BÀI 1: BAO NHIÊU Ý DÂN LÀ ĐỦ
Tác giả: Phạm Thị Hoài,
Nguồn: Pro&Contra, đăng ngày 22/2/2013,
Từ khi tôi trở thành công dân Đức, Hiến
pháp Đức đã có 10 bổ sung, sửa đổi mà tôi không hề được hỏi ý kiến.
Nhưng không chỉ riêng tôi. Hàng xóm, bạn bè, người quen, đồng nghiệp,
tất cả đều như vậy. Nhân dân CHLB Đức chưa bao giờ được trưng cầu ý kiến
về văn bản tối thượng mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản) của mình.
Nó được soạn thảo bởi 65 vị trong Parlamentarischer Rat
(Hội đồng Nghị viện), dưới sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền quân
quản Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến II. Sau khi được thông qua với 53
phiếu thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng Nghị viện, nó được trình
cho ba chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau khi được các Thống
đốc Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các nghị viện tiểu
bang để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó được Hội
đồng Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa
Liên bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Người dân – bốn
năm trước còn sống trong Đế chế Quốc xã với Quốc trưởng Hitler – không
trực tiếp, nếu không muốn nói là không tham dự vào quy trình lập hiến
đó. Bản hiến pháp được coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy
không do ý nguyện dân chủ từ dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ
trên xuống, thậm chí với áp đặt từ các thế lực ngoại bang.
Năm 1990, trong quy trình thống nhất
nước Đức, nghị viện của các tiểu bang thuộc Đông Đức cũ cũng phê chuẩn
và gia nhập Hiến pháp này mà nhân dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây đều
không được trực tiếp biểu quyết. Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp
Đức có 59 bổ sung, sửa đổi, lần cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một
lần nào có trưng cầu ý dân[1].
Song điều đó không cản trở nước Đức, không lâu sau sự ngự trị của cả
hai chế độ toàn trị kinh hoàng của thế kỉ 20 là chủ nghĩa phát xít và
chủ nghĩa cộng sản trên lãnh thổ của mình, thành một trong những nền dân
chủ trưởng thành và ổn định nhất trên thế giới.
Hiển nhiên mỗi quốc gia có con đường lập
hiến của riêng mình. Trong cuộc thảo luận về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi
đang diễn ra ở Việt Nam, một trong những tiêu chí được nhấn mạnh không chỉ ở giới cấp tiến
là quyền lập hiến của người dân. Báo chí Việt Nam, cả chính mạch lẫn
ngoài luồng, tràn ngập những lời đòi hỏi, xác nhận và xiển dương nguyên
tắc mọi quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân và thuộc về nhân dân.
Trên mặt chữ, chưa bao giờ nhân dân được kính trọng, được gửi gắm nhiều
tin cậy, được phó thác nhiều quyền lực như thế. Nhiều đến mức không thể
không nghi vấn. Trong thực tế, những khái niệm trừu tượng này được thực
hiện qua những hình thức và cấp độ khác nhau của trưng cầu ý dân (referendum).
Song trong những điều kiện hiện có, tôi
rất hoài nghi giá trị của một cuộc trưng cầu như thế tại Việt Nam. Thậm
chí tôi còn cho rằng thay vì thực hiện chức năng thúc đẩy tiến trình dân
chủ hóa xã hội lên phía trước, nó có nhiều nguy cơ kéo giật lùi tiến
trình ấy về phía sau. Một phát đạn ngược nòng. Điều này không liên quan
gì đến lập luận nhảm nhí rằng dân trí chưa cao thì chưa thể thi hành dân
chủ, bởi lẽ một cuộc trưng cầu ý dân tại Việt Nam, đặc biệt ở hình thức
cao nhất là toàn dân phúc quyết hiến pháp, có thể là tất cả mọi thứ,
chỉ trừ là một hành động thực thi dân chủ.
Ai nắm trong tay mọi phương tiện có thể
khuynh loát vô giới hạn tất cả các khâu trọng yếu của một cuộc trưng cầu
ý dân trong thời điểm hiện tại, từ chuẩn bị nội dung cần đưa ra trưng
cầu, tổ chức thông tin và quảng bá, tổ chức và giám sát bỏ phiếu, tổ
chức và giám sát kiểm phiếu, đến đánh giá, công bố và thực thi kết quả?
Ai có thể điều khiển, nhồi sọ và lừa mị dư luận bằng bộ máy tuyên truyền
khổng lồ của mình? Ai có thể đe dọa cử tri bằng guồng máy đàn áp khét
tiếng của mình? Ai có thể mua những lá phiếu bằng đủ thứ hứa hẹn ban
phát ưu đãi và thậm chí bằng đất tươi và tiền mặt? Ai có thể tùy tiện
chế biến, diễn giải và sử dụng kết quả bỏ phiếu theo ý mình? Những người
đưa ra kiến nghị trưng cầu ý dân đã không quên đòi hỏi đi kèm, rằng nó phải được “tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới“.
Nhưng chỉ cần đặt tiếp một số câu hỏi đơn giản hơn – Báo giới nào?
Người dân nào được chọn trên cơ sở tiêu chuẩn nào vào vai giám sát? Minh
bạch theo đánh giá của ai?… – là có thể thấy rằng hiện tại, một cuộc
trưng cầu đáp ứng được những đòi hỏi ấy là hoàn toàn bất khả thi.
Thêm vào đó, đa số dân chúng Việt Nam là
những người đã có hơn một nửa thế kỉ để rèn luyện tinh thần cầu an và
thụ động như những kĩ năng sống căn bản. Hai chục năm gần đây họ còn
tích lũy thêm một kĩ năng đầy tinh thần thời đại khác: bàng quan với mọi
vấn đề không trực tiếp đụng chạm đến quyền lợi của mình và gia đình. Họ
cũng dễ bị tha hóa và đã bị tha hóa sâu sắc như chính những người cai
trị họ. Tôi không có những con số cụ thể – tất nhiên, không ai có cả –
nhưng theo cảm nhận riêng thì ước chừng 20% cử tri Việt Nam là những
người từ trung thành đến trung thành tuyệt đối với chế độ hiện tại; 30%
là những người có thể không ưa mặt này hay mặt khác của chế độ đó, ít
hay nhiều có những bất mãn hoặc bất bình cục bộ, song hợp tác và gắn bó
với chế độ về nhiều phương diện – kể cả phương diện sổ hưu. Vâng, vì sao
không? – và không có nhu cầu thay thế nó bằng một chế độ nào khác mà họ
chưa từng biết hay chỉ nghe nói loáng thoáng; 40% là những người không
biết và không cần biết mình đang sống trong một thể chế nào, miễn sao
cuộc sống thường nhật của mình được bảo đảm; 8% là những người mong muốn
thay đổi thể chế chính trị bằng phép mầu từ lột xác của Đảng Cộng sản
và liều thuốc thần tự cải cách của chế độ. Những người chủ trương thay
thế toàn bộ hệ thống Đảng trị và công an trị hiện tại bằng mô hình dân
chủ tự do phương Tây chiếm vỏn vẹn 2% còn lại – tức trên dưới 1 triệu
người, tính một cách hào phóng, con số trong thực tế có thể khiêm tốn
hơn rất nhiều.
Từ những hoàn cảnh ấy, không cần phải là
một nhà tiên tri cũng có thể biết trước kết quả của một cuộc trưng cầu ý
dân tại Việt Nam. Không có gì dễ dàng và khôn ngoan hơn cho chính quyền
Hà Nội, nếu nó cho diễn ngay lập tức một màn kịch như thế. Trong khói
lửa của cuộc nội chiến, đầu năm ngoái Tổng thống Syria Assad đã thành
công rực rỡ với nước cờ toàn dân phúc quyết hiến pháp, trong khi phe đối
lập nỗ lực ngăn cản sự kiện này. Gần 90% cử tri tán thành bản hiến pháp
mới, trong đó thậm chí nguyên tắc đa đảng được xác nhận. Nhà độc tài
lại hoàn toàn chính danh. Trước đó, chính quyền không thể gọi là dân chủ
ở Maroc cũng nhanh chân thoát khỏi áp lực của Mùa Xuân Ảrập bằng cách
mở vài cái van phụ trong hiến pháp sửa đổi và có thể hài lòng với 98 %
số phiếu thuận. Trưng cầu ý dân ở Ai Cập thì đem lại cho đất nước này
một hiến pháp thần quyền, với nền tảng là Luật Hồi giáo Sharia, bất chấp
sự cự tuyệt của chính các thẩm phán và các nhóm đối lập. Xa hơn một
chút trong lịch sử, cuộc trưng cầu ý dân duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam
năm 1955 phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng
thống đã không tặng cho người dân miền Nam một thể chế dân chủ đáng mơ
ước. Xa hơn chút nữa, cuộc biểu quyết của toàn dân (Volksabstimmung)
năm 1934 tại Đức với gần 90% số phiếu thuận đã đặt một nhân vật lên bệ
phóng, để đẩy cả lịch sử đất nước này lẫn lịch sử thế giới vào một
chương cực kì đen tối: Adolf Hitler.
Bao nhiêu ý dân thì đủ đảm bảo một hiến pháp tốt đẹp?
Tôi không ủng hộ đề nghị tổ chức toàn dân phúc quyết hiến pháp tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
© 2013 pro&contra
[1]
Thậm chí đa số dân chúng Đức còn không biết rõ hay không quan tâm điều
gì được bổ sung, điều gì được sửa đổi. Thái độ đó có những cơ sở mà tôi
sẽ đề cập trong một dịp khác.
-------------------------------
BÀI 2: NHẦM LẪN KHÁI NIỆM "HIẾN PHÁP"
TS. Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, đăng ngày 12/3/2013,
truy cập đường link gốc tại đây
Trong bài “Bao nhiêu ý dân thì đủ?”*, tác giả Phạm Thị Hoài đã sử dụng nhầm lẫn hai khái niệm Verfassung (Hiến pháp) khác với Grundgesetz (Luật cơ bản) vốn có quan hệ nội hàm “cành, nhánh” hay “mẹ, con”.
Để
phủ định quyền dân phúc quyết hiến pháp, tác giả Phạm Thị Hoài viện dẫn
thực tế quá trình lập hiến Đức (trích): Nhân dân CHLB Đức chưa bao giờ
được trưng cầu ý kiến về văn bản tối thượng mang tên Grundgesetz (Luật
Cơ bản) của mình. Nó được soạn thảo bởi 65 vị trong Parlamentarischer
Rat (Hội đồng Nghị viện), dưới sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền
quân quản Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến II. Sau khi được thông qua với
53 phiếu thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng Nghị viện, nó được trình
cho ba chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau khi được các Thống
đốc Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các nghị viện tiểu
bang để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó được Hội
đồng Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa
Liên bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Bản hiến pháp
được coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy không do ý nguyện
dân chủ từ dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ trên xuống, thậm
chí với áp đặt từ các thế lực ngoại bang.
Năm 1990, trong quy trình thống nhất nước Đức, nghị viện của các tiểu
bang thuộc Đông Đức cũ cũng phê chuẩn và gia nhập Hiến pháp này mà nhân
dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây đều không được trực tiếp biểu quyết.
Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp Đức có 59 bổ sung, sửa đổi, lần
cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một lần nào có trưng cầu ý dân. Song
điều đó không cản trở nước Đức … thành một trong những nền dân chủ
trưởng thành và ổn định nhất trên thế giới”, (Hết trích).
Tác giả đã sử dụng nhầm lẫn hai khái niệm Verfassung (Hiến pháp) khác với Grundgesetz
(Luật cơ bản) vốn có quan hệ nội hàm “cành, nhánh” hay “mẹ, con”. Từ
năm 1949 tới nay, nước Đức chỉ có Luật Cơ bản năm 1949 và sửa toàn diện
năm 1990, được coi như Hiến pháp chứ không phải Hiến pháp. Nó được xuất
bản với tờ bìa mang tên “Grundgesetz” và gọi đúng tên đó trên các văn
bản pháp lý trích nó. Luật, bất cứ là luật gì cơ bản hay không, do nghị
viện ban hành đều không nhất thiết phải phúc quyết, bởi đó là quyền lập
pháp của họ, giải thích tại sao Luật Cơ bản Cộng hoà Liên bang Đức chưa
bao giờ phúc quyết. Còn đã gọi là “Hiến pháp” thì phải do người dân phúc
quyết, vốn chỉ họ mới có quyền lập hiến, xuất phát từ nguyên lý: Hiến
pháp của dân phải do dân quyết, giống như chính quyền của dân thì phải
do dân bầu. Đó là dấu hiệu khác nhau giữa nội hàm khái niệm “Luật cơ
bản” và nội hàm “Hiến pháp”. Điểm giống nhau là chúng cùng quy định: a-
thiết chế nhà nước và b- khẳng định quyền con người và quyền công dân mà
nhà nước có trách nhiệm phải thực hiện không được xâm phạm - tức quyền
cơ bản. Nếu chỉ dừng lại ở đó, thông qua nghị viện, rồi ký lệnh ban
hành, thì được gọi là “Luật Cơ bản”, còn thực hiện thêm công đoạn tiếp
theo “Phúc quyết” thì được gọi là hiến pháp. Lý do tại sao Luật Cơ bản
CHLB Đức năm 1949 lại không trưng cầu dân ý, tác giả Phạm Thị Hoài đã lý
giải đúng sự kiện. Còn lý do tại sao tới lần sửa đổi toàn diện năm 1990
vẫn không phúc quyết, bởi chỉ đơn giản do CHDC Đức gia nhập CHLB Đức,
nghĩa là phải chấp nhận Luật Cơ bản của họ, giống như Việt Nam sau 1975,
chứ không phải hai bên thống nhất thành lập một quốc gia để ban hành
một Hiến pháp mới cho mình.
Điều đó cũng giải thích tại sao Hiến pháp mới thông thường gắn liền với
các hệ quả đổ vỡ một thiết chế, cách mạng xã hội, tranh chấp bạo lực,
chiến tranh (đã trình bày ở bài Hiến pháp sao phải sửa?). Ngoại lệ có
thể tìm thấy trong trường hợp Nam Phi hay Miến Điện. Khi đó Hiến pháp
không còn là mục đích trực tiếp của đổ vỡ, cách mạng, bạo lực, chiến
tranh, mà trở thành phương tiện hoà bình để vượt qua nó.
Với nội hàm khái niệm Hiến pháp nêu trên, các nước có thể mặc định, tức
tự hiểu đã là Hiến pháp tất phải phúc quyết (lẽ tự nhiên như quyền ăn
uống hít thở, không nhất thiết phải đưa vào hiến pháp) hoặc hiến định
như Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946: Điều 21, “Nhân dân có
quyền phúc quyết về Hiến pháp”.
Tới Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này, người chấp bút đã không
tuân thủ nguyên lý logic học, cũng sử dụng nhầm lẫn giữa 2 khái niệm
Hiến pháp và Luật Cơ bản như trường hợp Phạm Thị Hoài, khi viết Điều
123: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”.
Hệ lụy, một khi đã gọi là hiến pháp thì đương nhiên trước hết phải là
luật cơ bản, vì vậy Điều 123 nhắc lại là thừa. Mặt khác, đưa ra 1 câu
mang tính tiền đề như Điều 123, làm người đọc dễ ngộ nhận, nhầm tưởng
khái niệm hiến pháp nằm trong khái niệm luật cơ bản, trong khi luật cơ
bản chỉ là một phần nội hàm của khái niệm Hiến pháp.
---
* http://www.procontra.asia/?p=1623
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét