Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014
Các khía cạnh của vấn đề toàn cầu hóa nền kinh tế
Thuật
ngữ "Toàn cầu hóa" mới xuất hiện vào những thập niên gần đây. Trước hết
và chủ yếu là toàn cầu hóa kinh tế. Nhưng đời sống vật chất lại tác động
đến đời sống tinh thần, nên toàn cầu hóa kinh tế đã quyết định xu thế
phát triển của các lĩnh vực khác, như văn hoá, chính trị v.v...
Mầm mống của
xu thế toàn cầu hóa kinh tế có từ khi đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ
nghĩa được hình thành, nhưng nó chỉ thực sự bắt đầu trong bước chuyển từ
CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa
đế quốc, V.I. Lenin đã nhận định: "... mạng lưới dày đặc những mạch máu
ngân hàng lan rộng nhanh chóng như thế nào, nó bao phủ các nước, tập
trung hết thảy tư bản và các khoản thu nhập bằng tiền, biến hàng nghìn
hàng vạn doanh nghiệp tản mạn thành một đơn vị kinh tế tư bản chủ nghĩa
thống nhất toàn quốc, rồi sau đó thành một đơn vị kinh tế tư bản chủ
nghĩa thế giới" .
Toàn cầu hóa
kinh tế là trình độ phát triển cao của quốc tế hóa đời sống kinh tế. Ban
đầu là quốc tế hóa về thương phẩm và dịch vụ, mở rộng mậu dịch quốc tế,
hình thành thị trường toàn thế giới thống nhất. Tiếp theo là quốc tế
hóa về tư bản; việc xuất, nhập khẩu tư bản tăng lên, trước hết từ chính
quốc sang thuộc địa, rồi dần dần di chuyển trên phạm vi toàn cầu. Sau
cùng là quốc tế hóa về sản xuất; cách mạng khoa học - công nghệ cùng với
sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia đã tái hiện hình thức
phân công kiểu công trường thủ công trên phạm vi toàn cầu, khiến cho các
nền kinh tế dân tộc tuỳ thuộc vào nhau và hình thành toàn cầu hóa kinh
tế. Toàn cầu hóa kinh tế phát triển tác động đến các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội.
Toàn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ những nhân tố chủ yếu sau đây.
- Cách mạng khoa học và kỹ thuật trước đây và cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay
(nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ tự động hóa...) đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
vượt bậc, tạo ra những phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên
lạc hiện đại, mở rộng phân công lao động quốc tế trên phạm vi toàn cầu,
làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc.
- Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
Ngày nay, số lượng TNCs trên thế giới có khoảng 60.000 công ty mẹ,
chiếm 25% giá trị của sản xuất toàn cầu, 65% kim ngạch mậu dịch thế
giới,70% đầu tư nước ngoài, 90% công nghệ cao với một hệ thống chi nhánh
(công ty con) khoảng trên 500.000, như những vòi của con bạch tuộc
khổng lồ bao trùm khắp thế giới. Mặt khác, trao đổi giữa các chi nhánh
trong nội bộ TNCs ở các nước ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng giá trị thương mại của nhiều nước. Hầu hết các hoạt động đầu tư
nước ngoài được thực hiện qua kênh TNCs. Với lợi thế về quy mô vốn lớn,
kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn
TNCs tích cực đầu tư ra ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi
toàn cầu. TNCs ngày càng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy dòng FDI vào
các nước đang phát triển.
Tóm lại, cách
mạng khoa học và công nghệ cùng với sự bành trướng của TNCs đã thúc đẩy
phân công lao động quốc tế, nhất là phân công trong nội bộ ngành ngày
càng sâu rộng, thúc đẩy mậu dịch và đầu tư quốc tế tăng nhanh, làm tăng
sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc, phát triển mạnh mẽ
hơn xu thế toàn cầu hóa kinh tế và các lĩnh vực khác của xã hội.
Toàn cầu hóa
kinh tế là biểu hiện sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất,
nhưng không tách rời quan hệ sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay
diễn ra dưới sự chỉ đạo và chi phối của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa; ưu thế về kinh tế, khoa học và công nghệ nằm trong tay một số
nước tư bản chủ nghĩa phát triển và TNCS tư bản chủ nghĩa. Các chính phủ
của các nước ấy thao túng các quyết sách đa biên và hoạt động của các
tổ chức kinh tế quốc tế, như IMF, WB, WTO...
TNCs tư bản
chủ nghĩa là lực lượng đóng vai trò quyết định trong việc vận hành nền
kinh tế thế giới đương đại, thì tất nhiên lợi ích của toàn cầu hóa được
phân phối không công bằng, mang lại phần lớn cho các nước tư bản chủ
nghĩa, nhất là các tập đoàn độc quyền tư bản chủ nghĩa.
Với ý nghĩa
đó, có thể nói toàn cầu hóa kinh tế hiện nay mang tính chất tư bản chủ
nghĩa. Nhưng không thể coi tính chất tư bản chủ nghĩa là một thuộc tính
bất biến của toàn cầu hóa kinh tế, mà tính chất đó sẽ thay đổi theo sự
thay đổi của quan hệ sản xuất chi phối nó.
Mặt khác, hiện
nay trên thế giới vẫn đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước
công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển, giữa các lực lượng
tiến bộ và các lực lượng đế quốc nên các nước đang phát triển vẫn có thể
đoàn kết đấu tranh nhằm hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy mặt
tích cực của toàn cầu hóa, tiến tới lập một trật tự kinh tế quốc tế
công bằng, tôn trọng quyền lợi chính đáng của mọi quốc gia, nhất là các
nước nghèo.
Khi toàn cầu
hóa kinh tế còn chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
thì nó đặt ra cho các nước kém phát triển về kinh tế nhiều thách thức
hơn là thời cơ. Nhưng đây là một xu thế khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất. Bởi vậy, mỗi nước phải chủ động tìm cách ứng xử tốt
nhất để giành nhiều cái lợi, hạn chế tác hại, giảm thiểu rủi ro. Việc
chủ động hội nhập vào toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi phải vừa hợp tác vừa
đấu tranh để đảm bảo nguyên tắc cùng có lợi, chứ không phải là chống lại
toàn cầu hóa.
Nhìn một cách khái quát toàn cầu hóa kinh tế có những đặc điểm cơ bản sau đây:
-
Toàn cầu hóa kinh tế mang tính chất hai mặt: vừa có tác động tích cực
vừa có tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Về tác động
tích cực toàn cầu hóa kinh tế là kết quả của sự phát triển vượt bậc của
lực lượng sản xuất, nhưng nó lại tác động trở lại, thúc đẩy tốc độ phát
triển và trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất; mở rộng thị trường;
giao lưu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động thông thoáng hơn do giảm bớt
hàng rào thuế quan. Dòng đầu tư và chuyển giao công nghệ dưới nhiều hình
thức giúp các nước tiếp cận nguồn vốn, công nghệ mới từ nước ngoài, làm
sâu sắc thêm phân công lao động quốc tế, có lợi cho cả bên đầu tư và
bên tiếp nhận đầu tư.
Nhưng toàn cầu
hóa kinh tế cũng có mặt trái, đặt ra nhiều thách thức cho những nước
đang phát triển. Do toàn cầu hóa kinh tế chịu sự thao túng của các nước
tư bản chủ nghĩa phát triển nên sự phân cực giàu nghèo giữa các nước,
cũng như trong từng nước, ngày càng xa. Toàn cầu hóa kinh tế đặt các
nước đang phát triển vào một cuộc cạnh tranh không cân sức, nước nào
vượt qua được thì sẽ tiến nhanh, nước nào ứng phó thất bại thì sẽ bị mất
mát lớn, thậm chí thụt lùi. Nền kinh tế dân tộc của các nước đang phát
triển rất dễ bị tổn thương, nhất là về phương diện bảo đảm an toàn về
tài chính. Toàn cầu hóa cũng kéo theo cả những tội phạm xuyên quốc gia,
những tệ nạn xã hội mang tính toàn cầu và truyền bá những "văn hoá phẩm"
phi nhân bản, xâm hại bản sắc văn hoá dân tộc... Trong từng nước cũng
có tầng lớp dân cư được hưởng lợi từ toàn cầu hóa có tầng lớp bị thua
thiệt hay thất nghiệp, phá sản vì toàn cầu hóa.
Bởi vậy, mỗi
nước phải có một chiến lược tổng thể phù hợp với thực lực và bối cảnh
lịch sử cụ thể của nước mình để xử lý linh hoạt, nhằm tranh thủ cái lợi,
giảm bớt tác hại của toàn cầu hóa.
- Toàn cầu hóa kinh tế là xuất hiện tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược, nhưng không thuận buồm xuôi gió mà đầy mâu thuẫn.
Toàn cầu hóa kinh tế mở rộng biên giới kinh tế vượt biên giới lãnh thổ
quốc gia, mỗi nước tham gia toàn cầu hóa kinh tế, một mặt, phải thích
nghi với những quy tắc chung, phải từ bỏ một số quyền lợi dân tộc nào
đó, mặt khác vẫn phải bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng
của dân tộc. Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy nền kinh tế thế giới tăng
trưởng nhanh nhưng phân phối lợi ích lại ngày càng chênh lệch. Các nước
phát triển muốn dựa vào ưu thế về nhiều mặt để duy trì trật tự kinh tế
thế giới hiện tồn trong khi các nước đang phát triển lại muốn đòi lập
một trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng, cùng có lợi. Toàn cầu hóa
kinh tế đi cùng với khu vực hóa; tự do hóa xen lẫn với xu hướng bảo hộ,
nên cạnh tranh toàn cầu lại diễn ra cùng với cạnh tranh giữa các tổ chức
kinh tế khu vực, giữa tổ chức khu vực với quốc gia ngoài khu vực.
- Các chủ thể cùng hợp tác và đấu tranh, cùng tham gia hoạch định các thể chế về toàn cầu hóa kinh tế.
Đó là các quốc gia có chủ quyền, các tổ chức kinh tế khu vực, các tổ
chức kinh tế quốc tế (IMF, WB, WTO) và TNCs. Mặc dù ưu thế thuộc về các
nước phát triển nhất và TNCs lớn nhất, họ chi phối quyết sách của các tổ
chức quốc tế, nhưng không phải họ có thể mặc sức làm mưa làm gió theo ý
chí chủ quan của họ. Trên vũ đài quốc tế và trong từng tổ chức quốc tế
luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước công nghiệp phát triển
với các nước đang phát triển, giữa lực lượng tiến bộ với lực lượng đế
quốc và không ít những thoả thuận phản ánh sự đấu tranh và thoả hiệp
giữa các lực lượng đó.
- Kinh
tế phi vật thể ngày càng thoát ly kinh tế hiện vật và tồn tại độc lập,
khiến cho toàn cầu hóa kinh tế rất dễ bị xáo động bởi các cuộc khủng
hoảng. Hiện chỉ có khoảng 2% giao dịch tài chính, tiền tệ có quan
hệ với hàng hoá và dịch vụ. Cái gọi là "kinh tế bong bóng" tăng lên,
trở thành một nhân tố quan trọng làm cho hệ thống tài chính - tiền tệ
toàn cầu dễ bị xáo động. Tình trạng đó diễn ra trong bối cảnh chuyên môn
hóa và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng; TNCs cắm nhánh ở nhiều nước
và biến phân công quốc tế thành phân công trong nội bộ công ty, lôi cuốn
các quốc gia vào cùng một "dàn hợp xướng", nên chỉ một xáo động nhỏ
cũng có thể làm rung chuyển cả hệ thống; gây ra những cuộc khủng hoảng
lan rộng.
- Xu thế khu vực hóa tiếp tục diễn ra cùng với xu thế toàn cầu hóa.
Liên kết kinh tế khu vực diễn ra từ thấp đến cao, từ khu vực ưu đãi
thuế quan, khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường chung
hay cộng đồng kinh tế, và liên minh kinh tế. Giữa khu vực hoá và toàn
cầu hóa kinh tế vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn. Các tổ chức kinh
tế khu vực tự do hoá bên trong nhưng bảo hộ nghiêm ngặt với bên ngoài.
Tuy nhiên, xu hướng của khu vực hoá là từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để
vươn rộng ra không gian toàn cầu (thí dụ ASEAN cộng 1, ASEAN cộng 3; EU
cũng đang mở rộng về phía Đông,...). Sự mở rộng này sẽ từng bước tiệm
cận toàn cầu hóa. Với ý nghĩa này khu vực hoá thúc đẩy toàn cầu hóa.
Nhưng khu vực hoá tạm thời dẫn đến chia cắt thị trường thế giới thành
"từng mảnh"; cạnh tranh toàn cầu do đó thành cạnh tranh giữa các tổ chức
kinh tế khu vực và cạnh tranh giữa tổ chức kinh tế khu vực với những
quốc gia ngoài khu vực, nảy sinh những cuộc chiến tranh mậu dịch.
- Xu thế đa cực hoá kinh tế thế giới.
Toàn cầu hóa do các nước lớn chi phối, dẫn đến sự giành giật lợi ích
giữa các trung tâm kinh tế lớn và hình thành xu hướng đa cực hoá kinh tế
thế giới. Toàn cầu hóa làm tăng thêm sự biến động thực lực và thay đổi
so sánh lực lượng giữa các nước lớn. Hiện nay Mỹ vẫn là nước đứng đầu
thế giới về những ngành công nghệ cao, tiêu biểu là công nghệ thông tin;
về tổng giá trị sản lượng kinh tế; về thị trường. Nhưng Mỹ cũng có
những mặt hạn chế, như nợ của nhà nước tăng, mức tích luỹ thấp, nhập
siêu lớn, giá cả sức lao động cao,... Người ta dự đoán Mỹ vẫn tiếp tục
duy trì được địa vị đứng đầu trong tương lai, nhưng không thể độc quyền
thành một cực duy nhất với địa vị bá chủ thế giới.
- Phân
cực giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển vẫn sâu sắc
nhưng thế và lực của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên.
Xét về các mặt: mức độ tham gia toàn cầu hóa kinh tế, mức chiếm giữ thị
trường thế giới, sức cạnh tranh và khả năng chế ngự những nguy cơ của
thị trường... các nước đang phát triển đều kém xa các nước phát triển,
nên những nguồn lợi thu được từ toàn cầu hóa kinh tế của các nước đang
phát triển cũng kém xa các nước phát triển. Vì thế, dù toàn cầu hóa kinh
tế tạo điều kiện cho các nước đang phát triển có cơ hội đẩy mạnh và rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân,
nhưng một khi trật tự kinh tế thế giới hiện nay chưa được thay đổi căn
bản thì sự phân hoá hai cực Bắc - Nam vẫn tiếp diễn, thậm chí có thể
tăng thêm khi toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh.
- Sự phân hoá giữa các nước đang phát triển vẫn tiếp diễn.
Những năm qua các giao dịch kinh tế giữa các nước đang phát triển với
nhau không ngừng tăng lên, góp phần giảm bớt sự lệ thuộc vào các nước
phát triển, nhưng sự phân hoá các nước đang phát triển thành vẫn tiếp
diễn.
- Cách
mạng khoa học - công nghệ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức
xuất hiện ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao sẽ thúc đẩy nhanh
hơn toàn cầu hóa kinh tế và tác động mạnh các lĩnh vực xã hội, văn hoá,
chính trị. Những thành tựu khoa học, công nghệ mới càng thúc đẩy
nhanh sự phát triển và nâng cao trình độ quốc tế lực lượng sản xuất
đồng thời tác động mạnh xu thế phát triển trong các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội, tăng sự tuỳ thuộc giữa các nước và tăng xu thế toàn cầu
hóa, nhưng cũng đặt những nước không tiếp thu kịp các thành tựu của
cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức trước nguy cơ tụt hậu
xa hơn.
Nói tóm lại,
toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu và nó có tính hai mặt. Do đó, tham
gia hội nhập nền kinh tế thế giới, đối với mỗi quốc gia, trong đó có
Việt Nam, phải biết phát huy được những lợi thế, hạn chế những thách
thức, đảm bảo được lợi ích và chủ quyền dân tộc là chìa khóa cho sự phát
triển.
Theo TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGHỆ AN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét