Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014
Toàn cầu hóa và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là
một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường của các cuộc
cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Tuy thế,
giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác
biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số khía cạnh về ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế đến quan hệ cạnh tranh.
1. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến cạnh tranh quốc tế
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh
tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng
chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi
hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế
giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX trở lại
đây, sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các
nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước
đây.
Xu thế mới nhất trong sự phát triển của
nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế
ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực lực kinh tế
của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào
cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác,
cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng
ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển
theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa
kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp
của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp
cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu hóa hoàn
toàn không phải là "trò chơi" hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra
hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên
nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những nước và
doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi
động của thương mại và đầu tư quốc tế. Ngày nay, muốn tránh thua thiệt
và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi là phải
tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập.
Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi
ích mà các lực lượng tham dự có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương
mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng
này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí
vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc khuyếch
trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do
khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi ích mà
họ thu được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những
nước kém phát triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về
năng lực cung ứng các nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại.
Trong lúc nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng
chính sách mở cửa, thu hút FDI và đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút
ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển.
Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối
với toàn cầu hóa, nhưng không thể phủ nhận và né tránh ảnh hưởng khách
quan của nó đối với tất cả các nước. Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc
chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Xu
hướng này liên quan đến hàng loạt nhân tố, đó là : sự ra đời của thị
trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh chóng của hàng loạt công ty
mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng tạo kinh tế; sự xuất hiện
liên tục của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự gia tăng thường
xuyên sức ép trên thị trường chứng khoán đối với giá cổ phiếu; sự rút
ngắn vòng đời của sản phẩm và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu lực về mặt
pháp lý... Ngày nay, bất kỳ chủ thể nào muốn trụ vững và giành thắng
lợi trên thị trường khu vực và thế giới, đều phải tính toán đầy đủ các
nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh.
2. Về một số vấn đề liên quan đến Việt Nam
Phát triển đất nước theo đường lối đổi
mới, Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải
tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu rõ, phải "Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển... Trong quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và
giảm dần hàng rào bảo hộ". Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng
10-2003) Quốc hội khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh
tế trong ba năm vừa qua (2001 - 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng
về số lượng, nhưng chậm chuyển biến về chất lượng... Nhìn chung, sức
cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế đều thấp. Từ đó
nhấn mạnh một trong các giải pháp lớn là "phải tạo bước phát triển mới
về kinh tế đối ngoại... Năm 2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết
tâm cao về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với việc thực hiện
cam kết về lộ trình tham gia Khu vực Mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) và
phát triển các quan hệ kinh tế song phương, cần đẩy mạnh đàm phán gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với phương án thích hợp để sớm
trở thành thành viên của tổ chức này".
Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối
với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ.
Nhưng phân tích về thực chất cho thấy Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc
liên quan đến việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Một là, những vướng mắc về nhận thức.
Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu và
hoạch định chính sách ở cấp chiến lược, vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề
nên hội nhập như thế nào. Gắn liền với câu hỏi lớn này là hàng loạt vấn
đề cụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên như thế
nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp
hiện tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh
tranh quốc tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ
vào quá trình phát triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị
trường hiện đại? Phương thức hội nhập nên như thế nào: thông qua việc
tham gia vào các hiệp định đa phương, khu vực và song phương, thông qua
việc đơn phương tự do hóa, hay thông qua việc kết hợp các yếu tố này? Để
bổ trợ cho tự do hóa thương mại và đầu tư nhằm tối đa hóa các lợi ích
và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những biện pháp nào?
Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả năng cạnh tranh.
Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu
và du lịch (bao gồm kim ngạch xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu tính theo
đầu người; tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người, thu nhập
từ du lịch tính theo đầu người; tổng kim ngạch dịch vụ xuất khẩu).
Về khả năng cạnh tranh đầu tư (liên quan
đến các chỉ số: hoàn thành vốn gộp, tổng đầu tư cố định của tư nhân,
tăng trưởng tổng đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài thuần-tính theo
tổng số và trên đầu người): Tổng đầu tư nội địa của Việt Nam đạt tỷ lệ
25% GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực ASEAN (23 - 24%),
nhưng đầu tư nước ngoài (FDI) còn thấp hơn rất nhiều so với nhiều nước
trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Suất đầu
tư cho tăng trưởng (hệ số ICOR) của Việt Nam tăng nhanh và ở mức cao.
Về khu vực tài chính (liên quan đến các
chỉ số: tiền và tiền tương đương được tính bằng % của GDP; tín dụng
trong nước từ khu vực ngân hàng; tín dụng cấp cho khu vực tư nhân; đánh
giá mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế ; tổng tiết kiệm trong nước).
Tuy nhiên, khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở tình trạng kém
phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự phát
triển của khu vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng
cung cấp còn ở mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức
79/127 nước.
Về môi trường vĩ mô (bao gồm các chỉ số:
lạm phát, thâm hụt ngân sách, tổng thương mại, thuế nhập khẩu, tiền thu
từ tư nhân hóa): Phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của Việt Nam
được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức 26% - mức
quá cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).
Về quy chế môi trường kinh doanh (bao
gồm các chỉ tiêu: số lượng doanh nghiệp mới thành lập, về xử phạt hành
chính; chỉ số về nhận thức tham nhũng, chỉ số về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, về xử lý quan liêu của Chính phủ, mức độ hoạt động của kinh tế
ngầm, chỉ số về tự do kinh tế) : Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế thế
giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành
chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ
mở cửa của nền kinh tế. Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp
nhà nước (sửa đổi), nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp ứng
được các đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự
chủ, tự hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ
cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, "xin cho" và các đặc quyền đặc lợi
khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất tiền vay...). Đây chính là
những kẽ hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh
nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, không
muốn vươn lên bằng cạnh tranh lành mạnh. Những hạn chế này cũng là một
căn nguyên làm tăng thêm nạn tham nhũng và tiêu cực vốn còn đang rất
nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và
công nghệ (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng
dụng, số kỹ sư và nhà khoa học trên một triệu dân, tổng chi tiêu cho
nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới,
Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Hoạt động nghiên cứu
khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Chưa phân
biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt
động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa,
được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường
kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang nhiều
yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc mọi doanh
nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công nghệ.
Về công nghệ thông tin và truyền thông
(bao gồm các chỉ tiêu: số máy tính cá nhân trên 1000 người; số thuê bao
internet; chi phí gọi điện thoại trong nước và quốc tế; xếp hạng về sự
sẵn sàng trong kinh doanh điện tử...): Nếu so với trước đây, tốc độ tăng
trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh;
nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt
Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ
thông tin và truyền thông, do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử
dụng thư điện tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và
quốc tế còn cao...
Về kết cấu hạ tầng (bao gồm các chỉ số
như đường đã được lát nhựa hoặc bê-tông hóa trên tổng số đường hiện có;
số km2 đường được lát tính bình quân theo đầu người, mật độ điện thoại
cố định, mật độ điện thoại di động; tiêu thụ điện năng trên đầu
người...): Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn để
phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức 76/100 nước,
chỉ số về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 391 kWh (trong
khi Canada là 17.000 kWh/năm, Mỹ là 14.000 kWh/năm, Trung Quốc là 926
kWh/năm, Hồng Công là 5.700 kWh/năm, Nhật Bản là 8.200 kWh/năm, Malaysia
là 2.800 kWh, Thái Lan là 1.600 kWh, Singapore 8.100 kWh, Campuchia 20
kWh).
Về nhân lực (bao gồm chỉ số phát triển
con người, tỷ lệ lao động nữ, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ không được vào trung
học trong độ tuổi, mức rò rỉ chất xám ra nước ngoài): Trong năm 2003,
Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung bình yếu về nhân lực, xếp thứ
3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu vực; đáng lo ngại hơn là
trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao đều còn ở mức cuối
bảng.
3. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan
mang tính bao trùm của tình hình là do Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra
khỏi giai đoạn khởi động của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng chủ yếu vẫn là do
nguyên nhân chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ những khiếm khuyết trong
hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế chưa đủ
sức hấp dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển mạnh và đồng bộ sang thể chế
kinh tế thị trường. Khung pháp lý hiện có chưa đáp ứng kịp nhu cầu hình
thành và phát triển của các thị trường thiết yếu, bộ máy quản lý nhà
nước từ trung ương đến địa phương chưa đủ sức kiểm soát và ngăn chặn
được các "thị trường ngầm" gây nhiều tiêu cực. Trong việc thiết kế và áp
dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhiều cơ quan nhà nước vẫn thiên về
lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự coi trọng lợi ích và nhu cầu
chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình trạng phân biệt đối xử
với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những hình thái biến
tướng của bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm hãm khả năng
phát triển của đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để khắc phục.
Trong một số lĩnh vực, sự độc quyền của Nhà nước bị các tổng công ty lợi
dụng để biến thành đặc quyền riêng, biểu hiện ở giá cả của hầu hết sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính độc quyền đều cao hơn giá quốc tế,
dẫn đến làm tăng chi phí "đầu vào" của các doanh nghiệp. Trong khi đó,
chúng ta chưa xây dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho sự cạnh tranh
lành mạnh và bình đẳng. Áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh tranh quốc
tế ngày càng mạnh, nhưng nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn "đủng
đỉnh" để trông đợi vào sự đầu tư và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn ngân
sách đang khan hiếm và tín dụng ưu đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí vẫn
bao cấp tràn lan kéo dài cho nhiều doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn
không có hiệu quả. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp nhìn chung vẫn can
thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi lại bỏ
qua hoặc thực hiện không tốt những chức năng đích thực của mình. Biểu
hiện cụ thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng vừa thiếu hiệu lực, chưa
xây dựng được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và thống nhất phù hợp
với yêu cầu khách quan của cơ chế cạnh tranh thị trường trong điều kiện
toàn cầu hóa, quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất
lãng phí - nhất là đối với đất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng
tiền ngân sách...
Những thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu
kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh hưởng rất tiêu cực đến khả năng
tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc
tế của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng
tác động mạnh mẽ cần phối hợp trí tuệ của nhiều nhà khoa học và quản lý ở
nhiều cấp, nhiều ngành. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề chủ
yếu.
Trước hết, cần thống nhất nhận thức ưu
thế lớn nhất của nền kinh tế thị trường chính là ở tính cạnh tranh. Nói
cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường. Vì thế,
thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của nó. Muốn
có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh
tranh bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy định pháp
luật minh bạch, dễ hiểu, dễ làm.
Hai là, nhanh chóng xác lập những điều
kiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh. Theo đó cần xác định rõ chủ thể
thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và Nhà nước; đồng thời,
hình thành được hệ thống thị trường đồng bộ và hoàn thiện.
Ba là, có "công nghệ" xây dựng chính
sách cạnh tranh theo chuẩn mực hiện đại, phù hợp với đòi hỏi khách quan
của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Theo đó, kết hợp hợp lý
và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với kinh tế và biện pháp hành
chính cần thiết. Về các biện pháp pháp chế, xác định rõ chủ thể thị
trường và đưa ra những quy định thật khách quan và chặt chẽ để bảo đảm
các chủ thể đó luôn được đối xử bình đẳng - đó là điều kiện quan trọng
hàng đầu để duy trì cạnh tranh một cách công bằng; đồng thời phải chú
trọng tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với trật tự thị trường, thúc
đẩy việc thực hiện Luật Phá sản, sớm xây dựng và ban hành Luật Cạnh
tranh và chống độc quyền - làm cho luật này của Việt Nam ăn khớp với các
quy tắc thống nhất của khu vực và thế giới. Về các biện pháp kinh tế,
cần bảo đảm nguyên tắc không mâu thuẫn với các biện pháp pháp chế, trên
cơ sở đó xây dựng những nguyên tắc khách quan trong việc sử dụng các đòn
bẩy kinh tế như thuế, giá cả, tín dụng... để thúc đẩy cạnh tranh, đồng
thời, tất cả các chính sách khác có liên quan đều phải có tác dụng bảo
vệ và khuyến khích cạnh tranh, như chính sách phát triển các ngành,
chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính
sách việc làm và tiền lương... Về các biện pháp hành chính, cần chú ý
đến mối quan hệ giữa nó với các biện pháp pháp chế và các biện pháp kinh
tế; trên cơ sở đó, xác định rõ chức năng và quyền hạn của các cơ quan
chuyên trách và các chủ thể khác khi họ trực tiếp dùng quyền lực hành
chính để can thiệp, giám sát và quản lý các hành vi thị trường của các
doanh nghiệp. Các chức năng và quyền hạn đó đều phải được quy định rõ
ràng trong luật hành chính và có những điều khoản tương ứng trong Luật
Cạnh tranh.
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện
việc quốc tế hóa chính sách cạnh tranh. Việt Nam sớm có các tổ chức
chuyên trách xây dựng luật và chính sách cạnh tranh. Trong quá trình
này, cần chú trọng tính quốc tế hóa của luật và chính sách cạnh tranh
của Việt Nam (chú trọng các đối tác quan trọng như ASEAN, Mỹ, Nhật Bản,
EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD,
UNDP, UNCTAD...), đồng thời, đặc biệt lưu ý đến mối quan hệ giữa chính
sách và Luật Cạnh tranh của Việt Nam với cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO...
Theo TẠP CHÍ CỘNG SẢN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét