Gs. Philips Kunig
Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013
7 đặc trưng của mô hình bảo hiến CHLB Đức
08:43 | 24/08/2012
Tài
phán Hiến pháp tồn tại ở nhiều nước khác nhau, muôn màu muôn vẻ, nhưng
đều có thể xếp vào hai nhóm mô hình: mô hình Hoa Kỳ và mô hình Đức - Áo.
Tòa án tối cao Liên bang Hoa Kỳ được xem là cơ quan tài phán Hiến pháp
có quyền lực nhất trên thế giới. Tuy nhiên, mô hình tài phán hiến pháp
phổ biến nhất trên thế giới lại thuộc về người Đức. 7 đặc trưng của mô
hình tài phán Hiến pháp Đức sẽ góp phần lý giải sự thành công của mô
hình này ở các môi trường chính trị, văn hóa khác nhau, điều mà mô hình
Hoa Kỳ không có được.
1. Tài phán Hiến pháp tập trung
Trong
mô hình Hoa Kỳ, mọi tòa án đều có nghĩa vụ từ chối áp dụng một đạo
luật, nếu thấy đạo luật này vi hiến. Những nhà lập Hiến của Hoa Kỳ năm
1787 cho rằng không chỉ Tòa án Tối cao liên bang, mà tất cả các tòa án
các cấp của Liên bang đều có nghĩa vụ vô hiệu hóa các hành vi vi hiến.
Nói cách khác, tài phán Hiến pháp ở Hoa Kỳ thuộc về cành quyền lực tư
pháp nói chung chứ không thuộc riêng về một tòa án nào. Người ta gọi đó
là mô hình phi tập trung.
Khi Hans
Kelsen lần đầu tiên vào năm 1920 giới thiệu mô hình tài phán Hiến pháp
Áo - Đức, dĩ nhiên ông cũng đã nghiên cứu mô hình Hoa Kỳ. Nhưng nguyên
tắc “Nghị viện tối cao” cộng với truyền thống luật thực định lúc đó ở
châu Âu còn quá mạnh, nên mô hình phi tập trung không được chấp nhận ở
Áo năm 1920 cũng như ở Đức năm 1949. Vì nếu một tòa án cấp huyện cũng có
thể tuyên bố một đạo luật của Nghị viện là vi hiến, thì “lòng tự trọng
của Nghị viện” sẽ bị tổn hại ghê gớm và điều này là không thể chấp nhận
được đối với các nghị sỹ Đức đương thời. Hệ thống án lệ của Áo - Đức bấy
giờ không mạnh, vì thế, hệ thống tài phán Hiến pháp phi tập trung sẽ
gây tổn hại cho nguyên tắc hệ thống pháp luật thống nhất vì cùng một
điều khoản Hiến pháp sẽ được các tòa án khác nhau giải thích khác nhau
dù hai vụ án có nội dung, đặc điểm giống nhau.
Hans
Kelsen cũng phản đối việc áp dụng mô hình Hoa Kỳ ở Áo vì lý do chất
lượng và quy trình đào tạo thẩm phán. Mô hình phi tập trung đòi hỏi
trình độ của tất cả các thẩm phán phải rất cao, không riêng gì thẩm phán
tòa án tối cao. Nhưng ở châu Âu đầu thế kỷ XX, cũng như Việt Nam hiện
nay, các thẩm phán thường tốt nghiệp luật học, sau đó làm thư ký tòa án
một thời gian trước khi được bổ nhiệm làm thẩm phán. Hans Kelsen tin
rằng, các thẩm phán như vậy không có đủ kinh nghiệm và kiến thức để thực
thi quyền tài phán Hiến pháp. Ngược lại, ở Hoa Kỳ, muốn đăng ký học
chương trình cử nhân luật học, học viên phải tốt nghiệp cử nhân hoặc kỹ
sư của một ngành khác. Thêm nữa, tập quán ở Hoa Kỳ thường bổ nhiệm thẩm
phán từ các luật sư kỳ cựu chứ không phải từ các nhân viên văn phòng như
các thư ký tòa án.
Thay cho lập luận
dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập cứng rắn để đi đến tài phán Hiến
pháp như Alexander Halmilton và John Marshall ở Hoa Kỳ, các luật gia Áo
- Đức dựa trên quan niệm người bảo vệ Hiến pháp (Verfasungshỹter).
Người bảo vệ này có thể là một cơ quan chứ không nhất thiết phải là cả
hệ thống tư pháp. Vì thẩm quyền tài phán Hiến pháp chỉ thuộc về một cơ
quan nên người ta gọi mô hình này là mô hình tập trung.
2. Tài phán cụ thể và tài phán trừu tượng
Các
tòa án liên bang Hoa Kỳ chỉ có thẩm quyền tài phán Hiến pháp đối với
các vụ việc cụ thể đã xảy ra và quyền lợi của các chủ thể trên thực tế
đã bị xâm hại bởi các hành vi vi hiến. Tòa án liên bang Hoa Kỳ không xem
xét các hành vi vi hiến sẽ xảy ra hay có thể xảy ra trong tương lai.
Điều này một phần xuất phát từ triết lý “chân lý luôn mang tính cụ thể”
của người Mỹ. Sự tự hạn chế thẩm quyền tài phán đồng thời cũng là một
nguyên tắc chung trong hoạt động của tòa án Hoa Kỳ, bởi họ quan niệm nếu
làm ngược lại, thì tòa án sẽ ngày càng có khuynh hướng can dự nhiều vào
chính trị, ảnh hưởng đến thiên chức độc lập của tòa án. Vì nếu tòa án
thụ lý cả những vụ án trừu tượng, trong đó nguyên đơn chỉ cần nại ra
rằng một đạo luật của Nghị viện là vi hiến mà chưa có các sự kiện, hành
vi xảy ra trên thực tế, chưa có chủ thể nào bị xâm hại quyền lợi, rất có
thể dẫn đến hiện tượng phe thiểu số trong Nghị viện sau khi thất bại
trong việc cản trở phe đa số thông qua một dự luật nào đó sẽ sử dụng tòa
án như là “Viện lập pháp thứ ba” để tiếp tục cản trở một dự luật có
hiệu lực. Trong giai đoạn tài phán Hiến pháp mới hình thành, nhận thức
của công chúng về vai trò của nó chưa được rõ ràng, việc trực tiếp tuyên
bố một đạo luật là vi hiến sẽ đặt cơ quan tài phán đối chọi trực tiếp
với lập pháp và hành pháp. Chánh án Tòa tối cao Liên bang Hoa Kỳ John
Marshall trong vụ án Marburry v Madison đã sáng suốt nhận ra bối cảnh
chính trị Hoa Kỳ năm 1803 chưa cho phép điều này, nên đã giới hạn thẩm
quyền tài phán Hiến pháp đối với các vụ việc cụ thể.
Hơn
một trăm năm sau, tại thời điểm ra đời mô hình tài phán Hiến pháp Áo -
Đức, bối cảnh chính trị, đặc biệt là nhận thức của công chúng có nhiều
thuận lợi hơn cho tài phán Hiến pháp. Việc mở rộng quyền tài phán trừu
tượng dẫn đến Tòa án hiến pháp Đức - Áo có quyền trực tiếp tuyên bố một
đạo luật là vi hiến, không còn giá trị pháp lý. Trong mô hình này, thẩm
quyền của cơ quan tài phán đã được mở rộng, bao gồm không chỉ tài phán
cụ thể, mà cả tài phán trừu tượng, bởi nếu chỉ dừng lại ở tài phán cụ
thể sẽ gặp hạn chế trong hai trường hợp:
Thứ
nhất, đối với những hành vi vi hiến thụ động như việc Nghị viện không
ban hành một đạo luật áp dụng chế tài cần thiết, hoặc đã gián tiếp tạo
khe hở cho những người như Chí Phèo của Việt Nam chửi cả làng, dẫn đến
quyền được sống trong môi trường văn hóa lành mạnh của họ bị ảnh hưởng.
Theo ngôn ngữ hàn lâm có nghĩa là trong một số hoàn cảnh nhất định làm
xuất hiện những quyền khách quan. Việc xâm phạm quyền này là trái với
hiến pháp, nhưng lại không xác định được người bị hại cụ thể nên không
thể trở thành đối tượng của tài phán cụ thể. Thậm chí đối với quyền gắn
liền chủ thể, khi có hành vi xâm phạm quyền này đã diễn ra trên thực tế,
nhưng người bị hại không khởi kiện thì cũng không thể trở thành đối
tượng xét xử của tài phán cụ thể.
Thứ
hai, nếu chờ cho một điều ước quốc tế có hiệu lực và thực tế xâm hại
quyền cơ bản của công dân rồi mới đưa ra tòa án hiến pháp có lẽ đã quá
muộn, bởi nếu tòa án có tuyên bố điều ước đó là vi hiến, thì dường như
chẳng thể nào làm thay đổi hiệu lực của điều ước đó, vấn đề đã vượt ra
khỏi phạm vi một quốc gia.
Để hạn chế
việc các nhóm lợi ích, phe thiểu số trong Nghị viện lạm dụng tài phán
trừu tượng, làm chính trị hóa vấn đề, biến tòa án thành cơ quan chính
trị như một diễn đàn lập pháp thứ ba tiếp sau Hạ viện và Thượng viện, mô
hình Áo - Đức đã đặt ra một số điều kiện hạn chế đối với tài phán trừu
tượng như chủ thể có quyền khiếu kiện, đối tượng xét xử, trình tự tố
tụng.
Giống
như các tòa án Liên bang Hoa Kỳ, Tòa án hiến pháp Đức không có chức
năng phòng hiến như Hội đồng hiến pháp Cộng hòa Pháp. Sự khác nhau nằm ở
thời điểm kiểm tra. Trong khi các nhà lập hiến Pháp chỉ trao cho Hội
đồng hiến pháp quyền kiểm tra tính hợp hiến của một dự luật trước khi nó
được công bố ra công chúng, thì Tòa án hiến pháp Đức về mặt nguyên tắc
chỉ kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật sau khi nó có hiệu lực.
Người
Đức có thể đã nhận thức rõ hai hạn chế lớn của mô hình phòng hiến. Mô
hình phòng hiến kiểm tra các dự luật sau khi đã được Nghị viện thông qua
nhưng chưa được Tổng thống công bố nên rất có thể các phe thiểu số
trong Nghị viện sử dụng mô hình này để cản trở dự luật có hiệu lực hoặc
chí ít là làm chậm lại việc có hiệu lực của dự luật thêm vài tháng. Sự
lạm dụng này thực tế đã diễn ra ở Pháp. Khi đó, Hội đồng hiến pháp đã bị
biến thành cơ quan chính trị, nên nhiều người gọi Hội đồng hiến pháp là
“viện lập pháp thứ ba”.
Hơn nữa,
việc kiểm tra các dự luật chưa có hiệu lực đồng nghĩa với việc Hội đồng
hiến pháp Cộng hòa Pháp chỉ có quyền kiểm tra trừu tượng. Nếu sau khi dự
luật được Tổng thống Pháp công bố và có hiệu lực, trong quá trình áp
dụng, trong một vụ việc cụ thể, sự vi hiến của đạo luật mới có thể được
nhìn rõ, nhân dân phải tiếp tục gánh chịu điều sai lầm này, không thể
mong chờ gì từ tòa án vì tòa án cũng không chạm tay vào đạo luật đó
được. Lúc này, nhân dân chỉ có thể mong chờ vào lòng tốt và sự tích cực
của Nghị viện.
4. Không có quyền lựa chọn thụ lý vụ án hiến pháp
Trong
khi Tòa án Tối cao Liên bang Hoa Kỳ có quyền lựa chọn kiểm tra tính hợp
hiến đối với một số vụ án và từ chối kiểm tra đối với một số vụ án khác
mà không cần nêu lý do, thì Tòa Hiến pháp Đức có nghĩa vụ thụ lý các vụ
án hiến pháp đã được khởi kiện đúng thủ tục tố tụng. Sự khác nhau này
không xuất phát từ luật tố tụng hay luật tổ chức tòa án mà là sự khác
nhau giữa quyền cơ bản của công dân Hoa Kỳ và công dân Đức. Trong Bill
of rights, tu chính thứ tư và tu chính thứ năm của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1787 chỉ đề cập quyền được xét xử bởi tòa án có bồi thẩm đoàn đối với
các vụ án hình sự và không đề cập gì đến các vụ án mà các cơ quan nhà
nước là bị đơn. Trong khi đó, khoản 4, Điều 19 Chương các quyền cơ bản
của công dân của Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1949 quy định:
“Nếu một người bị công quyền xâm phạm đến lợi ích, thì con đường khiếu
kiện sẽ rộng mở với người đó. Nếu không có quy định khác thì con đường
khiếu kiện này sẽ thông qua tòa án”. Sau đó, Điều 93 quy định về thẩm
quyền của Tòa án hiến pháp tại khoản 4a đã trực tiếp nhấn mạnh: “Tòa
Hiến pháp quyết định:…về các khiếu kiện hiến pháp trong đó nguyên đơn
nại ra rằng quyền cơ bản của anh ta… đã bị xâm hại bởi các cơ quan công
quyền”. Kết hợp hai quy định này với nhau dẫn đến công dân Đức được
hưởng quyền bảo vệ bởi tòa án, bao gồm Tòa hiến pháp trước các hành động
sai trái của cơ quan công quyền.
5. Có thủ tục tố tụng riêng
Không
giống như ở Hoa Kỳ, nơi tố tụng hiến pháp diễn ra tại các tòa án thường
theo các luật tố tụng khác nhau, các vụ án Hiến pháp ở Đức chỉ được xem
xét bởi Tòa án Hiến pháp và theo một thủ tục tố tụng riêng được quy
định ở Đạo luật Tòa án Hiến pháp. Việc có một thủ tục tố tụng độc lập
không phụ thuộc vào thủ tục tố tụng dân sự có những lợi thế nhất định. Thứ nhất,
một vụ án Hiến pháp thường có ý nghĩa chính trị to lớn chứ không dừng
lại ở lợi ích của hai bên tranh tụng, dẫn đến tòa án chịu áp lực chính
trị rất lớn. Một thủ tục tố tụng riêng có thể giảm bớt sự tác động trực
tiếp của các áp lực chính trị này, bảo vệ tốt hơn sự độc lập của tòa án.
Thứ hai, nếu không có thủ tục tố tụng riêng, thì Nghị viện chỉ
cần thay đổi một trong số các luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hình
sự… là đã có thể tác động đến tố tụng hiến pháp và sự tác động ở đây là
giấu mặt, công chúng không dễ gì nhìn thấy. Vì vậy, việc có một thủ tục
tố tụng riêng sẽ bảo đảm cho Tòa Hiến pháp có một vị trí tốt hơn trong
tương quan quyền lực với Nghị viện.
Đây
cũng là đặc điểm góp phần quan trọng trong khả năng xuất khẩu của mô
hình Đức. Khi một quốc gia muốn xây dựng mô hình tài phán Hiến pháp của
mình dựa trên mô hình Đức, họ nhập đồng thời cả mô hình tổ chức tòa án
và thủ tục tố tụng, bảo đảm sự đồng bộ. Một quốc gia lựa chọn mô hình
Hoa Kỳ hay mô hình Áo, họ sẽ rất mất nhiều thời gian rà soát lại nhiều
thủ tục tố tụng khác nhau, và xác suất vênh nhau giữa một bên là tổ chức
tòa án mang tính chất ngoại lai và một bên là các thủ tục tố tụng bản
địa là khá lớn, đặc biệt là trong giai đoạn đầu.
6. Tòa sinh đôi
Điểm
độc nhất vô nhị trong mô hình tài phán Hiến pháp Đức là hệ thống hai
tòa song song tồn tại nên nó được gọi là tòa sinh đôi
(Zwillingsgericht). Mỗi tòa con có cơ cấu tổ chức và nhân sự độc lập, có
thẩm quyền tài phán riêng biệt gần giống như là hai Tòa án Hiến pháp.
Mỗi tòa con có 8 thẩm phán, trong đó Hạ viện bổ nhiệm 4 thẩm phán,
Thượng viện bổ nhiệm 4 thẩm phán. Các thẩm phán ở các tòa con được lựa
chọn từ 4 nguồn khác nhau: thẩm phán từ các Tòa án khác, giáo sư luật
học, luật sư, chuyên viên từ các cơ quan nhà nước khác.
Hệ thống tòa sinh đôi có hai ưu điểm: Thứ nhất,
mỗi tòa con phụ trách một nhóm các khiếu kiện hiến pháp độc lập, vừa
giúp đẩy nhanh tiến độ xét xử, vừa bảo đảm tính chuyên môn. Thứ hai,
trong một chính thể chính trị đa nguyên thì một đảng phái chính trị khó
lòng kiểm soát đồng thời được cả hai tòa con. Điều này tạo ra sự độc
lập cao hơn của Tòa Hiến pháp đối với Nghị viện và Chính phủ.
Tòa
con là cơ quan xét xử chủ yếu của Tòa hiến pháp nhưng không phải là duy
nhất. Bên cạnh hai tòa con, hoạt động tài phán Hiến pháp còn được thực
hiện bởi Hội đồng thẩm phán và hệ thống các ban. Hội đồng thẩm phán bao
gồm tất cả các thẩm phán của cả hai tòa con, tức gồm 16 thành viên.
Nhưng Hội đồng thẩm phán không phải là cơ quan xét xử cao hơn của tòa
con và cũng không phải là xét xử theo logic chuyện nội bộ nhà mình không
quyết được thì đưa ra cho cả làng quyết hộ, mà chức năng chính là bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Hội đồng thẩm phán được sử
dụng nhằm khắc phục hiện tượng hai tòa con có điểm ngược với nhau ở hai
vụ án khác nhau nhưng ít nhiều liên quan cùng một vấn đề. Khi một tòa,
trong quá trình thụ lý một vụ án thấy rằng phán quyết của mình nếu đưa
ra có thể phải dựa trên những lập luận trái ngược với lập luận đã được
tòa kia sử dụng trong vụ án trước đó, thì họ sẽ chuyển vụ án này ra xét
xử tại Hội đồng thẩm phán
7. Phần luận án dài, khuôn mẫu
Mặc
dù là một quốc gia tiêu biểu cho hệ thống luật thực định, nhưng Tòa
Hiến pháp Đức đã đoạn tuyệt được với tập quán luận án cụt lủn của các
nước châu Âu lục địa.
Đối với một vụ
án hình sự, thì cấu trúc tam khúc ngắn ngủi của một bản án của các nước
theo hệ thống luật thực định (phần một: nhắc lại nội dung cáo trạng;
phần hai: luận án dăm bảy dòng; phần ba: tuyên án) là có thể chấp nhận
được, vì quan trọng nhất là kết quả phần tuyên án có đúng luật và công
bằng hay không. Nhưng một bản án hiến pháp không dừng lại ở tiêu chí
công bằng, đúng hiến pháp, mà đóng vai trò là nguồn của luật có hiệu lực
ràng buộc đối với tất cả các cơ quan nhà nước khác, là cơ sở cho các
tòa án các cấp noi theo. Việc nguyên đơn thắng hay thua trong vụ án hiến
pháp không quan trọng bằng việc các nội dung của hiến pháp được làm rõ,
được khẳng định. Một vụ án trong đó nguyên đơn thua kiện có giá trị
không kém gì một vụ án trong đó nguyên đơn thắng kiện các cơ quan công
quyền miễn là chứa đựng các giá trị, các nguyên tắc pháp luật quan
trọng. Bởi vậy, bản án hiến pháp cần phải có phần luận án đầy đủ, chi
tiết, logic, viết bằng ngôn ngữ dễ hiểu đến mức không chỉ thẩm phán mà
người thông thường cũng có thể hiểu được; và quan trọng, nó phải cụ thể
đến mức ở vụ án tương tự tiếp sau người ta khó lòng làm trái những
nguyên tắc đã được xác lập ở vụ án trước đó.
Cũng
giống với bản án Hiến pháp Đức ở điểm: phần luận án đầy đủ, chi tiết,
logic, dễ hiểu, nhưng bản án hiến pháp Hoa Kỳ dường như không theo một
khuôn mẫu rõ ràng, bởi vì các vụ án này được xem xét theo nhiều thủ tục
tố tụng khác nhau. Ngược lại, do có thủ tục tố tụng hiến pháp riêng, nên
phần luận án của các bản án hiến pháp Đức đi theo khuôn mẫu chặt chẽ.
Phần
luận án của bản án hiến pháp Đức có hai phần chính: phần chứng minh
việc thụ lý vụ án là đúng luật, và phần chứng minh cho quyết định của vụ
án. Phần thứ nhất có các phần chính như tư cách của đương sự đệ đơn,
thời hạn đệ đơn, tiêu chí cạn nguồn (Rechtswegschoepfung), đối tượng xét
xử, tiêu chí tính hiến pháp của vụ án, tiêu chí không phải vụ việc vụn
vặt, đối chiếu thẩm quyền xét xử của Tòa án hiến pháp, của tòa con.
Phần
thứ hai gồm có các phần chính như: hành vi bị khiếu kiện có phù hợp với
hiến pháp không. Nếu đối tượng xét xử là một đạo luật thì có phần đối
chiếu với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, phần cân nhắc giữa các
lợi ích công cộng khác và lợi ích mà đương sự đang yêu cầu bảo vệ. Nếu
đối tượng xét xử là một hành vi áp dụng luật, thì sau phần kiểm tra tính
hợp hiến của đạo luật phải có phần kiểm tra cách áp dụng, biện pháp áp
dụng pháp luật trong vụ án có hợp hiến hay không.
Ngoại
trừ đặc trưng thứ tư có thể dẫn đến hiện tượng quá tải của tòa án hiến
pháp, các đặc trưng, đặc biệt là đặc trưng thứ nhất và đặc trưng thứ
năm, đều cho thấy mô hình tài phán hiến pháp Đức có những ưu điểm tương
đối so với mô hình Hoa Kỳ nếu cả hai được đặt trong một môi trường chính
trị văn hóa ngoài Hoa Kỳ, ngoài Đức. Điều này lý giải tại sao mô hình
Đức đơm hoa kết quả không chỉ ở phương tây mà cả phương đông như Hàn
Quốc, Thái Lan, không chỉ ở các nước tư bản như Đức, Áo, Nhật Bản… mà cả
ở thành trì cách mạng Đông Âu sau 1990 như Nga, Ba Lan, Tiệp.
Ths. Võ Trí Hảo
Gs. Philips Kunig
Gs. Philips Kunig


16:45
Hoàng Phong Nhã
0 nhận xét:
Đăng nhận xét