Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Quốc hội Đan Mạch với chức năng lập pháp và giám sát

Quốc hội Đan Mạch với chức năng lập pháp và giám sát
Kronborg là 1 trong những lâu đài của Đan Mạch, được đặt ở thành phố Helsingør. Ảnh ĐSQ Đan mạch tại Việt Nam cung cấp




1. Đôi nét về hệ thống chính trị và Quốc hội Đan Mạch
Đan Mạch là một vương quốc theo chế độ đa đảng ở Bắc Âu. Hiến pháp đầu tiên ra đời tháng 6/1849 đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong đời sống chính trị của đất nước Đan Mạch, từ bỏ chế độ quân chủ chuyên chế chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến. Bản Hiến pháp này cơ bản theo các nguyên tắc của Hiến pháp Vương quốc Bỉ. Bộ máy nhà nước theo thể chế tam quyền phân lập, nhưng ban đầu Nhà vua còn chi phối khá nhiều với ngành hành pháp. Nghị viện gồm Thượng viện và Hạ viện. Đến Hiến pháp năm 1866 đã có nhiều thay đổi tiến bộ như quy định các thiết chế bảo vệ quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, bảo vệ giới hạ lưu và người nghèo… Nhưng phụ nữ vẫn chưa có quyền bầu cử, quyền ứng cử. Hiến pháp năm 1915 đã trao quyền bầu cử, ứng cử cho phụ nữ, đây là điểm tiến bộ cơ bản ở Đan Mạch nói riêng, các nước Bắc Âu nói chung vào những năm đầu của thế kỷ XX. Theo đó, người từ 32 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, có quyền ứng cử. Năm 1924, Đan Mạch có vị nữ bộ trưởng đầu tiên.
Hiến pháp hiện hành (Hiến pháp năm 1953) đã có những thay đổi lớn như bỏ Thượng viện, nhập hai viện vào thành Quốc hội một Viện như ngày nay (trước đây, hai viện của Đan Mạch có tổ chức và hoạt động khá giống nhau); thành lập thêm cơ quan mới là Thanh tra Quốc hội và có quy định rất quan trọng về trưng cầu dân ý.
Nhà nước Đan Mạch được xây dựng trên nguyên tắc tam quyền phân lập theo thể chế quân chủ lập hiến từ năm 1849, khi Nhà vua tự nhường quyền lực cho Nghị viện được thành lập theo chế độ bầu cử (không xảy ra bạo loạn lật đổ như ở nhiều nước khác). Theo Hiến pháp Đan Mạch, Quốc hội giữ quyền lập pháp, Chính phủ giữ quyền hành pháp và Tòa án giữ quyền tư pháp.
Quốc hội Đan Mạch có 179 đại biểu (khoảng 30% số đại biểu là nữ), trong đó 8 đảng phái chính trị đã có 175 đại biểu (Đảng cánh tả có 46 đại biểu; Đảng dân chủ - xã hội: 45 đại biểu: Đảng dân tộc Đan Mạch: 25 đại biểu: Đảng dân tộc xã hội: 23 đại biểu; Đảng dân tộc bảo thủ: 18 đại biểu; Đảng cánh tả cấp tiến: 9 đại biểu; Đảng tân liên minh: 5 đại biểu; Đảng thống nhất: 4 đại biểu; còn lại 4 đại biểu tự do: 2 của xứ Phacrô Aixơlen và 2 của đảo Greenland).
Nhiệm kỳ của Quốc hội Đan Mạch là 4 năm, thường có 2/3 số đại biểu được tái cử sau mỗi lần bầu cử. Theo Hiến pháp Đan Mạch, Thủ tướng Chính phủ có quyền giải tán Quốc hội, đề nghị bầu cử trước thời hạn (cuộc bầu cử ngày 23/11/2007 là một ví dụ). Ngược lại, Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một vị bộ trưởng hay toàn thể nội các.
Quốc hội Đan Mạch hiện nay có 25 ủy ban, mỗi ủy ban của Quốc hội tương ứng với lĩnh vực quản lý của một bộ của Chính phủ. Tuy nhiên, việc tương ứng này không phải là tuyệt đối vì đôi khi cũng có sự tách, nhập hay điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của bộ nào đó, trong khi các ủy ban hầu như không thay đổi. Hầu hết các ủy ban đều có 17 thành viên chính thức và một số thành viên dự khuyết, riêng ủy ban Điều lệ có 21 thành viên. Hai ủy ban có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động của Quốc hội Đan Mạch là ủy ban Tài chính và ủy ban châu Âu. Nhiệm vụ chính của ủy ban Tài chính là nghiên cứu các dự luật về tài chính và đưa ra các quan điểm, các quyết định phân bổ, bổ sung ngân sách trong năm cho các bộ. Ủy ban châu Âu xử lý các vấn đề liên quan tới Liên minh châu Âu, ủy quyền cho các bộ trưởng thương lượng những vấn đề liên quan. Bộ trưởng không thể tán thành quyết định của Liên hiệp châu Âu (EU) hay ký hiệp ước khi chưa được đa số thành viên của ủy ban châu Âu đồng ý.
Một đại biểu Quốc hội có thể tham gia một hay nhiều ủy ban tùy theo năng lực và kinh nghiệm làm việc. Trên thực tế, tất cả đại biểu Quốc hội Đan Mạch đều tham gia ít nhất một ủy ban của Quốc hội, thường thì họ đồng thời tham gia từ 2 đến 5 ủy ban. Tại phiên khai mạc của kỳ họp thường niên đầu tiên (sau kỳ bầu cử), Quốc hội phê chuẩn các thành viên của các ủy ban. Số đại biểu của một đảng trong ủy ban tùy thuộc vào số đại biểu của đảng đó trong Quốc hội, có kết hợp với khả năng của đại biểu. Các đảng chính trị cũng tranh đấu để đảng viên của đảng mình được tham gia vào các ủy ban và cũng chọn người để tiến cử vào ủy ban nhằm phát huy uy thế, bảo vệ quan điểm, quyền lợi của Đảng tốt nhất. Nếu có đại biểu là thành viên ở một ủy ban bị khuyết, thành viên dự khuyết của Đảng ở ủy ban đó sẽ tham gia hoạt động thay thế (từ 3 tuần trở lên sẽ được hưởng chế độ như thành viên chính thức).
Ngoài các ủy ban chuyên môn, Quốc hội Đan Mạch còn có Văn phòng Quốc hội là cơ quan tham mưu, giúp việc. Văn phòng có Chủ nhiệm Văn phòng (cũng là Tổng Thư ký Quốc hội) và các Phó Chủ nhiệm. Văn phòng Quốc hội có ba Ban Thư ký, mỗi Ban được phân công hỗ trợ cho 8 đến 10 ủy ban chuyên môn của Quốc hội về các công việc (như: xây dựng và phối hợp lịch làm việc cho đại biểu, ủy ban hay công việc đối ngoại, công tác bảo đảm thông tin, hậu cần…). Mỗi ủy ban lại có hai đến ba thư ký riêng của ủy ban. Hiện nay, biên chế tổng thể của Văn phòng Quốc hội Đan Mạch là 440 người. Nhưng theo một đề án cải cách sắp được thông qua thì, năm 2009 sẽ có thay đổi cơ bản về tổ chức, về chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội Đan Mạch.
2. Hoạt động của Quốc hội Đan Mạch
Quốc hội Đan Mạch làm việc thường xuyên. Kỳ họp thường niên bắt đầu từ ngày thứ ba tuần đầu tiên của tháng 10, kéo dài đến cuối tháng 9 năm sau. Mỗi năm có khoảng 100 phiên họp, tương ứng khoảng 600 giờ làm việc.
Các phiên họp diễn ra 4 ngày trong một tuần, từ thứ 3 đến thứ 6. Mỗi phiên họp không nhất thiết toàn thể nghị sỹ phải có mặt. Các nghị viên có thể họp ở ủy ban, họp đảng phái chính trị hoặc làm việc tại phòng riêng kết hợp theo dõi tình hình tại phòng họp chung của Nghị viện thông qua hệ thống truyền hình nội bộ, khi thấy cần phát biểu hoặc theo dõi trực tiếp một vấn đề nào đó, họ sẽ đến dự họp; khi có vấn đề cần biểu quyết, tất cả các nghị viên phải có mặt tại phòng họp chung.
Ở Quốc hội Đan Mạch không có khái niệm “nghị sỹ chuyên trách” hay “nghị sỹ kiêm nhiệm”, nhưng trên thực tế, chỉ có số rất ít nghị sỹ là thành viên Chính phủ, còn lại hầu hết là nghị sỹ hoạt động chuyên nghiệp. Họ là những nhà chính trị thực thụ, hoạt động theo công việc của các ủy ban trong mối quan hệ giữa quyền lợi của cử tri và của đảng. Họ coi đây là một nghề, đó là nghề hoạt động chính trị, một nghề vinh quang và khó nhọc, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao.
Quốc hội Đan Mạch có hai chức năng cơ bản là lập pháp và giám sát. Các ủy ban của Quốc hội cũng tham gia thực hiện hai chức năng này trong phạm vi thẩm quyền của mỗi ủy ban.
2.1. Thực hiện chức năng lập pháp
Một đại biểu Quốc hội Đan Mạch, nhóm đại biểu (thực hiện ý tưởng của một đảng phái chính trị) hay bộ trưởng là những chủ thể có quyền trình dự án luật. Ban Thư ký Quốc hội là nơi tiếp nhận dự án ban đầu và chủ động lập kế hoạch, đưa vào chương trình phiên họp (do đã được Chủ tịch Quốc hội ủy quyền). Trường hợp có vị bộ trưởng hay đảng khác không đồng tình thì Chủ tịch Quốc hội mới phải can thiệp, điều hòa (chỉ khoảng 10% đến 15% số dự án phải có sự can thiệp của Chủ tịch Quốc hội). Mỗi năm có đến 250 dự án luật được trình. Dự án luật ở Đan Mạch thường ngắn gọn, quy định một số nội dung, chính sách cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện trong cuộc sống.
Về nguyên tắc, dự án luật phải được qua ba lần đọc (cũng hiểu như ba lần trình). Lần đầu tiên được trình tại phòng họp chung của Quốc hội (phiên họp toàn thể). Khi đó, Quốc hội chỉ thảo luận về nguyên tắc chứ không bàn chi tiết nội dung, nghĩa là có đồng ý để dự án luật được đi tiếp hay không, nên thường không có tranh luận nhiều, chỉ mất khoảng 45 phút.
Dự án luật được đưa về một ủy ban chuyên môn của Quốc hội xem xét, nghiên cứu kỹ. Các thành viên ủy ban cho ý kiến đóng góp, các đảng phái chính trị gửi văn bản hoặc người phát ngôn của Đảng phát biểu tại cuộc họp ủy ban nêu quan điểm của Đảng về dự án luật. Trong quá trình này, ủy ban có thể mời bộ trưởng giải trình thêm, nếu là dự án luật từ đề xuất của bộ trưởng; hoặc ủy ban mời bộ trưởng của bộ đảm nhận chuyên môn mà dự án luật đề cập phát biểu quan điểm. ủy ban có thể lấy thêm ý kiến đóng góp từ công chúng, từ chuyên gia… Sau đó, ủy ban làm báo cáo tổng hợp đầy đủ các ý kiến của đại biểu Quốc hội, quan điểm của Đảng, ý kiến giải trình hay phát biểu của bộ trưởng, ý kiến công chúng… chuẩn bị cho lần đọc thứ hai.
Đến lần trình thứ hai tại phòng họp chung, dự án luật đã được sửa đổi, các báo cáo được trình đầy đủ để Quốc hội thảo luận chi tiết. Nếu thuận lợi, dự án luật được xem xét, hoàn chỉnh tiếp thể thức để sớm đưa ra lần đọc thứ ba có tính chất thủ tục để Quốc hội thông qua. Nếu ở lần trình thứ hai còn nhiều vấn đề tranh cãi trong Quốc hội, dự án luật lại được đưa trở lại ủy ban làm kỹ hơn, chuẩn bị cho lần trình thứ ba ở phòng họp chung. Việc tranh cãi ở Quốc hội là đương nhiên, vì người Đan Mạch quan niệm Quốc hội là tổ chức được sinh ra để tranh cãi, quá trình tranh cãi để tìm ra quyết định của số đông là sáng suốt. Nếu không còn tranh cãi thì không cần sự tồn tại của Quốc hội.
Tại lần đọc thứ ba, các ý kiến đề nghị sửa đổi được đưa ra biểu quyết và cuối cùng, Quốc hội biểu quyết thông qua toàn bộ dự án luật. Dự án luật không được đa số ủng hộ ở lần đọc thứ ba sẽ không được xem xét tiếp. Một dự án luật được Quốc hội thông qua chỉ có hiệu lực khi đã được Nhà vua chấp thuận (dù chỉ là hình thức).
Để bảo đảm một dự án luật được xem xét cẩn trọng, thấu đáo, không vội vàng, thời gian giữa lần đọc thứ nhất và thứ hai phải đủ 02 tuần, và phải đủ 30 ngày từ lần đọc thứ nhất thì dự án luật mới có thể được thông qua. Đây là điều bắt buộc, dù Quốc hội làm việc liên tục.
Theo thống kê từ thực tiễn những năm qua, đa số dự án luật mới do bên Chính phủ (các bộ trưởng) trình, vì xuất phát từ nhu cầu quản lý, điều hành. Các ủy ban ít trình dự án luật mới mà thường có nhiều đề xuất dự án luật sửa đổi.
Ngoài việc xem xét thông qua dự án luật, hàng năm, Quốc hội Đan Mạch còn xem xét các đề xuất và thông qua khoảng 200 nghị quyết. Việc thông qua nghị quyết của Quốc hội chỉ phải qua tối đa hai lần đọc ở phòng họp chung.
2.2. Thực hiện chức năng giám sát
Việc giám sát được thực hiện ở Quốc hội và ở các ủy ban. Quốc hội và các ủy ban không tổ chức các đoàn đi giám sát ở địa phương mà chỉ giám sát việc thực thi nhiệm vụ, chấp hành pháp luật của Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng. Thời gian Quốc hội dành cho hoạt động giám sát ít hơn dành cho hoạt động xây dựng pháp luật. Thông thường, các đảng phái chính trị đối lập thực hiện việc giám sát nhiều hơn. Phương thức phổ biến để Quốc hội thực hiện quyền giám sát là tổ chức chất vấn, yêu cầu điều trần, bỏ phiếu bất tín nhiệm và xem xét báo cáo.
Trình tự tổ chức chất vấn ở Quốc hội Đan Mạch có nhiều điểm giống ở Quốc hội Việt Nam, từ việc nêu chất vấn, việc tập hợp nội dung, vào lịch của phiên họp, bộ trưởng trả lời và đại biểu chất vấn tiếp… đến việc Quốc hội có thể ra nghị quyết về một vấn đề nào đó.
Có hai hình thức chất vấn là chất vấn tập thể - hầu hết là từ nhóm đại biểu của đảng đối lập với vị bộ trưởng bị chất vấn và chất vấn đơn lẻ của một đại biểu. Do Quốc hội Đan Mạch họp thường xuyên nên việc xây dựng chương trình chất vấn phải có cơ sở để thực hiện, tránh tùy tiện ảnh hưởng tới chương trình chung. Luật của Đan Mạch quy định: nếu có 40% đại biểu yêu cầu thì phải tổ chức chất vấn trong vòng 6 ngày tại phòng họp chung.
Với các chất vấn của cá nhân đại biểu, Quốc hội Đan Mạch bố trí lịch cố định vào chiều thứ tư hàng tuần. Từ 13 giờ đến 14 giờ, bộ trưởng trả lời chất vấn trực tiếp; sau 14 giờ, bộ trưởng trả lời những chất vấn có văn bản gửi trước. Chất vấn bằng văn bản phải gửi chậm nhất vào chiều thứ 6 tuần trước để Ban Thư ký tập hợp, báo cáo Chủ tịch Quốc hội chuẩn bị cho phiên chất vấn thứ 4 tuần sau.
Vào 10 giờ sáng thứ 3, tùy tình hình kinh tế - xã hội và tình hình chất vấn của đại biểu Quốc hội mà Thủ tướng Chính phủ phân công và thông báo tên hai vị Bộ trưởng sẽ trả lời chất vấn ngày thứ 4. Ban Thư ký sẽ vào trang chủ để đại biểu Quốc hội bố trí tham dự phiên chất vấn, công chúng cũng biết để theo dõi tình hình hoặc có thể dự thính. Mỗi năm, Thủ tướng Chính phủ chủ động đăng ký trả lời chất vấn trước Quốc hội 5 đến 6 lần.
Chủ tịch Quốc hội điều hành phiên chất vấn, thường mỗi giờ có khoảng 10 lượt người hỏi (thời gian hỏi không quá 2 phút /người); nếu quá nhiều người hỏi, Chủ tịch phân bổ, điều chỉnh người hỏi ở các Đảng khác nhau. Mỗi đại biểu chỉ được chất vấn không quá hai câu hỏi ở phiên chất vấn ngày thứ 4. Mỗi vị bộ trưởng trả lời không quá 1 giờ. Những câu chưa kịp trả lời hoặc câu quá chi tiết, Bộ trưởng sẽ trả lời sau bằng văn bản, nhưng không được chậm quá 4 tuần.
Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội Đan Mạch còn tổ chức điều trần khi thấy cần thiết. Điều trần ở các ủy ban diễn ra thường xuyên hơn. ủy ban mời Bộ trưởng Bộ có liên quan đến phiên họp của ủy ban để điều trần, giải trình làm rõ về một vấn đề mà ủy ban hoặc dư luận xã hội đang quan tâm.
Bỏ phiếu bất tín nhiệm cũng là một hình thức giám sát ở Quốc hội. Khi có đại biểu Quốc hội yêu cầu, Chủ tịch Quốc hội phải đưa vào chương trình để Quốc hội bỏ phiếu. Thường chỉ đại biểu của Đảng đối lập mới đưa ra yêu cầu. Về nguyên tắc, có một đại biểu yêu cầu cũng phải đưa ra bỏ phiếu. Tuy nhiên, dù cơ chế không quá chặt chẽ, rất dân chủ, nhưng thực tế Quốc hội không mấy khi phải làm việc này vì hai lý do sau:
- Đại biểu Quốc hội, nhóm đại biểu thuộc Đảng chính trị cân nhắc, xem xét kỹ, nếu cảm thấy chắc được đa số ủng hộ thì mới nêu yêu cầu, bởi bỏ phiếu mà không đủ đa số coi như Đảng mình thua; do đó, họ rất cẩn trọng khi đưa yêu cầu bỏ phiếu bất tín nhiệm Thủ tướng hay bộ trưởng thuộc đảng khác;
- Khi bộ trưởng cảm thấy uy tín quá thấp, Quốc hội sắp đưa ra bỏ phiếu bất tín nhiệm, họ thường chủ động xin từ chức trước.
Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội Đan Mạch thường xuyên xem xét báo cáo của Thủ tướng Chính phủ, của các vị bộ trưởng. Việc xem xét báo cáo như vậy yêu cầu đại biểu Quốc hội phải có chuyên môn để có thể đánh giá, phát hiện vấn đề, phục vụ cho hoạt động chất vấn hay điều trần.
Công việc của Quốc hội Đan Mạch chủ yếu diễn ra ở Nhà Quốc hội với hai chức năng cơ bản là xây dựng pháp luật và giám sát. Ngoài ra, cá nhân đại biểu Quốc hội còn những hoạt động gắn với địa phương nơi họ ứng cử. Đại biểu Quốc hội thường xuyên chủ động bố trí về cơ sở, khu vực bầu cử để gặp gỡ cử tri với các hình thức khá phong phú, như: tổ chức các hội nghị, hội thảo, đăng đàn trên truyền hình, báo chí ở địa phương; làm từ thiện; nắm tình hình kinh tế - xã hội phục vụ cho việc giám sát và xây dựng pháp luật...
Nguyễn Nhân Tỏ - Phó Vụ trưởng Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội

Nguon: Nghien Cuu Lap Phap - Van Phong Quoc Hoi

0 nhận xét:

Đăng nhận xét