Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
LUẬT PHÁP VÀ NHÂN DÂN, NHÌN TỪ CƯỠNG CHẾ ĐẤT ĐAI
16:45
Hoàng Phong Nhã
No comments
TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức, theo BVN
Vụ cưỡng chế thu hồi 5,8 ha đất của 166
hộ dân Xuân Quan, Văn Giang, sử dụng tới ngàn nhân viên công lực, tỷ lệ
áp đảo 6-7 nhân viên công lực / 1 đối tượng cưỡng chế, kéo dài từ 7 giờ
sáng tới 11 giờ trưa, được Phó Chủ tịch tỉnh Hưng Yên, Nguyễn Khắc Hào
báo cáo trước Thủ tướng là đã “hoàn thành” và “đúng luật”, mà không hề
tự đặt ra bất cứ một câu hỏi nào day dứt về trách nhiệm chính quyền điạ
phương đối với lợi ích, số phận sống còn, mưu sinh của 166 hộ dân bị
cưỡng chế, vốn cũng là nhân dân; không thể không đặt ra câu hỏi: chẳng
nhẽ chính quyền sinh ra cứ miễn hành xử đúng luật là xong? Hay 166 đối
tượng cưỡng chế không thuộc nhân dân? Cách đây 22 năm, năm 1990, Helmut
Kohl, Thủ tướng CHLB Đức lúc đó, long trọng cam kết, nước Đức tái thống
nhất sẽ không có một người dân Đông Đức nào cuộc sống thấp hơn trước.
Ngay sau đó, Ngân hàng Liên bang Đức đưa ra tỷ lệ đổi tiền, 2 Đông Đức
mark ăn 1 Tây Đức mark, lập tức nhiều thành phố Đông Đức, hàng trăm ngàn
người dân từng hừng hực biểu tình đòi thống nhất đất nước, đổ xuống
đường phản đối tỷ lệ trên với khẩu hiệu: Chúng tôi cũng là nhân dân,
chúng tôi không phải một nửa người Đức, buộc Dự thảo Hiệp ước Liên minh
Tiền tệ hai nước Đức phải thay đổi. Vụ Văn Giang ở ta, 166 hộ bị cưỡng
chế rõ ràng không nằm ngoài nhân dân, họ chống thu hồi, chỉ do bị thua
thiệt quyền lợi so với Ecopark, mà lẽ ra chính quyền điạ phương của dân
do dân vì dân, phải có bổn phận công bộc đứng về phiá họ bênh vực, tương
tự như người dân Đông Đức biểu tình vì thấy mình bị thua thiệt một nửa
so với Tây Đức hoàn toàn không nhằm chống phá hay lật đổ nhà nước vốn
được chính họ vừa mới trước đó đấu tranh tạo dựng nên.
Cùng thời gian từ vụ cưỡng chế Tiên Lãng
tới vụ cưỡng chế Tiên Lãng Văn Giang, đến nay ở Đức dư luận vẫn tiếp tục
lên tiếng, đòi Bộ trưởng Nội vụ các Tiểu bang phải rút ra bài học cay
đắng từ sự kiện Bộ trưởng Nội vụ Tiểu bang Niedersachsen ra lệnh cưỡng
chế, trục xuất một gia đình người Việt 4 thành viên, nhưng sau 83 ngày,
dưới áp lực chính trường, các tổ chức dân sự, hội đoàn, công luận, buộc
phải đón trở lại, gánh chịu toàn bộ phí tổn trục xuất lẫn tái nhập cảnh,
bảo đảm mọi điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, việc làm cho gia đình
họ; mặc dù vụ trục xuất hoàn toàn đúng cả về văn bản pháp lý áp dụng,
lẫn trình tự, thủ tục thi hành: Hai vợ chồng người Việt nhập cư bất hợp
pháp vào Đức hai mươi năm trước, được chính quyền vận dụng mọi điều
khoản Luật Tỵ nạn, Luật Ngoại kiều xét quyền ở lại, nhưng đều không đủ
điều kiện; cho khiếu nại lên Quốc hội xem xét nhân đạo cũng bị từ chối,
đệ đơn lên Ủy ban cứu xét các trường hợp đặc biệt cũng bị bác bỏ, với lý
do người chồng đã vi phạm pháp luật trong quá khứ, từng 1 lần khai tên
giả, 1 lần trốn sống lưu vong, 1 lần vào nhà Thờ tỵ nạn, để trốn tránh
trục xuất. Khi mọi khả năng pháp lý cứu xét ở lại chấm hết, Bộ trưởng
Nội vụ Tiểu bang vốn chịu trách nhiệm pháp lý về trục xuất, liền ký lệnh
cưỡng chế. Tuy nhiên, tới thời điểm này, gia đình người Việt đã có 20
năm, tức 1/5 đời người gắn chặt với nước Đức, con cái sinh ra ở Đức đi
học trường Đức, bố mẹ làm việc cho công ty Đức, đóng thuế, sinh hoạt
cộng đồng với người Đức như người Đức, nay bỗng chốc bị trục xuất ra
khỏi nước Đức làm dân xóm, các đảng phái, nghị sỹ các cấp, các tổ chức
dân sự, công ty, trường học nơi gia đình người Việt làm việc, con cái
theo học, tất cả đều cảm giác như nhà nước Đức đã đuổi một công dân Đức
ra khỏi tổ quốc họ, lập tức đồng loạt lên tiếng bảo vệ, chỉ trích Bộ
trưởng hành xử không nhân tính, dù đúng pháp luật, đòi dứt khoát phải
đón trở lại. Bởi nhà nước dân chủ, thực chất chỉ là công cụ phục vụ
người dân, chứ không phải ngược lại; pháp luật cũng vậy, do nhà nước đẻ
ra, chứ không phải từ trên trời rơi xuống; nhà chức trách không thể như
“thiên lôi”, pháp luật “chỉ đâu đánh đấy”, phải biết “dừng tay” một khi
cuộc sống, mệnh hệ người dân bị đe doạ dù đó là văn bản pháp lý gì.
Nguyên lý pháp luật phải vì dân nói trên, chắc chắn ở cấp Phó Chủ tịch
tỉnh không thể không biết, nhưng báo cáo của ông Nguyễn Khắc Hào cho
thấy một sự ngộ nhận trầm trọng khi áp dụng vào thực tế, cần được công
luận làm sáng tỏ, nếu không muốn lặp lại làm dân chúng bất bình, chính
quyền bị tai tiếng, châm ngòi cho mọi nguy cơ bất ổn xã hội bùng nổ, vốn
trong thế giới hiện đại có khi chỉ từ một hiện tượng đơn lẻ bất ngờ như
vụ tự thiêu ở Tunisia.
Dù đất đai thuộc sở hữu gì, thì bất cứ
nhà nước nào cũng có quyền “thu hồi” để phục vụ lợi ích công cộng, không
phải chỉ khi đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước mới có quyền đó,
như nhiều ngộ nhận. Nhưng thu hồi đất ở Văn Giang hoàn toàn không phải
để nhà nước sử dụng với mục đích công mà để giao lại cho Ecopark cũng là
tư nhân, chủ tư bản đầu tư sử dụng. Do đó, vụ cưỡng chế, dù văn bản
luật nào cho phép, thì thực chất vẫn là nhà nước áp dụng biện pháp hành
chính để giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất đai vì mục đích kinh tế
chứ không phải mục đích công, vốn bình đẳng ngang nhau giữa một bên là
166 hộ dân và bên kia Ecopark; nhưng nhà nước lại đứng về phiá chủ tư
bản Ecopark. Đây chính là bản chất, gốc rễ dẫn tới chống thu hồi, có thể
xảy ra bất cứ đâu, không chỉ ở ta, mà bất kỳ quốc gia nào, trong thời
đại nào, không phụ thuộc người dân là ai, cấp chính quyền nào hành xử,
một khi thay vì lấy chuẩn mực công bằng làm thước đo giải quyết tranh
chấp lợi ích để cả hai bên cùng thoả mãn, thì lại sử dụng cưỡng chế, vốn
là một biện pháp hành chính, đồng nghĩa sử dụng bạo lực nhà nước nhắm
vào người dân – chủ nhân của mình. Đó là ngọn nguồn của mọi bất ổn.
Để lý giải cưỡng chế là đúng đắn, báo cáo
xuất phát từ quan điểm so sánh giữa lợi ích Ecopark sử dụng đạt “hiệu
quả kinh tế cao” hơn để nguyên cho hộ nông dân sử dụng, dẫn tới ngộ
nhận, thu hồi đất giao cho Ecopark (chủ tư bản) sử dụng là “chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”. Quan điểm này hoàn toàn
mâu thuẫn với tôn chỉ mục đích của mọi đảng Cộng sản theo học thuyết Mác
trên thế giới dù nước họ theo chế độ xã hội nào, được chính Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tuyên cáo trong chuyến thăm Cuba vừa qua: “Quyền lực
đó (của nhà nước tư bản) vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có, phục vụ
cho lợi ích của các tập đoàn tư bản”. Chính để tránh nguy cơ tiềm ẩn từ
định đề trích kinh điển chủ nghĩa Mác trên, các nước công nghiệp hiện
đại vốn thừa nhận, kích thích “hiệu quả kinh tế cao” của tư bản, đã
không bao giờ đứng về phiá tư bản trong bất kỳ giải quyết tranh chấp
quyền lợi nào với người dân. Ở Đức, đố ông chủ nhà nào dám đuổi lập tức
người thuê nhà ra đường dù họ không trả tiền nhà, đố ông chủ doanh
nghiệp nào dám thải hồi ngay người lao động mà họ không hề vi phạm pháp
lý gì, đố ông chủ ngân hàng nào dám xiết nợ chỗ ở dùng thế chấp, một khi
họ không chốn nương thân, đố ông chủ bệnh viện nào dám đuổi bệnh nhân
ra khỏi bệnh viện dù họ không trả viện phí… Trong các trường hợp trên,
để đảm bảo lợi ích cho nhà tư bản, nhà nước chỉ còn cách đứng ra bảo
lãnh cuộc sống cho người dân, một khi họ không thể tự đảm đương nổi, chứ
không phải đứng về phiá giới chủ cưỡng chế người dân, bất chấp vận mệnh
của họ. Vụ cưỡng chế mang bản chất tranh chấp lợi ích giữa tư bản và
nông dân như ở Văn Giang chưa và không bao giờ xảy ra ở Đức, tính từ
Hiến pháp 1949. Quan điểm lấy “hiệu quả kinh tế” làm thước đo giải quyết
tranh chấp quyền lợi có thể phân tích sâu xa hơn cả trên bình diện quốc
tế, nếu biết rằng thực dân Pháp từng mang “lá cờ bình đẳng tự do bác
ái”, “khai hoá văn minh” cho An Nam, để “cướp đất nước ta, áp bức đồng
bào ta”.
Từ ngộ nhận trên đã dẫn tới hàng loạt hệ
lụy gây bức xúc dân chúng, công luận, đặt cho nhà nước nhiều vấn đề
chính sách phải trả lời, nếu không muốn bất ổn đất đai tiếp tục. Trước
hết chính quyền điạ phương vốn là cấp thi hành, nhưng hoàn toàn quan
liêu, thiếu dẫn liệu, khi báo cáo với Thủ tướng, cưỡng chế “được đông
đảo nhân dân đồng tình ủng hộ [cụ thể bao nhiêu 51% hay 99% và họ là
ai?]”, “không thể vì một số người chống đối [166 người là số nhiều hay
số ít?] mà không triển khai thực hiện”, trong khi đó, mức độ chênh lệch
lợi ích giữa hai bên tranh chấp, có thể định lượng được: Ecopark bán giá
căn hộ trên dưới 20 triệu đồng/ m2, giá biệt thự và nhà phố trên dưới
45 triệu đồng/ m2, so với giá đền bù chỉ 135.000 đồng/m2, vốn quyết định
tầm cấp tranh chấp lại không đề cập tới, để giải quyết. Ở Đức, với siêu
bất bình đẳng lợi ích này, không cần công luận lên tiếng, nhà nước đã
phải can thiệp, nếu xảy ra ở nước họ. Đến như xăng dầu hay thực phẩm,
khi giá cả leo thang, lo ngại tư bản đầu cơ nâng giá gây thiệt hại người
dân, luật pháp buộc chủ kinh doanh phải bạch hoá ngay với cơ quan chức
năng, đầu vào, đầu ra, thậm chí quy định cả thời điểm nâng giá, để khống
chế lợi nhuận đầu cơ (chứ không phải cưỡng chế, bởi kinh doanh thuộc
quyền tự do).
Tranh chấp lợi ích giữa 166 hộ dân với
Ecopark là tranh chấp dân sự, vì lợi ích kinh tế, nhưng để biện minh cho
cưỡng chế hành chính, báo cáo đã chính trị hoá, không cần bằng chứng,
đẩy lên thành tranh chấp đối kháng địch ta giữa “bọn phản động trong
nước và nước ngoài” với đảng và nhà nước, lẫn hình sự hoá, quy kết người
dân không chấp hành là “chống đảng và nhà nước”, “lợi dụng dân chủ”,
“hùa theo” những “phần tử tiêu cực, bất mãn, phản động”. Một khi cưỡng
chế được xác định chống lại “bọn phản động”, phải chiến thắng, thì nó sẽ
tuân theo quy luật cuộc chiến; một số người dân, phóng viên tại hiện
trường bị vô cớ bắt bớ đánh đập như đã xảy ra chính nằm trong quy luật
đó. Hệ lụy chưa biết rồi sẽ tới đâu, khi báo cáo còn đề xuất: “xử lý
được 9 người [cầm đầu] sẽ khắc phục được tình trạng tập trung đông
người, kéo lên cơ quan Trung ương hiện nay”, mặc dù họ chỉ cùng nhau bảo
vệ lợi ích mình, vốn dĩ bản năng của con người. Rốt cuộc, người thiệt
hại không phải “bọn phản động” nào cả, mà chính 166 hộ dân không được
nhà nước bảo vệ lợi ích so với Ecopark; bao ngưòi dân, lẫn nhà báo tại
hiện trường bị hành hung, bắt giữ; những tiếng nói bảo vệ lợi ích cho
người dân bị coi như “bọn phản động”. Về mặt chính trị xã hội, nếu đề
xuất xử lý trên được thực hiện, tương lai người dân sẽ bị cô lập ở điạ
phương, tiền đề cho một chính quyền cát cứ, đồng thời gây hội chứng đạo
đức vô cảm trước nỗi khốn cùng của đồng loại, bởi ai muốn giúp đỡ bảo
vệ, đều sợ liên lụy.
“Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã
hội”, không chỉ Phó Chủ tịch Nguyễn Khắc Hào, mà chắc chắn bất cứ ai
ngồi vào vị trí đó cũng có thể hành xử tương tự, khi báo cáo khẳng định,
cưỡng chế “do chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh,
các cơ quan chức năng của tỉnh và sự hỗ trợ tích cực của Bộ Công an”,
nghĩa là trách nhiệm thuộc toàn bộ hệ thống chính trị cả dọc lẫn ngang,
nên ai ký lệnh cưỡng chế cũng vậy, dù hậu quả tới đâu, đều không phải
chịu trách nhiệm pháp lý như trường hợp Bộ trưởng Nội vụ Niedersachsen
Đức. Mối quan hệ đảng, các cấp ban ngành nhà nước, ở quốc gia nào cũng
có, không một quyết định chính sách nhà nước nào theo chế độ dân chủ
nghị viện không qua những rào cản như chính phủ, quốc hội, tổng thống,
đảng họ, nhưng ở các quốc gia hiện đại, bất cứ quyết định chính trị,
hành chính nào, người ký lệnh thi hành đều phải gánh trách nhiệm, chịu
đào thải, bằng từ nhiệm hoặc miễn nhiệm, cho dù bao nhiêu cấp thông qua.
Guido Westerwelle, người tiền nhiệm của Philipp Rösler Chủ tịch đảng
FDP, Phó Thủ tướng Đức, gốc Việt hiện nay, từng phải từ chức, do mắc sai
lầm bỏ phiếu trắng tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về Lybia bị công
luận chính trường phản đối kịch liệt, mặc dù đó là quyết định của Chính
phủ Đức, không phải chỉ cá nhân Westerwelle.
Lời cảnh báo của Cựu Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Văn An ngay giữa nghị trường trước đây: “Đừng lôi Đảng vào!”,
phản ảnh chính nguyên lý đào thải trên. Niềm tin vào đảng cầm quyền và
nhà nước chính nhờ nguyên lý đó, bảo đảm cho người dân luôn yên tâm với
chính sách luật pháp nhà nước, không bị biến thái bởi những nhân sự yếu
kém của bộ máy nhà nước lấy uy danh đảng, nhà nước làm bình phong che
chắn. Vì vậy, nguyên lý đào thải trên, ở ta cần được hiến định và luật
hoá như các nước hiện đại, sử dụng chế tài điều chỉnh mọi hoạt động,
chức danh, trong bộ máy chính quyền từ tổng thống trở xuống; trong đó
dấu hiệu đặc biệt quan trọng quyết định niềm tin ở dân chính là tính
trung thực của quan chức, chính khách; mỗi phát ngôn trước chính trường
hay báo chí phải được coi là tuyên thệ, nghĩa là sai phải chịu đào thải.
Chỉ khi đó, cơ quan dân cử mới đủ sức mạnh thực sự, thay mặt dân giám
sát cơ quan công quyền cùng bộ máy nhân sự của nó. Cựu Tổng thống Đức
buộc phải từ chức ngày 31.5.2010, chỉ bởi phát ngôn trước quân đội đồn
trú Đức ở Afghanistan, sai đúng một câu: “Trường hợp khẩn cấp, can thiệp
quân sự là cần thiết để bảo vệ lợi ích nước Đức, như tự do thương mại
chẳng hạn”, bị chính trường chỉ trích kịch liệt, cáo buộc có tư tưởng sử
dụng quân đội sai Hiến pháp. Tới ngày 17.2.2012, Tổng thống kế nhiệm
Christian Wulf cũng buộc phải từ chức với nhiều lý do, trong đó có vụ
xảy ra hồi còn làm Thủ hiến Tiểu bang Niedersachsen trả lời chất vấn
Quốc hội Tiểu bang sai sự thực. Với câu hỏi có hay không mối quan hệ với
doanh nhân Egon Geerkens khi vay ưu đãi tín dụng vợ ông ta để làm nhà,
Wulf trả lời không, nhưng tới thời điểm trở thành Tổng thống bị dư luận
phát hiện là có.
Là công cụ phục vụ lợi ích từng người dân
(chứ không phải nhân dân chung chung), bất cứ văn bản luật nào một khi
có nguy cơ đe doạ cuộc sống, mệnh hệ của họ đều buộc phải dừng lại.
Chính thế, luật pháp phải luôn bổ sung, sửa đổi, thay thế, cải cách, bất
cứ lúc nào lợi ích người dân đặt ra. Vậy liệu 70% vụ khiếu kiện nước ta
thuộc về đất đai đã đủ gióng lên hồi chuông báo động đòi hỏi khẩn thiết
sửa đổi luật đất đai hiện hành hay chưa? Nếu không, còn phải đợi tới tỷ
lệ bao nhiêu nữa? Liệu tiếng nói tới 70% cử tri khiếu kiện vướng mắc về
đất đai đó, có đến được những Đại biểu Quốc hội mà chính họ đã từng gửi
gắm niềm tin bảo vệ quyền lợi cho bản thân mình nơi lá phiếu?
N. S. P.
___
Tiếng
Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi
khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã
được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của
Tiếng Nói Dân Chủ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét