Khánh Duy,
Nguồn: Vietnamnet,
đăng ngày 27/2/2013,
Hiến pháp không chỉ là câu
chuyện xa vời của các chính khách nhằm thiếp lập thể chế quyền lực cho
thượng tầng chính trị, ngược lại, nếu được vận dụng nghiêm cẩn, sẽ gắn
sát sườn và bảo vệ trực tiếp quyền lợi của tất cả công dân.
Một câu chuyện nhỏ về Hiến
pháp Mỹ nhưng liên quan tới Việt Nam để minh họa, vụ kiên Tinker v. Des
Moines được phán quyết bởi Tòa tối cao Mỹ năm 1969.
Chuyện nhỏ mà không nhỏ, bởi
đây là một trong những vụ kiện tiêu biểu và nổi tiếng nhất trong lịch
sử vận dụng Tu chính án số một của Hiến pháp Mỹ̀.
Tu chính án số một được
phát biểu như sau trong Hiến pháp Mỹ: “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo
luật nào liên quan tới việc tổ chức tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng,
hoặc hạn chế tự do ngôn luận, báo chí hoặc quyền của dân chúng được hội họp một
cách hòa bình, và quyền khiếu kiện Chính phủ nhằm thay đổi những thực tế đang
gây bất bình”.
|
|
Người dân Mỹ biểu tình trong những năm 1970 để phản đối chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Linzik |
Câu chuyện bắt đầu vào một
ngày tháng 12/1965, một nhóm học sinh lớn tụ tập ở căn nhà của cậu
Christopher Eckhardt, 16 tuổi ở tiểu bang Iowa. Họ quyết định thể hiện
thái độ phản kháng đối với sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt
Nam bằng việc đeo băng tay màu đen khi tới trường trung học Des Moines.
Ban giám hiệu trường Des
Moines bằng cách nào đó đã biết trước được ý đồ của nhóm học sinh.
Ngày 14/12, ban giám hiệu nhóm họp và ra một điều luật mang tính ngăn
chặn: buộc học sinh nào đeo băng đen tới trường phải gỡ bỏ, nếu không,
sẽ bị cho thôi học cho tới khi nhận thức ra vấn đề.
Nhóm học sinh “nổi loạn” đã
biết được chính sách mới của nhà trường, tuy thế, họ không lùi bước.
Sáng 16/12/1965, cô bé Mary Beth 13 tuổi và cậu Christopher Eckhardt 16
tuổi vẫn đeo băng đen tới trường để phản đối Mỹ đổ quân vào Việt Nam.
Hôm sau, cậu bé John Tinker 15 tuổi cũng thực hiện hành vi tương tự. Họ
đều bị nhà trường đuổi về với lời đe dọa: khi nào không đeo băng tay
nữa thì hãy tới trường. Nhóm “nổi loạn” lại tiếp tục thể hiện sự
phản kháng bằng cách ở nhà cho tới hết năm. Còn hơn thế, thông qua cha
mẹ, họ khởi kiện lệnh cấm đeo băng đen của nhà trường vì cho rằng
điều luật ấy là vi hiến, xâm phạm tới quyền tự do ngôn luận được ghi
trong Tu chính án số một của Hiến pháp.
Vụ án được Tòa án Quận xem
xét và sau khi điều trần, tòa án bác bỏ cáo buộc của nhóm học sinh,
với lý do: nhà trường có quyền hợp hiến trong việc ngăn chặn mọi
hành vi gây rối loạn kỷ cương trường học. Nhóm học sinh tiếp tục kiện
lên tòa án cao hơn nhưng cáo buộc tiếp tục bị bác.
Tính chất điển hình của vụ
kiện đã khiến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trực tiếp vào cuộc và quyết
định tiếp nhận vụ án. Tại phiên xử ở tòa tối cao, 7 trong số 9 quan
tòa đã đồng thuận và khẳng định: đeo băng đen trong trường hợp này
hoàn toàn không thể gây ra và không liên quan gì tới việc gây rối,
ngược lại, đeo băng đen là “ngôn luận thuần túy” được bảo vệ toàn
diện trong Tu chính án số một của Hiến pháp̀.
Tòa phán: “Những nỗi sợ và
lo lắng vô cớ về gây rối không thể đứng trên quyền tự do biểu đạt…
Các trường công không phải là lãnh địa của độc quyền lãnh đạo. Các
quan chức của trường không có quyền áp đặt tuyệt đối lên học sinh. Cả
trường và học sinh đều là những thực thể nằm dưới Hiến pháp. Các
học sinh đeo băng tay để biểu lộ sự bất đồng của họ đối với cuộc
chiến Việt Nam cũng như ủng hộ việc ngừng bắn, các em muốn hành vi
ấy được mọi người biết và từ đó làm theo… Trong trường hợp này,
Hiến pháp không cho phép các quan chức nhà nước được khước từ quyền
tự do biểu đạt ấy của các em”.
Tòa án Tối cao đã lật ngược
lại toàn bộ phán quyết của các tòa cấp thấp hơn và vận dụng Tu
chính án số một trong Hiến pháp để bảo vệ các em học sinh. Điểm đặc
biệt cần lưu ý trong vụ án này các em học sinh đã lặng lẽ đeo băng
tay chứ không hề phát ngôn chống chính sách tham chiến của chính phủ.
Tu chính án số một cũng chỉ quy định hết sức đơn sơ là sẽ bảo vệ
“quyền tự do ngôn luận”. Nhưng Tòa án Tối cao đã vận dụng Hiến pháp
hết sức linh hoạt khi cho rằng bản thân hành vi đeo băng tay cũng là
một hình thức ngôn luận mang tính biểu tượng, bất kỳ hành vi nào
phát đi một thông điệp và người tiếp nhận có thể hiểu thông điệp đó
thì dù không nói ra lời vẫn được coi là ngôn luận. Tu chính án số
một trong Hiến pháp không chỉ bảo vệ quyền nói mà cả quyền được
lặng im, nếu sự im lặng ấy là thông điệp.
Vụ án Tinker v. Des Moines đã
mở đường cho Tòa Tối cao cũng như các tòa cấp thấp hơn vận dụng Hiến
pháp để bảo vệ người dân trong vô số vụ án sau này liên quan tới các
hành vi mang tính biểu tượng. Nếu không có Hiến pháp bảo vệ, không có
sự công minh của Tòa án tối cao, làn sóng biểu tình và các hình
thức đa dạng phản đối chiến tranh Việt Nam trong nhân dân Mỹ̀ không bao
giờ dữ dội, mạnh mẽ đến như thế. Chính nhân dân Mỹ đã tạo ra một
phần sức ép khiến chính phủ Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Họ làm được
điều ấy bởi họ được chở che dưới mái nhà Hiến pháp.
Hiến pháp không phải là
chuyện “trên trời” mà ngược lại, bảo vệ lợi ích “sát sườn” của mọi
người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Cho dù có thể rất nhiều
người hoàn toàn không biết gì về Hiến pháp và không nhận ra ảnh
hưởng to lớn của nó, thì “nụ cười” hay “nước mắt” của họ trong tương
lai sẽ bị tác động bởi Hiến pháp và quá trình thực thi nó. Cho dù
ảnh hưởng của văn bản pháp lý cao nhất này lên mỗi cá thể sẽ khác
nhau, có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nhưng số phận của
toàn bộ đất nước và tất cả nhân dân không thể tách rời khỏi mái nhà
chung trên đầu chúng ta, mái nhà mang tên “Hiến pháp”.
Khánh Duy
0 nhận xét:
Đăng nhận xét