Cuốn "Hán Việt từ điển" của học giả
Nguyễn Văn Khôn (ấn bản DAINAM Publishing Co. 1987 Glendale,
California, U.S.A.) đã định nghĩa chữ "Pháp" như sau: Tr.697: Pháp: a) Phép, khuôn phép b) Pháp luật c) Hình phạt d) Lễ giáo e) Bắt chước f) Đạo lý của nhà Phật g) Chế độ h) Họ
Tôi nhận thấy tuy cùng một bộ ký tự (thủy) mà danh từ "Pháp" có tới 7 nghĩa, trong đó các nghĩa a , b , c , d , f và g rõ
rệt có liên hệ. Đối chiếu với trường hợp bản thân, tôi khám phá là khái
niệm "pháp" đã đến với tôi trong thời thơ ấu, dưới dạng khuôn phép.
Rồi khi tôi học lịch sử Việt Nam và lịch sử Pháp Quốc ở các cấp tiểu và trung học, khái niệm này biến dạng thành hình pháp gắn bó với quyền hành của kẻ cai trị đất nước. Từ lúc theo học ngành Luật ở Trường Đại học Hà Nội, tôi mới có một kiến thức rõ ràng về sự khác biệt giữa những cái gọi là pháp luật, là lễ giáo, là đạo lý , là chế độ chính trị. Sau
Thế chiến 2, nhờ sự hiểu biết thời cuộc quốc tế và nhất là qua kinh
nghiệm hoạt động cũng như kinh nghiệm sống của bản thân, tôi đã đạt được
một ý thức sâu sắc hơn về sự hiện hữu của một nền Pháp Lý siêu việt, không thể giới hạn vào một khoảng không gian và thời gian nhất định. Dưới đây tôi đi vào chi tiết của 4 chặng diễn biến vừa kể.
Chặng thứ nhất: Pháp = Phép, khuôn phép
Trong
những năm thơ ấu, sống với bố mẹ, luôn luôn tôi nghe nói "phép", gần
như không bao giờ nghe nói "pháp". Phải chăng từ "phép" mới thuần túy là
chữ nôm còn từ "pháp" là mượn ở chữ Hán, thông dụng trong giới Nho học
nhưng ít dùng trong cuộc sống hàng ngày? Vấn đề này xin dành cho các nhà
ngữ học cứu xét: tôi chỉ cần xác định là thời ấy, mỗi ngày tôi phải
nhiều lần nói câu: " Xin phép "trước khi ăn, uống hoặc ra khỏi nhà mặc
dù đó chỉ là một lời xin chiếu lệ. Nếu không xin như vậy, có thể bị quở
là vô lễ, không theo đúng "khuôn phép" của một gia đình lễ giáo. Tôi đã
khám phá sự tương đương của hai chữ "phép" và "pháp" nhờ hai cơ hội. Cơ
hội thứ nhất khi trong lớp học, thầy giáo dạy môn Toán pháp với các phép
tính Cộng, Trừ, Nhân, Chia. Cơ hội thứ hai khi đọc tiểu thuyết thẩy kể
chuyện có những ông quân sư “pháp thuật cao cường" biết phù phép biến
hoá hạt đậu thành binh lính, hoặc "hô phong hoán vũ" tạo nên những cơn
bão "cát bay đá chạy". Có sự liên hệ gì giữa lời "xin phép" và các phép
tính Cộng, Trừ, Nhân, Chia cùng pháp thuật của các ông "Tướng Tàu"
không? Dĩ nhiên tôi chẳng cần biết và cho đến nay vẫn chưa hiểu nổi. Dẫu
sao, từ ngày tham gia sinh hoạt xã hội, luôn luôn được nghe bàn về các
"biện pháp" "phương pháp" "giải pháp" do các chính khách, các chuyên
gia, các học giả, ký giả... áp dụng hay đề nghị... Hiển nhiên chữ pháp
trong các cụm từ vừa kể đồng nghĩa với chữ pháp trong các cụm từ Toán
pháp và pháp thuật nói trên.Tôi nhận thấy, trong tâm trí tôi, ý niệm "phép-pháp" đã biến chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, không phải chỉ là một khuôn phép bất động mà là một suy tính linh động. Tất nhiên khi chỉ có một ý niệm mơ hồ như vậy, tôi không tránh được sự hiểu lầm về từ "pháp".
Chặng thứ hai: Hiểu lầm "Pháp" là "Hình pháp"
Trong
những năm vị thành niên, chưa vào học Trường Luật ở Hà Nội, tôi ham đọc
những dã sử cũng như tiểu thuyết liên can tới Lịch sử Việt Nam , Lịch
sử Trung Hoa cùng Lịch sử Pháp Quốc. Những tài liệu này luôn luôn thuật
lại các trận đánh phi thường của nhiều vị danh tướng, hoặc những cuộc
đấu võ rùng rợn của các hiệp sĩ: người trong truyện chém giết không chùn
tay, "chặt đầu địch thủ như chặt củ chuối", đốt phá sào huyệt của kẻ
gian phi để trừng phạt theo đúng phương châm: Nhổ cỏ phải nhổ cho hết
rễ... vân vân.
Đặc biệt khi các vua chúa hay quan chức hành hình tội nhân, thường đưa ra Pháp trường.
Có
lẽ chính danh từ "pháp trường" này đã làm kiên cố thêm sự hiểu lầm của
tôi rằng Pháp chỉ có nghĩa là Hình pháp, là trừng phạt. Tôi không hề
thắc mắc: khi trừng phạt như vậy, kẻ xét xử đã căn cứ vào đâu? Luật lệ
nào? Ai cho họ quyền sinh sát ấy? Trong đầu óc còn non nớt của tôi, sự
hiểu lầm Pháp = Hình pháp đã mặc nhiên gắn bó với sự xác nhận quyền hành
của kẻ thống trị, dù họ đã thống trị nhờ võ lực.
Tuy
nhiên cũng nhờ đọc các thiên hùng sử ấy mà tôi thấy từ thời cổ, các
thức giả đã tranh luận về chính sách trị nước an dân: nên dùng hình phạt
nghiêm khắc để thị uy và khuất phục hay nên dùng nhân nghĩa để chinh
phục lòng người. Như vậy là cuộc tranh luận giữa hai chủ trương PHÁP TRỊ
và NHÂN TRỊ đã xẩy ra ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam từ nhiều thế kỷ.
Chứng cớ: Cụ Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm đã bình phẩm tình hình nước
ta, thời Mạc suy, bằng mấy câu thơ:
Chưa từng thấy mấy đời sự lạ
Bỗng khiến người vu vạ cho dân.
Muốn bình sao chẳng lấy nhân?
Muốn yên sao chẳng giục dân cấy cày?
Sau
khi vào học Trường Luật khoa Đại học ở Hà Nội, tôi cảm thấy như người
lòa tìm lại được thị giác: Từ ngày đó, tôi hiểu rõ "Pháp" có nghĩa chính
yếu là Pháp luật. Nhờ học Luật tôi mới biết phân tích tỉ mỉ các sự
việc, các tin tức, các ý kiến... để rồi suy diễn những hệ quả hay hậu
quả, do đó tránh được nhiều ngộ nhận – có khi là cạm bẫy – có thể gặp
trong lĩnh vực ngôn ngữ.
Chặng thứ ba: Pháp = pháp luật
A) Điều
cơ bản tôi đã học được ngay từ bài giảng đầu tiên về môn Luật, chính là
sự cần thiết của luật lệ trong mọi tập thể do những người cùng sống
chung lập nên. Nếu không có luật lệ, sự xung đột có thể xảy ra bất cứ
lúc nào vì những bất đồng ý kiến dù chỉ là nhỏ nhặt. Mới đầu chỉ có
những ước lệ do sự thỏa thuận mặc nhiên của đa số. Với thời gian, ước lệ
biến thành phong tục gò bó mọi thế hệ, mọi thành phấn. Khi chưa đặt ra
chữ viết kiểu hiện đại, người ta đã truyền khẩu và trông cậy ở trí nhớ
của các phụ huynh già lão. Dần dần người ta đã biết dùng những hình khắc
vào đá, vào gỗ, vào những thẻ tre v.v. Rồi biết dùng chữ ghi trên giấy.
Tất nhiên, một khi tập thể phát triển, tổ chức thành làng bản, xứ, nước
v.v., kẻ cầm quyền đã chính thức hoá những tục lệ thành luật lệ quốc
gia. Khỏi cần nói, luật lệ phải do nhà cầm quyền ban hành. Để bắt buộc
mọi người tuân theo khuôn phép chung này, các kẻ cầm quyền đã đưa ra
huyền thoại: đó chính là lệnh của
Trời, của
Thượng Đế, của Thiên Chúa... Ai không tuân lệnh là có tội – tội làm rối
loạn trật tự chung – và phải trừng phạt. Như vậy, thuở ban đầu luật lệ
bị lẫn với những "giới răn" "cấm kị" và phương tiện chế tài là sự trừng
phạt: từ phạt vạ, đánh đòn... cho tới giam cầm, lưu đày, giết chết. Việc
xét xử và ấn định cách trừng phạt giao cho những thẩm phán thường do
Nhà nước – nói khác do nhà cầm quyền – chỉ định. Sự kiện lịch sử này
khiến cho tôi từng lầm tưởng là những bộ luật do vua chúa các nước ban
hành chẳng qua chỉ phản ánh ý muốn và quyền lợi của nhóm cầm quyền
(chiến sĩ, quý tộc, trưởng giả, giáo phái v.v.). Nhờ học luật, tôi mới
hiểu rõ triết lý căn bản của pháp luật chính là ý muốn của mỗi người
dân: những cá nhân này hợp lại thành một lực lượng quần chúng, khiến cho
vua chúa cầm quyền phải tôn trọng, chấp nhận nguyên tắc "Ý dân là ý
Trời".
B) Một điều quan trọng khác là qua các
môn được giảng dạy trong chương trình Luật khoa Đại học, tôi nhận rõ là
Pháp luật bao trùm gần như mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội: thể chế
chính trị và tài chánh của quốc gia, hôn nhân, liên hệ gia đình, trao
đổi, tặng dữ [tặng biếu], thừa kế, mua bán, vay mượn v.v. Chính vì thế
mà tôi đã ý thức được nhiều nghịch lý, trước kia tôi cho là chuyện bình
thường. Khỏi cần nói là ngành luật học đã làm nảy sinh và tăng cường
trong đầu óc tôi nguyện vọng thay đổi tình trạng xã hội đương thời.
Trước sự mâu thuẫn quá phũ phàng giữa thực tế và lý thuyết, dù hiếu hòa
đến đâu chăng nữa, kẻ học luật vẫn đi tới kết luận phải thay đổi chính
quyền mới thay đổi được hệ thống pháp luật.
C)
Tôi theo học Đại học Luật khoa Hà Nội trong suốt thời kỳ Đệ nhị Thế
chiến nhưng ngay từ tháng Giêng 1943 đã trở thành công chức và từ ngày
ấy cuộc sống của tôi đã "quyện" với các thăng trầm của đất nước Việt
Nam. Kinh nghiệm cho tôi thấy xu hướng của mọi nước lớn hay nhỏ, mạnh
hay yếu, đều là tha thiết bảo vệ quyền tự quyết của mình: lập pháp, hành
pháp cũng như tư pháp. Mỗi nước là một hệ thống pháp luật với những nét
đặc thù. Sự xung đột rất khó tránh: xung đột về lãnh thổ, lãnh hải,
quyền giao thương, quyền khai thác tài nguyên, quyền thâu thuế, quyền
xét xử công dân của mình v.v. Tôi đi tới nhận định: muốn thực hiện một
thế giới hòa bình, phải cố gắng vượt khỏi những trở lực do thực thể quốc
gia đã tạo dựng. Nói cách khác, phải tiến tới một nền Pháp lý chung cho
toàn cầu. Pháp lý là lý tính (rationalité) – tất nhiên trừu tượng – của
Pháp (chữ Pháp có thể hiểu là khuôn phép chung (cf. định nghĩa a của chữ Pháp trong Hán Việt Từ Điển Nguyễn Văn Khôn)
còn Pháp luật là hệ thống luật lệ cụ thể tạo nên cái khuôn phép chung
ấy. Trong thế giới hiện đại chỉ có những định chế "liên chính phủ quốc
gia", chưa có một chính quyền chung nào cho toàn cầu để ban hành những
đạo luật cưỡng bách nhân dân mọi nước tuân theo: vì vậy tôi chỉ dám dùng
danh từ Pháp lý mà thôi.
Chặng thứ tư : Pháp = Pháp lý .
A)
Lý tính của Pháp không phải do sự đồng thuận của đa số nhân dân trong
nước, mặc dù sự đồng thuận ấy cần thiết cho sự tạo lập cũng như thi hành
luật lệ. Cơ sở khoa học và lịch sử của Pháp lý, chính là những nguyên
tắc vượt khỏi giới hạn không gian và thời gian được mọi người chấp nhận
như là những điều không cần chứng minh. Tạm kể: quyền sinh sống, quyền
tự do di chuyển, quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, quyền có một đời
tư, có những tài sản riêng tư để hưởng thụ, tặng dữ hay truyền lại cho
con cháu v.v. Khỏi cần nói vì sống chung trong tập thể xã hội nên sự
hành xử những quyền tự do cá nhân này phải dung hợp với quyền tự do của
những cá nhân khác và các đòi hỏi của nền trật tự chung.
B)
Trong khuôn khổ mỗi quốc gia, ai cũng hiểu rằng các luật lệ được Nhà
nước ban hành là phương tiện tự vệ của những công dân tương đối yếu thế
trong sự đối đầu hàng ngày với những kẻ giàu mạnh hơn mình. Nhưng phương
tiện này chỉ hữu hiệu nếu ai nấy đều có tinh thần tôn trọng pháp luật.
Một ngạn ngữ La tinh thường được các luật gia nhắc nhở là: "Nemo censitur ignorare lege" ( không ai được viện cớ mình không biết luật lệ).
Thực
tế cho biết là những luật lệ đã được ban hành nhiều như cây trong rừng
rậm: ngay những người chuyên nghiệp như các Luật sư, Thẩm phán, Giáo
sư... mỗi khi cần tìm hiểu một đề tài nào vẫn phải tra cứu sách báo, tài
liệu lưu trữ. Như vậy đòi hỏi mọi công dân phải am tường luật lệ, quả
thực là một điều viển vông nếu không muốn nói là phi lý. Dẫu sao, để
ngăn chặn những phần tử bất lương, gian tham, lạm dụng quyền thế hay địa
vị để áp bức, bóc lột ... nguời lương thiện, các phương tiện truyền
thông đại chúng là khí giới hữu hiệu hơn bất cứ cơ quan giám sát nào.
C)
Vượt khỏi biên cương quốc gia, trên bình diện bang giao quốc tế, từ sau
cuộc Đệ Nhị Thế chiến tới nay, chúng ta đã chứng kiến nhiều cố gắng của
Chính quyền các nước để tiến dần tới sự thành hình một nền trật tự
chung cho toàn cầu. Ngoài sự thiết lập Tổ chức Liên Hiệp Quốc còn có
những cơ quan chuyên môn trong các lĩnh vực Tiên tệ, Tín dụng, Lương
nông, Phát triển kinh tế, Mậu dịch, Viễn thông, Hàng không dân sự, Văn
hóa, v.v. đều là những diễn đàn để đại diên các nước, và cả những vị
nguyên thủ, có cơ hội gặp nhau, trao đổi quan điểm và do đó tránh được
hiểm họa chiến tranh. Đồng thời, nhiều văn kiện ngoại giao có tầm quan
trọng lịch sử như Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước về Mậu
dịch Quốc tế , về Luật biển v.v. có tính cách như những Hiệp ước đa
phương, những bộ luật quốc tế ràng buộc các nước gia nhập. Ý thức Pháp
lý "siêu quốc gia, siêu thời gian" không còn là một ý tưởng trừu tượng
mà là một sự thật khách quan. Tiếc thay! Thực thể chính phủ quốc gia vẫn
tồn tại và số quốc gia hội viên Tổ chức Liên
Hiệp Quốc đã lên tới 200. Nhiều va chạm đổ máu đã xảy ra giữa các quốc
gia thành viên này chỉ vì bất đồng ý thức hệ, bất đồng tín ngưỡng không
nhất thiết vì những quyền lợi vật chất. Âu cũng là Định mệnh: Dù văn
minh Con người vẫn là chỉ là một sinh vật trên Trái Đất, chưa thể xử sự
toàn thiện như các thánh thần. Và ngày nào còn người sẽ vẫn còn những
nghịch lý như vậy: Errare humanum es!
Paris tháng 11 năm 2012
V.Q.T.
Cộng tác viên Nguyễn Thái Sơn gửi cho BVN
RFI - Giáo
sư Vũ Quốc Thúc là một nhà trí thức đã từng trải qua biết bao thăng
trầm của thời cuộc Việt Nam. Tốt nghiệp Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Đại học
Kinh tế Pháp, ngoài việc giảng dạy ở đại học suốt từ những năm 1950, ông
cũng đã từng giữ những chức vụ quan trọng dưới hai nền Đệ nhất và Đệ
nhị Cộng hòa: Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam, Cố vấn Phủ Tổng thống, Quốc vụ khanh phụ trách tái thiết và
phát triển... Tên tuổi của Giáo sư Vũ Quốc Thúc cũng gắn liền với Kế
hoạch Hậu chiến Lilienthal-Vũ Quốc Thúc (1968).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét