Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013
Sự nghiệp của Karl Marx
13:33
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tên tuổi của Karl Marx cùng với
Friedrich Engels mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng
lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối
với nhân loại tiến bộ.
Karl Marx (1818 – 1883) sinh ngày 5
tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier trên bờ sông Mozel, một nhánh của
sông Rhein. Trier là một thành phố cổ của Đức, thời Trung cổ, Trier là
thủ đô của một công quốc tôn giáo lớn, nơi cư trú của đại giáo chủ xứ
Trier. Tuy vậy, Trier không nằm ngoài phong trào xã hội sôi động ở nước
Đức và cuộc sống yên tĩnh của thành phố này cũng bộc lộ những mâu thuẫn
xã hội sâu sắc giữa dân nghèo thành thị với thiểu số tầng lớp thị dân
giàu có.
Heinrich Marx là một người cha có nhân
cách khác thường, học rộng, hiểu biết khá rõ về những tác phẩm của các
nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII, đặc biệt về Jean Jacques Rousseau (Giăng
Giăcơ Russô) và Voltaire (Vôlte). Heinrich Marx rất yêu quý con trai,
đáp lại Karl Marx cũng rất gắn bó với cha. Tình cảm cha con không hề bị
suy giảm ngay cả trong thời kỳ xảy ra những bất đồng quan điểm trong
nhận thức về sứ mệnh cuộc đời hai bố con. Suốt đời Karl Marx hết sức
kính trọng bố, luôn luôn đem theo mình tấm ảnh của bố chụp theo lối
Daguerre (Đagher cổ).
Mẹ của Karl Marx, bà Henrietta Presburg,
vốn gốc người Hà Lan, mẹ của chín người con nên bà chỉ ở nhà làm công
việc nội trợ. Thế giới tinh thần của bà bị bó hẹp và bà không trở thành
người bạn thực sự của con trai như bố đối với Karl Marx. Trong bốn anh
em trai và năm chị em gái thì Karl Marx là người con yêu trong gia đình,
là linh hồn của đám trẻ cùng lứa tuổi vì đầu óc thông minh, biết bày ra
các trò chơi hấp dẫn, biết sáng tác ra đủ mọi thứ chuyện tưởng tượng.
Thời niên thiếu và thanh niên
Năm mười hai tuổi (1830) Karl Marx vào
học trường trung học ở Trier, học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh
vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. Marx cũng tỏ ra có năng lực về toán
học.
Thời học phổ thông Marx may mắn gặp có
những thầy tốt như thầy hiệu trưởng trung học ở Trier dạy lịch sử và
triết học, thầy dạy toán và vật lý - những người theo chủ nghĩa duy vật
và có xu hướng tự do.
Mùa thu 1835, Marx tốt nghiệp trung học,
sau đó, tháng Mười năm 1835, Marx vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để
học luật. Hai tháng sau, theo lời khuyên của bố, Marx theo học ở trường
Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, chàng thanh niên
Marx đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Marx bốn tuổi, Janny
vôn Vestphalen, con gái viên Tam đẳng đại thần Ludwig vôn Vestphalen
thuộc dòng dõi quý tộc. Ở trường Đại học Tổng hợp Berlin, năm 1836,
ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Marx bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết
học. Mùa xuân 1837, Marx bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hégel, sang
năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một
phần của năm 1840 Marx tập trung nghiên cứu những vấn đề của lịch sử
triết học Cổ đại. Ngày 15 tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, Karl Marx nhận
được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của Épicure tại trường Đại học Tổng hợp Jena (Jêna).
Tháng Năm 1843, Marx đến Kroinak, một
thành phố nhỏ vùng Rhein, nơi Jenne vôn Vestphalen, vị hôn thê của Marx
đang sống cùng với mẹ. Ngày 19 Tháng Sáu 1843, Marx chính thức làm lễ
thành hôn với Jenny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình Jenny.
Những năm tháng sống ở nước ngoài
Cuối tháng Mười 1843, vợ chồng Karl Marx
đi Paris, thủ đô nước Pháp. Sau này Marx có dịp đến Paris một vài lần
nữa, nhưng chuyến đi Paris đầu tiên mà Marx lưu lại một năm rưỡi là
quãng thời gian đầy ý nghĩa đối với sứ mệnh chính trị của Karl Marx.
Lần đầu tiên, Marx gặp Engels vào cuối
tháng Mười một 1842, khi Engels trên đường sang Anh và ghé thăm Bộ biên
tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Engels
đến thăm Marx ở Paris. Trong 10 ngày ở thăm Paris, Marx và Engels đã có
nhiều cuộc nói chuyện cởi mở và từ cuộc gặp gỡ này hai ông đã trở thành
những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả vấn đề lý
luận và thực tiễn.
Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc
Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất Marx. Ngày 3 tháng Hai 1845, Marx rời
Paris đến Brussel, ít lâu sau Engels cũng đến đây và hai ông lại tiếp
tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1845 ở Pháp nổ ra,
Chính phủ Bỉ đã trục xuất Marx. Ông lại đến Paris, tháng Tư 1848, Marx
cùng với Engels đến Koln, một thành phố nhỏ trên bờ sông Rhein nước Đức,
và tại đây Marx trở thành Tổng biên tập tờ Báo Mới tỉnh Ranh, cơ quan
của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất
Marx. Ông lại đến Paris, nhưng lần này ông chỉ lưu lại 3 tháng. Tháng
Tám 1849, từ Paris Marx đi London và sống đến cuối đời (1883).
Ngày 14 tháng Ba 1883, Marx qua đời ở London và được an táng tại nghĩa trang Highgate (Haighết), Bắc London.
Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử của Karl Marx
Mới 19 tuổi (1837), Karl Marx đã nghiên
cứu kỹ tác phẩm của Hégel (1770 -1831), triết gia Đức nổi tiếng và là
người sáng lập ra học thuyết về phép biện chứng duy tâm. Đặc biệt, Marx
chú ý đến triết học của Épicure (Êpicur) một trong những nhà tư tưởng
lớn nhất thời Cổ đại.Quan tâm đến vấn đề thái độ của con người đối với
thế giới xung quanh, Marx đã giải quyết được những vấn đề quan trọng như
triết học có chứng minh tất cả những cái hiện tồn tại là hợp lý hay
không, hay là nó chứa đựng trong bản thân nó cái cần phải có ngược với
cái đang tồn tại. Marx đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của Épicure muốn
vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi những xiềng
xích ràng buộc của tôn giáo và mê tín.
Trong luận án tiến sĩ Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démecrite và triết học tự nhiên của Épicure
(1841) Marx kịch liệt chống mê tín, dị đoan và mọi triết học phản động
muốn việc nghiên cứu khoa học phải phục tùng lợi ích của tôn giáo. Tiếp
theo, Marx đã viết một bài báo sắc sảo (2-1842) chống lại sự kiểm duyệt
báo chí của chế độ chuyên chế Phổ, nhân đó lên án gay gắt các thể chế
nhà nước Phổ. Marx phê phán mạnh mẽ hơn chế độ chuyên chế Phổ và những
nhà tư tưởng bênh vực cho chế độ này khi trở thành người lãnh đạo tờ báo
Rheinische Zeitung vào tháng Mười 1842. Tháng Giêng
1843 Chính phủ Phổ ký lệnh đình bản tờ báo. Marx càng nhận thức rõ hơn ở
Vương quốc Phổ không thể công khai tuyên truyền cách mạng được. Từ thời
điểm này trở đi vấn đề cơ bản mà Marx quan tâm là vấn đề cách mạng, bản
chất, nguyên nhân và động lực của nó.
Công tác thực tiễn ở báo Rheinisehe Zeitung
đã làm thay đổi về cơ bản thế giới quan của, chuyển từ chủ nghĩa duy
tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ
nghĩa cộng sản. Nghiên cứu tác phẩm của Hégel, Marx thấy rõ Nhà nước
không phải là hiện thân của lý trí thế giới, hiện thân của cái chung
đứng riêng các lợi ích riêng như Hégel khẳng định. Marx thấy phải xét
lại một cách có phê phán cái quan niệm duy tâm của Hégel về xã hội và
nhà nước, phát hiện những động lực thật sự của tiến bộ xã hội, những
biện pháp và hình thức làm biến đổi thế giới bằng cách mạng. Thời kỳ
này, Marx viết một công trình quan trọng phê phán học thuyết của Hégel
về Nhà nước và pháp luật có nhan đề: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hégel
(sau khi Marx qua đời công trình này mới được xuất bản ở Liên Xô năm
1927). Đóng góp to lớn về mặt lý luận của Marx trong quá trình phê phán
Hégel đưa ra một quan niệm đúng đắn về một chế độ xã hội dân chủ, ở đó
nền dân chủ là sự tự quyết của nhân dân, lợi ích của nhân dân.
Tháng Hai 1844, trên tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher (Niên giám Pháp - Đức) Marx đăng bài Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hégel. Lời mở đầu,
khẳng định rằng giai cấp có thể thực hiện việc giải phóng toàn thể nhân
loại phải là giai cấp vô sản. Cũng trên tờ tạp chí này có hai tên tác
giả đứng cạnh nhau: Karl Marx và Friedrich Engels, người sau này gắn
liền với tên tuổi và học thuyết cách mạng của Karl Marx. Tuy nhiên những
quan điểm mới của Kar Marx trình bày trên tờ tạp chí Deutsch –
Franzosische Jahrbucher chỉ là một giả thuyết thiên tài đối với sự phát
triển lịch sử của xã hội. Nó cần được chứng minh về mặt lịch sử. Và Marx
đã hướng toàn bộ hoạt động lý luận để phục vụ việc chứng minh này.
Hiện thực khách quan sinh động ở nước
Pháp thời gian Marx sống ở Paris đã giúp Marx hiểu sâu hơn cơ cấu nội
tại của sự phát triển chủ nghĩa tư bản và những mâu thuẫn của nó.
Từ tháng Tư – tháng Tám 1844. Marx viết Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này Marx phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản.
Tháng Hai 1845, cuốn sách Gia đình thần
thánh của Marx và Engels viết chung ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa
duy tâm chủ quan của phái Hégel trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ
nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của Marx ở Paris kết thúc (tháng
Hai 1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà Marx tự
đặt ra cho mình: đề xuất một học thuyết cách mạng mới.
Marx cùng với Engels hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức
(1845 – 1846) tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hégel và phái
Hégel trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của
Ludwig Feuerbach (Ludvich Phoiơbach). Trong cuốn Sự bần cùng của triết học
(1847) Marx đã chống lại triết học tiểu tư sản của P.J.Proudhon
(Pruđông) và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chính trị kinh tế học vô sản.
Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản Marx và Engel viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
- một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Marx và đảng vô
sản, nó soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu
tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô
sản đến thắng lợi. Marx và Engels đã phân tích một cách sâu sắc vai trò
của đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội loài người. Cuộc đấu tranh
giữa những người bị áp bức và những kẻ áp bức là động lực chủ yếu của sự
phát triển lịch sử. Vạch rõ những quy luật chủ yếu của cuộc cách mạng
vô sản, Marx và Engels viết rằng, bước đầu tiên của cuộc cách mạng đó là
“biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Tư tưởng đó là tư tưởng xác lập “chuyên chính của giai cấp vô sản” (mặc dù trong Tuyên ngôn
chưa có thuật ngữ này), và khái niệm chuyên chính vô sản và nhà nước vô
sản được thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn. Đồng thời Marx cũng khẳng
định rõ đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển và quy
luật bạo lực cách mạng trong việc giành lấy chính quyền về tay giai cấp
vô sản.
Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của Karl Marx Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học
ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan
trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết mác xít về giá
trị, cơ sở của học thuyết kinh tế của Karl Marx.
Karl Marx là người tổ chức và là lãnh tụ
của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 Tháng 9 năm 1864, ở London.
Marx dốc toàn bộ tâm sức của mình để thống nhất phong trào công nhân các
nước liên hợp lại. Năm 1867, Bộ Tư bản (tập I) – tác phẩm chủ yếu của Marx ra đời. Tập II và III Marx không kịp hoàn tất, Engel đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này.
Trong Bộ Tư bản của
mình Karl Marx đã trình bày những vấn đề hết sức quan trọng của sản xuất
tư bản nói chung: sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, giá trị thặng dư
tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối, sự chuyển hoá giá trị thặng dư
trở thành tư bản (tích luỹ tư bản), tích luỹ ban đầu của tư bản (tập I);
những vấn đề về giá trị thặng dư và lợi nhuận, sự chuyển hoá của lợi
nhuận thành lợi nhuận trung bình, tư bản cho vay và tư bản thương nghiệp
v.v…(tập II và III).
Tóm lại, Marx đã vạch rõ quy luật giá
trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng
dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền
sản xuất hàng hoá được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong
những quy luật của lưu thông tiền tệ v.v…Trong kết luận của bộ Tư bản,
Marx nêu lên sự tất yếu phải thủ tiêu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và
thay thế nó bằng một hình thái tổ chức cao hơn của xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Trong tác phẩm những năm cuối đời Marx
nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức
chính trị như công xã Pari (Cuộc nội chiến ở Pháp – 1881).
Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gotha
(1875) Marx đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của
những người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức
quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản
và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng
sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp - chủ nghĩa xã hội
và giai đoạn cao - chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876 sau khi Quốc tế I giải
tán, Marx nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm
vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.
Karl Marx mất ngày 14/3/1883 lại thủ đô
London, Vương quốc Anh.Sau khi Marx mất, Engels tiếp tục hoàn thành và
xuất bản các công trình lý luận của Marx; tổ chức, lãnh đạo Quốc tế II
và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới vào những năm
cuối Thế kỷ 19.
Tên tuổi củaKarl Marxcùng với Friedrich
Engels mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ
nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại
tiến bộ.
Tổng hợp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét