy trì sự bình
đẳng về quyền giữa các cá nhân, bảo vệ sự tự do và nhấn mạnh trách nhiệm
của từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Trong
truyền thống pháp luật tự nhiên, công lý được hiểu là đòi hỏi mỗi cá
nhân hoặc nhóm được hưởng những gì mà họ xứng đáng. Công lý là quyền mà
tạo hoá ban cho con người. Đây là khái nhiệm mang tính tổng quát và
tuyệt đối, các quy định luật pháp, các nguyên tắc, luật lệ, quy tắc chỉ
là những cố gắng hệ thống, hiện thực và cụ thể hoá khái niệm này. Công
lý chỉ có thể giành được thông qua chế độ pháp quyền chứ không phải qua
sự cai trị của con người. Không có công lý thì sẽ không có những đạo
luật khách quan và hệ quả là các cá nhân sẽ lệ thuộc vào kẻ cai trị. Chế
độ pháp quyền ở đây được hiểu là là nước phải bị chế ước bởi những quy
định đã được ấn định, có đoán định được trước và mọi người đều bị quản
lý bởi cùng các đạo luật.
Truyền
thống pháp luật tự nhiên cho rằng công lý và bất công không phụ thuộc
vào luật thực định (human/positive law). Augustine, nhà triết học có
ảnh hưởng lớn đầu tiên thời trung cổ, cho rằng công lý cao hơn nhà nước
và là vĩnh cửu. Công lý tự nhiên cao hơn luật pháp và luật pháp không
công bằng thì không phải là luật pháp. Còn Thomas Aquinas, nhà triết học
và thần học Italia trong truyền thống kinh viện chủ nghĩa, cũng cho
rằng những đạo luật nhân định có thể công bằng hay không công bằng.
Trong thực tế, công lý là khái niệm có nội hàm rộng hơn pháp luật khái
niệm luật pháp và công lý cung cấp những tiêu chí để đánh giá luật thực
định. Một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập
với các quyền tự nhiên. Bất công chính là những hành vi liên quan đến
việc vi phạm các quyền tự nhiên như các tội giết người, hành hung, trộm
cắp, bắt cóc, nô lệ, hiếp dâm, gian lận hoặc các hành vi có ảnh hưởng
nhất định đến sự phân phối thịnh vượng, thu nhập. Không có cách phân
phối cụ thể nào được coi là công bằng hoặc không công bằng từ sự lựa
chọn của các cá nhân. Sự phân phối lợi ích và chi phí chỉ được coi là
công bằng nếu người đó được tự do lựa chọn trao đổi với người khác.
Trong
xã hội hiện đại, những giải thích về công lý có khuynh hướng tập trung
vào việc làm thế nào để xã hội có thể phân phối một cách công bằng nhất
những gánh nặng và phúc lợi của đời sống xã hội, từ đó đã đưa khái niệm
công lý mang tính thực tiễn và chính trị hơn là một quan niệm siêu hình
trước đây. F.A. Hayek, khẳng định sự tương đồng giữa tính “mù” của công
lý và cạnh tranh, theo ông, công lý và cạnh tranh đều không thiên vị ai
và pháp luật chính là công lý hình thức.[5]
Còn John Rawls đã định nghĩa công lý như là sự công bằng và công lý
chính là chuẩn mực của một xã hội lý tưởng. Chuẩn mực của công bằng
trong một thể chế xã hội cụ thể chính là nguyên tắc phân chia quyền lợi
và nghĩa vụ cho mỗi cá nhân. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con
người tự nguyện cùng tham dự vào quá trình hợp tác xã hội để làm sao mỗi
cá nhân giành được lợi ích nhiều hơn so với khi họ sống đơn lẻ.
2. Về mối quan hệ giữa công lý và luật pháp
Theo
định nghĩa truyền thống, pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật
do nhà nước đặt ra hay thừa nhận thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị xã hội, có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo đường lối của nhà nước. Ở
đây, cũng cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm “pháp luật” và “luật
pháp”. Luật chỉ là hình thức tồn tại của pháp luật và nó sẽ mất đi tính
pháp quyền nếu nó không phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật. Luật pháp thực chất là sự định giới được mọi người chấp nhận và
mang tính phi ngã (không lệ thuộc vào ý kiến và ý muốn của cá nhân) về
các quyền hay ý niệm về thể cân bằng phải có giữa tự do cá thể và lợi
ích toàn thể.
Theo
cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về mối quan hệ giữa con người
và pháp luật trong chế độ dân chủ, con người luôn được coi là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Trong chế độ dân
chủ, “không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì
con người... Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”.
Pháp luật là yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, do đó nó không thể cao
hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội, pháp luật là sự
biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do phương thức sản
xuất nhất định sinh ra. Về phương pháp luận chỉ đạo các nguyên tắc hoạt
động sáng tạo pháp luật trong hệ thống pháp luật XHCN, C.Mác đã khẳng
định tầm quan trọng của “những quy luật nội tại của những mối quan hệ
tinh thần” như những quy luật khách quan mà luật thực định phải phản ánh
và cụ thể hoá trong các đạo luật: “Nhà lập pháp phải coi mình như là
nhà khoa học tự nhiên. Ông ta không làm ra luật, ông ta không phát minh
ra chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại
của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý
thức. Chúng ta sẽ phải chê trách nhà làm luật là vô cùng tuỳ tiện, nếu
như ông ta thay thế bản chất của sự vật bằng nhiều điều bịa đặt của
mình”.
Ngày
nay, công lý được coi là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì
chân lí, vì công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí
của nhân dân, được xã hội và pháp luật thừa nhận. Trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, một số quan điểm nghiên cứu đã cho rằng
pháp luật không chỉ đơn thuần là sản phẩm “độc quyền” của nhà nước mà
trước hết phải là sự kết tinh thiêng liêng những giá trị cao quý trong
xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản, lương tri và đạo lý mà
không một ai bác bỏ được để trở thành lẽ phải đương nhiên như tự do,
bình đẳng, công lý, công minh. Nhà nước phải thừa nhận và phục tùng lẽ
phải và công lý, lấy đó làm thước đo để hướng tới sự phù hợp và hoàn
thiện để củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh của mình.
Luật
pháp và công lý có mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Luật pháp phục vụ công
lý nếu nó giúp tạo dựng sự bình yên và bảo vệ các quyền cá nhân của con
người bị vi phạm. Tuy nhiên luật pháp cũng có thể tự nó lạm dụng quyền
lực để vi phạm các quyền con người hoặc nhằm vi phạm các quyền của bên
thứ ba. Một đạo luật được coi là áp dụng một cách công bằng nếu nó được
áp dụng một cách công khai, minh bạch, không thiên vị và nhất quán. Bất
công sẽ xảy ra nếu những trường hợp tương tự như nhau không được xử lý
bằng một cách thức như nhau. Luật pháp cần xử lý các trường hợp như nhau
với cách thức như nhau trừ khi có các tình tiết khác. Tuy nhiên, cũng
cần nhấn mạnh rằng luật pháp và công lý là hai khái niệm không hoàn toàn
đồng nhất, thậm chí, trong một số xã hội, luật pháp đôi khi đi chệch
hướng hoặc đối nghịch với công lý...
Nguyễn Xuân Tùng
[1] Nguyễn Anh Tuấn: Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước lưỡng hà cổ đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2008.
[2] Will Durant: Nguồn gốc văn minh, Nhà Xuất bản văn hoá thông tin, năm 2006.
[3] Will Durant: Câu chuyện triết học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2009.
[4] Raymond Wacks: Triết học luật pháp (Phạm Kiều Tùng dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2011.
[5] F.A. Hayek: Đường về nô lệ (Phạm Nguyên Trường dịch), Nhà xuất bản tri thức, năm 2009.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét