Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

TRAO ĐỔI VỀ HIẾN PHÁP VÀ TRƯNG CẦU DÂN Ý


BÀI 1: BAO NHIÊU Ý DÂN LÀ ĐỦ
Tác giả: Phạm Thị Hoài,
Nguồn: Pro&Contra, đăng ngày 22/2/2013,
truy cập đường link gốc tại đây


Từ khi tôi trở thành công dân Đức, Hiến pháp Đức đã có 10 bổ sung, sửa đổi mà tôi không hề được hỏi ý kiến. Nhưng không chỉ riêng tôi. Hàng xóm, bạn bè, người quen, đồng nghiệp, tất cả đều như vậy. Nhân dân CHLB Đức chưa bao giờ được trưng cầu ý kiến về văn bản tối thượng mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản) của mình.



Nó được soạn thảo bởi 65 vị trong Parlamentarischer Rat (Hội đồng Nghị viện), dưới sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền quân quản Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến II. Sau khi được thông qua với 53 phiếu thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng Nghị viện, nó được trình cho ba chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau khi được các Thống đốc Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các nghị viện tiểu bang để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó được Hội đồng Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Người dân – bốn năm trước còn sống trong Đế chế Quốc xã với Quốc trưởng Hitler – không trực tiếp, nếu không muốn nói là không tham dự vào quy trình lập hiến đó. Bản hiến pháp được coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy không do ý nguyện dân chủ từ dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ trên xuống, thậm chí với áp đặt từ các thế lực ngoại bang.


Năm 1990, trong quy trình thống nhất nước Đức, nghị viện của các tiểu bang thuộc Đông Đức cũ cũng phê chuẩn và gia nhập Hiến pháp này mà nhân dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây đều không được trực tiếp biểu quyết. Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp Đức có 59 bổ sung, sửa đổi, lần cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một lần nào có trưng cầu ý dân[1]. Song điều đó không cản trở nước Đức, không lâu sau sự ngự trị của cả hai chế độ toàn trị kinh hoàng của thế kỉ 20 là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản trên lãnh thổ của mình, thành một trong những nền dân chủ trưởng thành và ổn định nhất trên thế giới.


Hiển nhiên mỗi quốc gia có con đường lập hiến của riêng mình. Trong cuộc thảo luận về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang diễn ra ở Việt Nam, một trong những tiêu chí được nhấn mạnh không chỉ ở giới cấp tiến là quyền lập hiến của người dân. Báo chí Việt Nam, cả chính mạch lẫn ngoài luồng, tràn ngập những lời đòi hỏi, xác nhận và xiển dương nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân và thuộc về nhân dân. Trên mặt chữ, chưa bao giờ nhân dân được kính trọng, được gửi gắm nhiều tin cậy, được phó thác nhiều quyền lực như thế. Nhiều đến mức không thể không nghi vấn. Trong thực tế, những khái niệm trừu tượng này được thực hiện qua những hình thức và cấp độ khác nhau của trưng cầu ý dân (referendum).


Song trong những điều kiện hiện có, tôi rất hoài nghi giá trị của một cuộc trưng cầu như thế tại Việt Nam. Thậm chí tôi còn cho rằng thay vì thực hiện chức năng thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa xã hội lên phía trước, nó có nhiều nguy cơ kéo giật lùi tiến trình ấy về phía sau. Một phát đạn ngược nòng. Điều này không liên quan gì đến lập luận nhảm nhí rằng dân trí chưa cao thì chưa thể thi hành dân chủ, bởi lẽ một cuộc trưng cầu ý dân tại Việt Nam, đặc biệt ở hình thức cao nhất là toàn dân phúc quyết hiến pháp, có thể là tất cả mọi thứ, chỉ trừ là một hành động thực thi dân chủ.


Ai nắm trong tay mọi phương tiện có thể khuynh loát vô giới hạn tất cả các khâu trọng yếu của một cuộc trưng cầu ý dân trong thời điểm hiện tại, từ chuẩn bị nội dung cần đưa ra trưng cầu, tổ chức thông tin và quảng bá, tổ chức và giám sát bỏ phiếu, tổ chức và giám sát kiểm phiếu, đến đánh giá, công bố và thực thi kết quả? Ai có thể điều khiển, nhồi sọ và lừa mị dư luận bằng bộ máy tuyên truyền khổng lồ của mình? Ai có thể đe dọa cử tri bằng guồng máy đàn áp khét tiếng của mình? Ai có thể mua những lá phiếu bằng đủ thứ hứa hẹn ban phát ưu đãi và thậm chí bằng đất tươi và tiền mặt? Ai có thể tùy tiện chế biến, diễn giải và sử dụng kết quả bỏ phiếu theo ý mình? Những người đưa ra kiến nghị trưng cầu ý dân đã không quên đòi hỏi đi kèm, rằng nó phải được “tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới“. Nhưng chỉ cần đặt tiếp một số câu hỏi đơn giản hơn – Báo giới nào? Người dân nào được chọn trên cơ sở tiêu chuẩn nào vào vai giám sát? Minh bạch theo đánh giá của ai?… – là có thể thấy rằng hiện tại, một cuộc trưng cầu đáp ứng được những đòi hỏi ấy là hoàn toàn bất khả thi.


Thêm vào đó, đa số dân chúng Việt Nam là những người đã có hơn một nửa thế kỉ để rèn luyện tinh thần cầu an và thụ động như những kĩ năng sống căn bản. Hai chục năm gần đây họ còn tích lũy thêm một kĩ năng đầy tinh thần thời đại khác: bàng quan với mọi vấn đề không trực tiếp đụng chạm đến quyền lợi của mình và gia đình. Họ cũng dễ bị tha hóa và đã bị tha hóa sâu sắc như chính những người cai trị họ. Tôi không có những con số cụ thể – tất nhiên, không ai có cả – nhưng theo cảm nhận riêng thì ước chừng 20% cử tri Việt Nam là những người từ trung thành đến trung thành tuyệt đối với chế độ hiện tại; 30% là những người có thể không ưa mặt này hay mặt khác của chế độ đó, ít hay nhiều có những bất mãn hoặc bất bình cục bộ, song hợp tác và gắn bó với chế độ về nhiều phương diện – kể cả phương diện sổ hưu. Vâng, vì sao không? – và không có nhu cầu thay thế nó bằng một chế độ nào khác mà họ chưa từng biết hay chỉ nghe nói loáng thoáng; 40% là những người không biết và không cần biết mình đang sống trong một thể chế nào, miễn sao cuộc sống thường nhật của mình được bảo đảm; 8% là những người mong muốn thay đổi thể chế chính trị bằng phép mầu từ lột xác của Đảng Cộng sản và liều thuốc thần tự cải cách của chế độ. Những người chủ trương thay thế toàn bộ hệ thống Đảng trị và công an trị hiện tại bằng mô hình dân chủ tự do phương Tây chiếm vỏn vẹn 2% còn lại – tức trên dưới 1 triệu người, tính một cách hào phóng, con số trong thực tế có thể khiêm tốn hơn rất nhiều.


Từ những hoàn cảnh ấy, không cần phải là một nhà tiên tri cũng có thể biết trước kết quả của một cuộc trưng cầu ý dân tại Việt Nam. Không có gì dễ dàng và khôn ngoan hơn cho chính quyền Hà Nội, nếu nó cho diễn ngay lập tức một màn kịch như thế. Trong khói lửa của cuộc nội chiến, đầu năm ngoái Tổng thống Syria Assad đã thành công rực rỡ với nước cờ toàn dân phúc quyết hiến pháp, trong khi phe đối lập nỗ lực ngăn cản sự kiện này. Gần 90% cử tri tán thành bản hiến pháp mới, trong đó thậm chí nguyên tắc đa đảng được xác nhận. Nhà độc tài lại hoàn toàn chính danh. Trước đó, chính quyền không thể gọi là dân chủ ở Maroc cũng nhanh chân thoát khỏi áp lực của Mùa Xuân Ảrập bằng cách mở vài cái van phụ trong hiến pháp sửa đổi và có thể hài lòng với 98 % số phiếu thuận. Trưng cầu ý dân ở Ai Cập thì đem lại cho đất nước này một hiến pháp thần quyền, với nền tảng là Luật Hồi giáo Sharia, bất chấp sự cự tuyệt của chính các thẩm phán và các nhóm đối lập. Xa hơn một chút trong lịch sử, cuộc trưng cầu ý dân duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam năm 1955 phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống đã không tặng cho người dân miền Nam một thể chế dân chủ đáng mơ ước. Xa hơn chút nữa, cuộc biểu quyết của toàn dân (Volksabstimmung) năm 1934 tại Đức với gần 90% số phiếu thuận đã đặt một nhân vật lên bệ phóng, để đẩy cả lịch sử đất nước này lẫn lịch sử thế giới vào một chương cực kì đen tối: Adolf Hitler.


Bao nhiêu ý dân thì đủ đảm bảo một hiến pháp tốt đẹp?


Tôi không ủng hộ đề nghị tổ chức toàn dân phúc quyết hiến pháp tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.


© 2013 pro&contra






[1] Thậm chí đa số dân chúng Đức còn không biết rõ hay không quan tâm điều gì được bổ sung, điều gì được sửa đổi. Thái độ đó có những cơ sở mà tôi sẽ đề cập trong một dịp khác.

------------------------------- 

BÀI 2: NHẦM LẪN KHÁI NIỆM "HIẾN PHÁP"

TS. Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, đăng ngày 12/3/2013,
truy cập đường link gốc tại đây



Trong bài “Bao nhiêu ý dân thì đủ?”*, tác giả Phạm Thị Hoài đã sử dụng nhầm lẫn hai khái niệm Verfassung (Hiến pháp) khác với Grundgesetz (Luật cơ bản) vốn có quan hệ nội hàm “cành, nhánh” hay “mẹ, con”.


Để phủ định quyền dân phúc quyết hiến pháp, tác giả Phạm Thị Hoài viện dẫn thực tế quá trình lập hiến Đức (trích): Nhân dân CHLB Đức chưa bao giờ được trưng cầu ý kiến về văn bản tối thượng mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản) của mình. Nó được soạn thảo bởi 65 vị trong Parlamentarischer Rat (Hội đồng Nghị viện), dưới sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền quân quản Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến II. Sau khi được thông qua với 53 phiếu thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng Nghị viện, nó được trình cho ba chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau khi được các Thống đốc Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các nghị viện tiểu bang để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó được Hội đồng Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Bản hiến pháp được coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy không do ý nguyện dân chủ từ dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ trên xuống, thậm chí với áp đặt từ các thế lực ngoại bang.
Năm 1990, trong quy trình thống nhất nước Đức, nghị viện của các tiểu bang thuộc Đông Đức cũ cũng phê chuẩn và gia nhập Hiến pháp này mà nhân dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây đều không được trực tiếp biểu quyết. Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp Đức có 59 bổ sung, sửa đổi, lần cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một lần nào có trưng cầu ý dân. Song điều đó không cản trở nước Đức … thành một trong những nền dân chủ trưởng thành và ổn định nhất trên thế giới”, (Hết trích).
Tác giả đã sử dụng nhầm lẫn hai khái niệm Verfassung (Hiến pháp) khác với Grundgesetz (Luật cơ bản) vốn có quan hệ nội hàm “cành, nhánh” hay “mẹ, con”. Từ năm 1949 tới nay, nước Đức chỉ có Luật Cơ bản năm 1949 và sửa toàn diện năm 1990, được coi như Hiến pháp chứ không phải Hiến pháp. Nó được xuất bản với tờ bìa mang tên “Grundgesetz” và gọi đúng tên đó trên các văn bản pháp lý trích nó. Luật, bất cứ là luật gì cơ bản hay không, do nghị viện ban hành đều không nhất thiết phải phúc quyết, bởi đó là quyền lập pháp của họ, giải thích tại sao Luật Cơ bản Cộng hoà Liên bang Đức chưa bao giờ phúc quyết. Còn đã gọi là “Hiến pháp” thì phải do người dân phúc quyết, vốn chỉ họ mới có quyền lập hiến, xuất phát từ nguyên lý: Hiến pháp của dân phải do dân quyết, giống như chính quyền của dân thì phải do dân bầu. Đó là dấu hiệu khác nhau giữa nội hàm khái niệm “Luật cơ bản” và nội hàm “Hiến pháp”. Điểm giống nhau là chúng cùng quy định: a- thiết chế nhà nước và b- khẳng định quyền con người và quyền công dân mà nhà nước có trách nhiệm phải thực hiện không được xâm phạm - tức quyền cơ bản. Nếu chỉ dừng lại ở đó, thông qua nghị viện, rồi ký lệnh ban hành, thì được gọi là “Luật Cơ bản”, còn thực hiện thêm công đoạn tiếp theo “Phúc quyết” thì được gọi là hiến pháp. Lý do tại sao Luật Cơ bản CHLB Đức năm 1949 lại không trưng cầu dân ý, tác giả Phạm Thị Hoài đã lý giải đúng sự kiện. Còn lý do tại sao tới lần sửa đổi toàn diện năm 1990 vẫn không phúc quyết, bởi chỉ đơn giản do CHDC Đức gia nhập CHLB Đức, nghĩa là phải chấp nhận Luật Cơ bản của họ, giống như Việt Nam sau 1975, chứ không phải hai bên thống nhất thành lập một quốc gia để ban hành một Hiến pháp mới cho mình.
Điều đó cũng giải thích tại sao Hiến pháp mới thông thường gắn liền với các hệ quả đổ vỡ một thiết chế, cách mạng xã hội, tranh chấp bạo lực, chiến tranh (đã trình bày ở bài Hiến pháp sao phải sửa?). Ngoại lệ có thể tìm thấy trong trường hợp Nam Phi hay Miến Điện. Khi đó Hiến pháp không còn là mục đích trực tiếp của đổ vỡ, cách mạng, bạo lực, chiến tranh, mà trở thành phương tiện hoà bình để vượt qua nó.
Với nội hàm khái niệm Hiến pháp nêu trên, các nước có thể mặc định, tức tự hiểu đã là Hiến pháp tất phải phúc quyết (lẽ tự nhiên như quyền ăn uống hít thở, không nhất thiết phải đưa vào hiến pháp) hoặc hiến định như Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946: Điều 21, “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp”.
Tới Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này, người chấp bút đã không tuân thủ nguyên lý logic học, cũng sử dụng nhầm lẫn giữa 2 khái niệm Hiến pháp và Luật Cơ bản như trường hợp Phạm Thị Hoài, khi viết Điều 123: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Hệ lụy, một khi đã gọi là hiến pháp thì đương nhiên trước hết phải là luật cơ bản, vì vậy Điều 123 nhắc lại là thừa. Mặt khác, đưa ra 1 câu mang tính tiền đề như Điều 123, làm người đọc dễ ngộ nhận, nhầm tưởng khái niệm hiến pháp nằm trong khái niệm luật cơ bản, trong khi luật cơ bản chỉ là một phần nội hàm của khái niệm Hiến pháp.
---

* http://www.procontra.asia/?p=1623

0 nhận xét:

Đăng nhận xét