Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Nhiệm vụ cử tri hay nỗi lòng một tri thức năm 1946

Nhiệm vụ cử tri hay nỗi lòng một tri thức năm 1946 (*)
-       Nguyễn Bằng
Cuộc tổng tuyển cử vừa xong (cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 – N.Đ.K).
Nhiều người hoặc vì tính xu thời, hoặc vì cẩu thả, hoặc vì hèn nhát, có khi bất tài nhưng hay đố kị, có khi giầu tâm huyết nhưng không can trường, những người đó không chịu suy xét kỹ càng đã hạ ngay lời bình phẩm, lời bình phẩm đầy tư tưởng yếm thế, toàn một giọng thất bại chán trường. Họ nói rằng: “Rồi cũng toàn nghị gật”.
Không, chúng ta không có quyền bình phẩm như vậy, điều thứ nhất vì lời bình phẩm thảng thốt có óc thiên lệch, điều thứ hai vì nhiều lẽ sau này:
1)   Một điều không ai chối cãi được là từ ngày nay trở đi, chúng ta làm việc cho nước chúng ta, chúng ta đã qua thời ăn chực nằm chờ, mẹ gà con vịt. Nếu chính việc nhà không lo lấy thật thiếu tư cách làm người. “Thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách”. Vậy dẫu thế nào mặc lòng, các ông nghị nay mai thể nào cũng thấy rõ nhiệm vụ của mình hệ trọng hơn các ông nghị hồi Pháp thuộc. Hồi Pháp thuộc, muốn nói người ta bịt miệng, muốn làm người ta chói tay, thôi đành mặc kệ “nhà nước”. Nước giầu hay nghèo đã có Chính phủ, nước thịnh hay suy đã có Chính phủ. Mấy ông nghị viên yên chí ngồi nhà hàng năm lên họp hội đồng lĩnh tiền phụ cấp. Người thức thời chán nản mặc kệ cho kẻ lợi dụng thời cơ, người ngu muội đành cam tâm theo mấy đàn anh hòng kiếm lời chút đỉnh.
2)   Mấy cuộc cách mệnh vừa qua đã đưa quan niệm dân quyền của chúng ta lên trình độ khá cao. Với những cuộc biểu lộ tinh thần ái quốc trong ít lâu nay, chúng ta không thể chối cãi rằng, lòng yêu nước bấy lâu nay chìm đắm, ngày nay, đã nổi bật lên với non sông. Chúng ta không thể không nhận rằng năm Ất Dậu vừa qua[1], chúng ta đã bước một bước thật dài trên tiền đồ chính trị. Từ một nước lạc hậu do bọn đế quốc tư bản cố tình giam giữ không cho nghển cổ trông thấy sóng lửa năm châu, chúng ta đã vượt một giai đoạn khá đẹp trong trào lưu tư tưởng cộng hòa của thế giới. Người dân đã tỉnh ngộ nhất là về dân quyền. Dân quyền càng thấu triệt bao nhiêu, người dân càng tiếc thời giờ đã mất, và càng tiếc thời giờ đã mất, chúng ta càng phải cố gắng theo đuổi cho kịp cùng các bạn tới chỗ “thế giới đại đồng”.
Đó là tâm lý chung của quốc dân Việt Nam và đó là lòng sôi nổi của những người đầy tâm huyết sốt sắng ra làm việc nước, nghĩa là của các ông nghị nước Việt Nam độc lập dân chủ cộng hòa.
3)   Ông nghị Việt Nam hiểu rằng bây giờ không phải là thời xu nịnh quyền thế hòng kiếm lợi riêng vì ngày nay không làm gì có lợi riêng bởi một lẽ giản dị là nước của tất cả mọi người rồi. Vậy chúng ta có thể chắc chắn rằng: Trong số 10 ông nghị thời 9 ông hiểu rõ nhiệm vụ, hay dầu không hiểu rõ chăng nữa cũng biết rằng: nghị trường chẳng còn phải là bậc trèo lên đài danh vọng hão. Chúng ta rất hài lòng khi nhìn qua bảng tổng tuyển cử[2]: dầu tất cả những người được dân cử vào quốc hội không phải toàn là những người lỗi lạc, dầu vẫn còn một vài con cừu ghẻ, nhưng một điều chắc chắn là từng ấy người đều một dạ trung thành yêu nước, còn sự làm được hay không còn do năng lực và kinh nghiệm riêng của từng người.
Nhưng người chúng ta bầu vào Quốc hội có bổn phận lập Hiến pháp. Chúng ta sẽ theo dõi công việc của họ, chúng ta sẽ xét nét từng ly từng tý xem họ có xứng với lòng tín nhiệm của chúng ta chăng, với nhiệm vụ thiêng liêng của họ chăng. Nếu họ không phụ lòng tin của chúng ta, thì sau khi Quốc hội đã làm xong nhiệm vụ là lập Hiến pháp xong rồi giải tán, chúng ta sẽ cử họ vào nghị viện nay mai; nếu họ không đủ tư cách thay mặt chúng ta, chúng ta sẽ dành lá phiếu cho người khác[3]. Tuy vậy muốn để các ông nghị tương lai hiểu rõ nhiệm vụ của mình, chúng tôi không sợ tài sơ viết tập sách nhỏ này, vì chỉ mong rằng:
-       Đối với các ông nghị còn tưởng lầm rằng, làm nghị viên như đi làm việc nhà nước, nghĩa là cắp cặp đi cắp cặp về, quyền này trình bầy cùng các ngài nhiệm vụ thiêng liêng của các ngài để các ngài tự lượng.
-       Đối với những độc giả đã có quan niệm xấu về nghị viện, quyển này phân trần cùng các bạn những nỗi khổ tâm của người thay mặt, mong các bạn dẹp óc thiên lệch, biết công cho người tận tụy và trong từ vựng gạch hẳn hai chữ nghị gật hay nghị cừu.
Nguyện vọng tha thiết của chúng tôi chỉ có thế[4].
Hà Nội, ngày 11 tháng 2 năm 1946
Nguyễn Bằng
(*) Tựa đề bài viết do người giới thiệu đặt. Cách hành văn của tác giả được giữ nguyên, kể cả một số lối dùng chữ cũ. Bài viết được trích từ “Mấy lời nói trước” trong cuốn Nghị Viện của tác giả Nguyễn Bằng; Quang Trung thư xã – xuất bản năm 1946; Giấy phép kiểm duyệt Số 130 ST ngày 22/3/1946. Cuốn sách này tôi bắt gặp trong quá trình tìm tài liệu viết bài cho Hienphap.net. Nhận thấy giá trị thời sự và lịch sử của nó, dù đã được viết hơn một nửa thế kỷ trước, tôi xin giới thiệu lại cùng độc giả Hienphap.net, lần lượt một số phần mà tôi thấy còn nhiều ý nghĩa. Về tác giả Nguyễn Bằng, người giới thiệu chưa tìm thêm được tư liệu xác tín về thân thế tác giả. Các phần chỉ dẫn thêm là của người giới thiệu. Người giới thiệu:  Nguyễn Đắc Kiên.
Chỉ dẫn:
[1] -  Năm 1945, năm nhân dân Việt Nam đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
[2] Kết quả bầu cử ngày 6/1/1946. Tổng số đại biểu: 403, gồm 333 đại biểu được dân bầu, 70 đại biểu không qua bầu cử.
Thành phần xã hội trong Quốc hội khoá I như sau:
+ Trí thức:                  61%
+ Công kỹ nghệ gia:    0,6%
+ Buôn bán:               0,5%
+ Thợ thuyền:            0,6%
+ Nông dân:               22%
Về xu hướng chính trị:
+ Mácxít     10 đại biểu
+ Đảng xã hội       27 đại biểu
+ Đảng Dân chủ    45 đại biểu
+ Đồng minh hội   22 đại biểu
+ Việt Nam Quốc dân đảng      26 đại biểu
+ Đại biểu độc lập, gồm:
- Chống phát xít (tiến bộ)                  82 đại biểu
- Xu hướng quốc gia       90 đại biểu.
Xem thêm: Hồi ký đại biểu Quốc hội khóa I, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2000, phần hồi ký của Vũ Đình Hòe; Nguyễn Đắc Kiên – Tại sao hiến pháp năm 1946 lại dân chủ nhất?
[3] – Tuy nhiên, sau đó, với lý do chiến tranh, việc bầu Nghị viện nhân dân đã không được tổ chức được, Quốc hội lập hiến, tiếp tục hoạt động và trở thành Quốc hội lập pháp. Những quyền mà tác giả Nguyễn Bằng dự tính đã không thực hiện được. [Xem thêm: Lịch sử quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, NXB Chính trị Quốc gia, năm 1994].
[4] – Nguyện vọng tha thiết của tác giả Nguyễn Bằng có lẽ đã không được đền đáp xứng đáng. Những gì đã diễn ra sau đó, cho đến nay, đã phơi bày một sự thật khác với những gì tác giả kỳ vọng, với các ông nghị gật, nghị cừu, với những cái tặc lưỡi kệ “nhà nước”. Bản thân cuốn sách của tác giả Nguyễn Bằng cũng nằm lặng lẽ trên giá Thư viện Quốc gia (Hà Nội), mới đây, khi tìm thấy nó, chính tay tôi đã phải cầm dao dọc từng trang sách dính đôi, từ đầu đến cuối cuốn sách, chứng tỏ nó chưa bao giờ được đọc.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét