Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân là cả một quá trình đấu tranh lâu dài và diễn ra trên tất cả các mặt trận, bao gồm mặt trận pháp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc sử dụng vũ khí pháp luật, đặc biệt là Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật gốc, là đạo luật có hiệu lực cao nhất. Trong Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo, từ lời nói đầu cho đến các chương, các mục, các điều đều lấy tư tưởng chủ đạo nhà nước của dân, do dân và vì dân làm xuất phát điểm và là nội dung cốt lõi.
Công cuộc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân đã trải qua 8 thập kỷ (1945 – 2012) và nhiều biến cố. Nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra. Nhiều chủ trương khác nhau đã được áp dụng: hợp tác hóa, cải cách ruộng đất, cải tạo tư bản, sản xuất lớn đi lên XHCN, kinh tế kế hoạch tập trung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế, công hữu hóa đất đai… Nhà nước đã 4 lần thay đổi Hiến pháp (1959, 1980, 1992 và 2001). Tất cả các chủ trương, các biện pháp thực thi trong thời chiến, thời bình, tất cả các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp đều nhằm thực hiện một mục đích không thay đổi là xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong cả quá trình lâu dài ấy, đất nước đã gặt hái được nhiều thành công, nhưng mặt khác cũng đã có những vấp váp. Mỗi một thành công, vấp váp trong cả quá trình gần 8 thập kỷ qua, cần được nghiên cứu, phân tích đầy đủ với thái độ khách quan, thực sự cầu thị, không né tránh việc phân tích, mổ xẻ các sai lầm để tìm ra được hướng đi và cách làm phù hợp với quy luật để đưa vào Hiến pháp mới.
Dự thảo Hiến pháp mới đã được trình Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội khóa XIII được gọi là “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”. Hiến pháp 1992 có tuổi đời chỉ 20 năm. Quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân được thực hiện trong gần 8 thập kỷ đã cung cấp nhiều kinh nghiệm, bài học phong phú. Lẽ nào việc xây dựng Hiến pháp mới chỉ dựa vào những gì đã được đúc kết trong 20 năm? Hiến pháp năm 1946, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, phản ánh thành quả đấu tranh của cả dân tộc trong suốt thời kỳ bị giặc Pháp đô hộ. Nội dung Hiến pháp mới cần phải phản ánh đầy đủ các thành tựu, đồng thời tránh được các khiếm khuyết của cả quá trình xây dựng nhà nước cách mạng trong hơn 8 thập kỷ qua. Với Hiến pháp mới, các tính chất của dân, do dân và vì dân cần phải được hiến định bằng những quy phạm đáp ứng nguyện vọng, đòi hỏi mở rộng dân chủ rộng rãi hơn, tiến bộ nhanh hơn của xã hội Việt Nam ngày nay. Nhà nước Việt Nam phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân từ gốc đến ngọn. Quan điểm nhà nước của dân, do dân và vì dân phải như sợi chỉ đỏ xuyên suốt Hiến pháp. Trong chiến tranh ác liệt, nguyên tắc tập trung, dân chủ và quy chế dân chủ đại diện được áp dụng tương đối phổ biến là cần thiết để đánh thắng mọi kẻ thù. Để thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” tất yếu đòi hỏi nhiều hy sinh. Quyền tự do của công dân trên các lĩnh vực: chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa v.v… chưa thể mở rộng.
Tình hình trong nước và thế giới nay đã có nhiều thay đổi. Người dân mong muốn có đời sống vật chất, tinh thần cao hơn. Trình độ dân trí nói chung, trình độ làm chủ của người dân đã tiến bộ nhiều. Không thể viện cớ trình độ dân trí thấp (!) để dè dặt, không dám mở rộng quyền làm chủ mọi mặt của dân. Bởi vậy: 1- Để giữ vững bản chất “nhà nước của dân”, nội hàm các quyền bầu cử, ứng cử, quyền bãi miễn của công dân, các chế định dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ tập trung… trong Hiến pháp mới cần có những quy định đảm bảo tính dân chủ thật sự, ngăn ngừa được bệnh dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng nguyên tắc tập trung, dân chủ để hạn chế dân chủ, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền. 2- Để giữ vững bản chất “nhà nước do dân”, các quyền giám sát, phản biện của dân, quyền phúc quyết Hiến pháp, quyền được trưng cầu dân ý về các vấn đề trọng đại của đất nước, quyền chất vấn của dân phải được Hiến pháp thể chế hóa bằng những quy định mang tính thực thi hơn mà không dừng lại ở các điều mang tính khẩu hiệu. 3- Để đảm bảo bản chất nhà nước luôn là “nhà nước vì dân”, điều trước tiên là chế độ trách nhiệm của cơ quan và viên chức chính quyền các cấp cần được Hiến pháp quy định rõ hơn để khắc phục tình trạng viên chức vô cảm trước những nguyện vọng chính đáng của dân, coi thường lợi ích của dân. Các quyền kiểm tra, giám sát, thanh tra của dân, quyền được thông tin của dân cần được Hiến pháp mới quy định rõ cơ chế thực hiện để nhân dân có thể thực hiện được quyền của mình mà không bị viên chức chính quyền cản trở.
Quá trình thực thi các Hiến pháp cũ cho thấy có những điều đã được hiến định nhưng bị vô hiệu hóa do không được luật hóa. Tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa luật với Hiến pháp, đặc biệt là mâu thuẩn, chồng chéo giữa văn bản dưới luật với luật và Hiến pháp xảy ra nhiều. Đây là sự vi phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước và viên chức nhà nước. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm nhưng đến nay vẫn chưa có biện pháp khắc phục.
Đã đến lúc trong Hiến pháp mới cần có điều quy định về tổ chức và cơ chế có hiệu lực để bảo vệ Hiến pháp, gọi tắt là cơ quan bảo Hiến. Thiếu cơ quan bảo Hiến có hiệu lực thì khó đảm bảo việc duy trì bản chất của dân, do dân và vì dân của nhà nước.
Để đưa đất nước tiến nhanh, tiến kịp với tốc độ phát triển của các nước hiện nay trên thế giới, đòi hỏi phải có sự đổi mới Hiến pháp. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi bổ sung trình tại Quốc hội khóa XIII có 11 chương, 126 điều, giảm 1 chương, 21 điều, có 18 điều giữ nguyên = 14,28%, 95 điều bổ sung, sửa đổi = 75,39% và 13 điều mới = 10,31%. Chưa thể căn cứ vào tỷ lệ cao hơn của các điều sửa đổi, bổ sung, các điều mới so với các điều giữ nguyên (75,39% + 10,31% = 85,70%/14,28%) để khẳng định đã có sự đổi mới về Hiến pháp, trong khi nội hàm của nhiều điều sửa đổi, bổ sung còn chứa đựng trong nó những tư duy, quan điểm cũ. Hơn nữa Hiến pháp là đạo luật được áp dụng trong thời gian dài nhiều thập kỷ, nên việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là điều rất thận trọng và phải qua những trình tự, thủ tục đặc biệt. Vì vậy, không thể nóng vội trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Thời gian đưa dự thảo Hiến pháp ra trưng cầu ý kiến dân trong thời hạn 3 tháng là không đủ. Kinh nghiệm cho thấy, khi các dự án pháp luật được đem ra thảo luận, góp ý một cách rộng rãi thì ý thức pháp luật của người dân sẽ được nâng cao lên rất nhiều. Vì vậy nhân dân mong muốn thời gian thảo luận, góp ý với dự thảo Hiến pháp mới sẽ kéo dài hơn, rộng rãi hơn, nhằm thu hút được trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào người Việt định cư ở nước ngoài.
http://www.baomoi.com/Home/XaHoi/daidoanket.vn/Hien-phap-voi-su-nghiep-xay-dung-Nha-nuoc-cua-dan-do-dan-va-vi-dan/10100355.epi
Đăng lại từ: http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_NGHIQUYET/View_Detail.aspx?ItemID=32&TabIndex=5&YKienID=399


16:47
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét