Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013
CÁCH MẠNG TƯ SẢN HÀ LAN
14:08
Hoàng Phong Nhã
No comments
Hà Lan, một lãnh thổ nằm trên bờ biển bắc Âu là vùng hạ lưu của 3 con sông Escault, Meuse, Rhin. Lãnh thổ Hà Lan xưa kia bao gồm cả phần đất nước Bỉ ngày nay. Ðến năm 1831, Bỉ mới tách khỏi Hà Lan. Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở Hà Lan, mở đầu cho thời kỳ cận đại của lịch sử thế giới.
I. TÌNH HÌNH XỨ NETHERLANDS VÀO THẾ KỶ XV- XVI
1. Kinh tế:
1.1. Công- thương nghiệp: thời trung đại, Netherlands là vùng kinh tế công thương nghiệp phát triển ở châu Âu. Từ thế kỷ XIII-XIV, nghề len dạ ở miền Nam Netherlands nổi tiếng không những về lãnh vực kỹ thuật mà cả về qui mô sản xuất. 9/10 số lượng lông cừu xuất khẩu từ Anh được nhập vào Netherlands.
Cùng với len dạ, nghề dệt bông, vải gai, dệt thảm, làm đồ da, đồ kim loại, đóng thuyền cũng phát triển mạnh.
Trong lãnh vực thương nghiệp, ngoại thương có những bước phát triển đáng kể. Netherlands đã buôn bán với các nước Anh, Nga, Tây Ban Nha và những thuộc địa của những nước này ở nam Mỹ. Các trung tâm mậu dịch và tài chính quan trọng của Netherlands lúc bấy giờ là Amsterdam, Brabant, Antwerpen..., trong đó Antwerpen là một thành phố thương nghiệp và tín dụng có tính chất quốc tế. Antwerpen có một bến cảng có thể đậu một lúc 2500 thuyền buôn đến từ các nơi trên thế giới .
Trên cơ sở phát triển công thương nghiệp, quan hệ phong kiến theo kiểu phường hội dần tan rã, và đồng thời với quá trình đó là sự hình thành một mối quan hệ mới, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công ở Hà Lan phát triển mạnh. Hà Lan trở thành quê hương của công trường thủ công. Ðến nửa đầu thế kỷ XVI, Netherlands trở thành một nước tư bản phát triển có nhiều thành phố với mật độ dân số 3 triệu người.
1.2. Nông nghiệp: ở một số vùng phía bắc và nam của Hà Lan như Flandre, Brabant, Zéland... đã xuất hiện tình trạng các lãnh chúa phong kiến đem ruộng đất cho thuê hoặc kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Các thị dân giàu có, các trại chủ mua ruộng đất của quí tộc, thuê người làm hoặc đầu tư vào việc đắp đê, biến những vùng đất trồng trọt thành các bãi cỏ để chăn nuôi súc vật nhằm cung cấp cho thị trường. Nhiều đầm lầy bị tháo nước để biến thành những nông trường chăn nuôi bò sữa.
Tóm lại, đến thế kỷ XVI, nền kinh tế Netherlands đã có những bước phát triển nhất định và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập vào các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Trong quá trình phát triển ấy, Netherlands đã hình thành hai trung tâm kinh tế là Amsterdam ở miền bắc và Antwerpen ở miền nam. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc tỏ ra thuận lợi hơn ở miền Nam. Trong khi miền Bắc mở rộng kinh tế với nước ngoài và nông thôn thì bị lôi cuốn vào kinh tế hàng hóa, thì ở miền Nam kinh tế lại lệ thuộc vào Tây Ban Nha và quan hệ phong kiến vẫn còn đậm nét trong nông nghiệp. Vì vậy, phía nam của Netherlands dần phát triển chậm lại.
2. Sự thống trị của Tây Ban Nha
Thời trung đại, lãnh thổ Netherlands bị chia thành một số lãnh địa phong kiến, một số thuộc Pháp, một số thuộc Ðức. Cuối thế kỷ XV, Netherlands trở thành lãnh thổ của dòng Habsburg. Lúc Charles Quint còn thống trị thì Netherlands vẫn còn vị trí nhất định, nhưng khi con ông ta là Philippe II cai trị thì Netherlands được xem như một lãnh địa phụ thuộc chặt chẽ vào Tây Ban Nha. Mọi quyền hành trong nước đều nằm trong tay viên toàn quyền Tây Ban Nha là Marguerite và viên phụ chính là Hồng y Giáo chủ Granvella. Chúng đã thi hành một chính sách cai trị hết sức hà khắc.
Trên lãnh vực tôn giáo, Tây Ban Nha đã thi hành một chính sách đàn áp tôn giáo khốc liệt, đặc biệt là tân giáo. Những học thuyết của Luther, Calvin đều bị cấm phổ biến, những người theo tân giáo đều bị truy lùng. Chính quyền Tây Ban Nha đã lập ra tòa án tôn giáo ở Netherlands để xét xử các tín đồ tân giáo. Tuy chính quyền ban hành các sắc lệnh cấm đạo và những cuộc hành hình ngày càng nhiều, nhưng số người theo tân giáo ngày vẫn đông.
Trên lĩnh vực kinh tế, Tây Ban Nha thi hành chính sách thuế khóa hết sức nặng nề. Năm 1560, Philippe II tăng thuế xuất khẩu lông cừu của Tây Ban Nha làm cho số lượng lông cừu nhập vào Netherlands hàng năm giảm 40%. Ngoài ra vua Tây Ban Nha không cho phép Netherlands quan hệ buôn bán với các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Châu Mỹ và cản trở sự buôn bán giữa Netherlands và Anh.
Sự nô dịch về chính trị, sự đàn áp về tôn giáo và sự kìm hãm về kinh tế đã làm cho các tầng lớp trong xã hội Netherlands đều bất mãn với chế độ cai trị của Tây Ban Nha. Ngoài ra, trong xã hội Netherlands còn tồn tại mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất T.B.C.N với chế độ phong kiến. Do vậy, cuộc cách mạng Netherlands bùng nổ là nhằm giải quyết hai mâu thuẫn trên, trong đó mâu thuẫn thứ nhất là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy cuộc đấu tranh sớm bùng nổ, còn mâu thuẫn thứ hai là yếu tố quyết định tính chất của cuộc đấu tranh cách mạng ấy.
II. CÁCH MẠNG BÙNG NỔ
Phong trào cách mạng ở Netherlands bùng nổ nhằm giải quyết mâu thuẫn dân tộc với Tây Ban Nha, đồng thời giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất phong kiến.
Cách mạng khởi đầu bằng các cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân bao gồm nông dân, bình dân thành thị và tư sản chống lại ách thống trị của chính quyền Tây Ban Nha. Trong cuộc cách mạng nầy, liên minh Calvin giáo của giai cấp tư sản đóng vai trò quan trọng.
Cách mạng trải qua 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn 1: 1566-1572: đấu tranh diễn ra dưới hình thức đấu tranh tôn giáo.
Vì mâu thuẫn với chính quyền thực dân nên trong giai đoạn đầu, cuộc cách mạng tư sản Netherlands đã lôi cuốn được một bộ phận của tầng lớp quí tộc phong kiến đứng về phía nhân dân chống lại chính quyền Tây Ban Nha. Năm 1562, liên minh quí tộc bao gồm bá tước Egmont, hoàng thân VinHem dOrange và đô đốc Hornes. Họat động của liên minh quí tộc giới hạn trong những cuộc đấu tranh hợp pháp nên kết quả không hữu hiệu. Những yêu sách mà liên minh quí tộc đệ trình lên chính quyền như: đòi hủy bỏ sắc lệnh trấn áp dị giáo, tôn trọng những quyền lợi của nhân dân Netherlands... không giải quyết. Quân đội Tây Ban Nha vẫn chiếm đóng Netherlands và sự thống trị, nô dịch của Tây Ban Nha đối với Netherlands vẫîn tiếp tục.
Nhận thấy sự đấu tranh hợp pháp của một số quí tộc không đem lại kết quả hữu hiệu, ngày 11-8-1566 nhân dân miền nam đã nổi dậy khởi nghĩa tấn công vào giáo hội Thiên chúa của chính quyền Tây Ban Nha. Quần chúng kéo nhau từng đoàn tấn công các nhà thờ thiên chúa, và cho đến cuối năm 1566, hàng ngàn nhà thờ bị đập phá. Phong trào lan rộng ra miền bắc đã thu hút 12 trong số 17 tỉnh của Netherlands vào cuộc đấu tranh chống chính quyền Tây Ban Nha. Chính quyền Tây Ban Nha e ngại và đã có những chính sách nhượng bộ: tòa án tôn giáo ngừng hoạt động, đạo Calvin được cho phép truyền bá. Trong khi chính quyền Tây Ban Nha nhượng bộ thì bộ phận quí tộc ở miền nam lại thỏa hiệp với chúng. Quí tộc phong kiến lo sợ trước sức mạnh của phong trào cách mạng của quần chúng nên đã từ bỏ quyền lợi dân tộc để bảo vệ quyền lợi giai cấp bằng cách phối hợp với quân chính phủ để đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân, còn đại diện của tư sản trong liên minh Calvin thì lại thỏa mãn với quyền lợi trên nên đứng ra dãn hòa, kêu gọi quần chúng ngưng bạo động. Chính quyền Tây Ban Nha lợi dụng tình hình không thống nhất trong phong trào, đã phái Elbe sang thi hành một chế độ thống trị hà khắc hơn. Albe đã lập ra Hội đồng tra xét bạo động để thanh trừng những người khởi nghĩa. Trong thời gian Albe cai trị đã có 8.000 người bị giết chết, trong đó có cả bá tước Egmont và de Horns. Ngoài ra, Albe còn ban hành một chính sách thuế hà khắc, đặc biệt sắc thuế 10% đánh vào những món hàng bán ra. Chế độ thuế này đã bóp nghẹt nền kinh tế của Hà Lan.
2. Giai đoạn 2: 1572 - 1684:
Trước sự thống trị tàn bạo của Albe, phong trào cách mạng của Netherlands phát triển thành hai khuynh hướng: khuynh hướng họat động chủ yếu dựa vào ngoại viện qua vai trò của VinHem dOrarge và khuynh hướng hoạt động du kích của quần chúng nhân dân qua việc tổ chức các đội du kích với 2 tên gọi Ðội ăn mày trên rừng và Ðội ăn mày trên biển.
Hoạt động của phong trào cách mạng ở Netherlands trong giai đoạn này chủ yếu là những cuộc đấu tranh vũ trang giữa nhân dân Netherlands và chính quyền Tây Ban Nha. Hoạt động du kích của quần chúng nhân dân ngày càng mở rộng và giành được những thắng lợi to lớn, nhiều tỉnh ở miền bắc được giải phóng. Trước tình hình đó, một lần nữa tư sản và quí tộc lại liên minh với nhau để đoạt những thành quả của cách mạng qua việc ủng hộ VinHem dOrange lên nắm quyền hành chính tối cao và tổng chỉ huy quân đội. Năm 1576, một hội nghị ba cấp được triệu tập ở Ghente để thành lập một liên minh chống Tây Ban Nha. Tuy nhiên, trong hội nghị Ghente, do đa số đại biểu là quí tộc tăng lữ thiên chúa giáo và tư sản bảo thủ miền Nam nên hội nghị chưa giải quyết những vấn đề của cách mạng: không đề cập đến vấn đề thủ tiêu chế độ phong kiến ruộng đất và không nêu vấn đề độc lập dân tộc.
Sau Hội nghị, các đại biểu miền Nam thành lập Ðồng minh Arras, tuyên bố phục tùng quyền thống trị của Tây Ban Nha. Hành động phản bội của bọn quí tộc miền Nam đã ảnh hưởng xấu đến tiến trình cách mạng.
Ðể đối phó với tình hình trên, các tỉnh miền Bắc thành lập Ðồng minh Utretch ngày 23.1.1579. "Ðồng minh Utretch" đã thành lập một "Liên hiệp các tỉnh", có một hệ thống tiền tệ, đo lường chung và một tổ chức quân sự, một chính sách đối ngoại thống nhất; có cơ quan quản lý chung là Hội Nghị ba cấp.
Năm 1581, trong một phiên họp của "Ðồng minh Utretch", Philippe II bị lên án là bạo chúa và bị phế truất. Tuy chưa chính thức tuyên bố, nhưng các tỉnh miền bắc Netherlands được tổ chức thành một nước Cộng hòa, được gọi bằng tên là Các tỉnh liên hiệp, về sau thay bằng tên của tỉnh lớn nhất và quan trọng nhất trong liên hiệp là Holland. Ðó là thành quả lớn lao của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Netherlands chống Tây Ban Nha.
Sau khi tuyên bố nền Cộng hòa, Hà Lan ký hiệp ước liên minh với Anh, Pháp để chống lại Tây Ban Nha. Cuộc đấu tranh còn kéo dài nhiều năm, gây tổn thất nặng nề cho Tây Ban Nha. Cuối cùng năm 1609, Tây Ban Nha phải ký với Hà Lan một hiệp ước hòa bình trong vòng 12 năm, thừa nhận sự độc lập của Hà Lan. Sau khi hiệp định hết hạn, chiến tranh lại tiếp tục. Mãi đến năm 1648, Tây Ban Nha mới chính thức thừa nhận nền độc lập của Các tỉnh liên hiệp.
III. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
Cuộc đấu tranh của nhân dân Netherlands lúc đầu chỉ là những yêu cầu giảm nhẹ sự cai trị của chính quyền Tây Ban Nha, nhưng thái độ ngoan cố của chính quyền Tây Ban Nha làm cho nhân dân bất mãn. Họ đã đứng dậy tự vũ trang, chống lại sự thống trị của Tây Ban Nha một cách kiên quyết. Cuộc khởi nghĩa này biến thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh này đồng thời còn là cuộc cách mạng tư sản vì nó đã lật đổ phong kiến nước ngoài, phát triển tinh thần dân tộc, dân chủ, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
Tuy nhiên cuộc cách mạng vẫn còn nhiều hạn chế: cách mạng chỉ thắng lợi ở tỉnh miền Bắc, các tỉnh miền nam vẫn nằm trong khuôn khổ của Netherlands thuộc Tây Ban Nha. Ngay sau khi thắng lợi, giai cấp tư sản miền bắc vẫn chưa trưởng thành. Chính quyền thực tế nằm trong tay tầng lớp trên của giai cấp tư sản gồm những chủ công trường thủ công, thương nhân và bọn cho vay nặng lãi liên kết với một bộ phận quí tộc để nắm chính quyền. Ở nông thôn, nông dân vẫn không có ruộng đất, quyền hành và sự bóc lột của địa chủ vẫn còn.
Tuy còn những hạn chế, nhưng khởi nghĩa ở Netherlands vẫn có một ý nghĩa quan trọng. Ðó là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới, báo hiệu cho một phương thức sản xuất mới được thiết lập trên thế giới. Nó là mốc mở đầu cho lịch sử cận đại thế giới. Nhờ cách mạng tư sản mà đến thế kỷ XVII, Hà Lan trở thành nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến nhất trên thế giới.
(ST)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét