Giữa triết học kinh viện và cuộc
đời thực có khoảng cách lớn. Nhưng Trần Đức Thảo, người được coi như
triết gia biện chứng duy vật lịch sử xuất sắc của Việt nam thế kỷ XX, đã
hy vọng tìm thấy chân lý ngay trong đời sống thực mỗi ngày.
Và niềm hy vọng đã trả lời trong những
tác phẩm triết học uy tín của ông trên thế giới. Điều kỳ diệu là ông đã
viết chúng bằng chất liệu rút ra từ đời sống thực ngay chính trên Tổ
quốc thiêng liêng của mình.
Cuộc “kịch chiến” huy hoàng
Trong
các cuộc tranh luận tư tưởng khoa học, nghệ thuật... giống như trong
thể thao (quyền Anh), những người lên tiếng trước, tức là những kẻ
“thách đấu” luôn biết rõ sức mạnh thực sự của đối thủ. Chính vậy mà cuối
năm 1949, đời sống tinh thần châu Âu chao đảo dữ dội, các nhà tư tưởng,
các triết gia, nhà văn, nghệ sĩ... và cả công chúng có tri thức của
châu Âu bị chấn động khi vị "chủ soái" của thuyết Hiện sinh nhà văn lẫy
lừng khắp thế giới, Jean Paul Sartre, chủ động đưa ra lời mời “tranh
luận” với một triết gia người Việt nam, Trần Đức Thảo.
Sự kiện J.P. Sare thực tâm muốn tranh
luận để cố chứng minh chất "nhân bản" trong chủ thuyết của mình là một
chuyện kỳ lạ đối với nhà văn có đầu óc ngạo mạn này. Nhưng các nhà khoa
học châu Âu còn kinh ngạc hơn vì trong đầu họ, tri thức chỉ có ở những
xã hội văn minh chứ không thể đến từ những nước họ coi là thuộc đia cần
được khai sáng. Chính vậy nên khi Trần Đức Thảo nhận lời cuộc tranh luận
được ghi lại rất tỉ mỉ, từng lời nói, từng quan điểm để nhanh chóng
chứng minh sự thất bại chắc chắn của triết gia An Nam xa xôi.
Cuộc
tranh luận tổ chức thành năm buổi luận đàm trực tiếp có nhiều người
nghe. Trong thời gian này, thuyết Hiện sinh của J.P. Sartre có ảnh hưởng
rất lớn trong xã hội Pháp, lôi kéo được rất nhiều trí thức và giới sinh
viên đi theo. Tư tưởng của J.P. Sartre thực chất là sự biến thể tư
tưởng của Rimbaud, nhà thơ hoảng loạn cuối thế kỷ XIX. Thuyết Hiện sinh
của J.P. Sartre không có gì mới mẻ cả. Nó không bắt nguồn từ tư tưởng
của Kierkegaard như đa số lầm tưởng. J.P. Sartre đã đọc sách tư tưởng
phương Đông và rút lấy bài học từ những chứng nghiệm của Thiền tông.
Tuy nhiên, J.P. Sartre đã lầm lẫn từ
những "hành động" nội tâm sang những hoạt động bình thường trong xã hội.
Bằng trái tim chiêm nghiệm phương Đông, Trần Đức Thảo đã chỉ ra thực
chất sai lầm của thuyết Hiện sinh, mặt khác, bằng trí óc mạnh mẽ, lập
luận lôgích, ông đã chứng minh chất ưu đẳng của chủ nghĩa Duy vật biện
chứng theo cảm nhận của cá nhân ông lúc đó.
Với vốn tiếng Pháp tuyệt vời của mình,
Trần Đức Thảo đã bẻ gãy những "đòn" lập luận lắt léo của người đối
thoại. Ông dùng hiện thực lịch sử sinh động để minh chứng cho những quan
điểm của mình. Lập luận của J.P. Sartre vốn dựa vào "tư biện" hoàn
toàn, không dựa vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống thực nên không đủ
thuyết phục ngay cả những trí thức theo dõi bên ngoài. J.P. Sartre lâm
vào thế "cưỡi hổ", liền đề nghị một "thỏa hiệp" phân chia "quyền lợi"
của thuyết Hiện sinh và chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Thuyết Hiện sinh
thuộc về triết học; chủ nghĩa Duy vật biện chứng thuộc về những vấn đề
chính trị xã hội. Nhưng cái "mẹo" muốn đẩy chủ nghĩa duy vật biện chứng
ra khỏi toà lâu đài triết học đã không đánh lừa được triết gia người
Việt.
Do Trần Đức Thảo giữ vững quan điểm của
mình nên cuộc tranh luận đi đến việc định nghĩa lại những khái niệm nền
tảng của triết học. Về "ý thức đầu tiên" khởi sinh trong con người được
Husserl (Nhà hiện tượng học nổi danh bấy giờ) trình bày trong cuốn "Trải
nghiệm và luận giải". J.P. Sartre không nắm rõ cuốn đó nên cuộc tranh
luận tạm ngừng lại. Trần Đức Thảo hào hiệp đồng ý không kể lại cuộc trao
đổi này. Cuộc tranh luận được ngóng chờ đột nhiên lắng đi khiến dư luận
không khỏi thắc mắc.
Những môn đồ của J.P. Sartre hậm hực vì
phải kết thúc tranh luận trong yên lặng nên nhân dịp này đổ lỗi cho
triết gia người Việt làm hỏng cuộc tranh luận. Để bảo vệ quan điểm của
mình, Trần Đức Thảo buộc lòng phải lên tiếng đề nghị cho in bản tốc ký.
Lúc này, thế giới tinh thần châu Âu mới bàng hoàng hiểu rằng triết gia
người Việt chính là người chiến thắng.
Chỉ có một con đường: Nổ súng
Giáo
sư Trần Đức Thảo sinh năm 1917 ở thôn Song Tháp, xã Châu Khê, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình khá giả. Cha ông làm ngành Bưu
điện nên có điều kiện cho hai cậu con trai xuống Hà nội học trường Tây.
Cha ông đăng ký cho ông thi vào học trường Luật, một trường thực dân
Pháp mở ra chủ yếu dạy con cái người Pháp ở Hà nội với những giáo sư
giảng dạy có tiếng. Lúc này chủ nghĩa phát xít đang để lộ những nanh
vuốt khủng khiếp của nó. Giới khoa học cố sức khôi phục tinh thần nhân
văn xã hội của Hegel. Điều này để lại ấn tượng vô cùng mãnh liệt cho cậu
học trò ham suy luận. Trần Đức Thảo tốt nghiệp xuất sắc trường Luật và
được đăng ký dự thi vào Trường cao đẳng Sư phạm phố D'Ulm ở Paris năm
1939. Đây là trường thuộc loại danh giá nhất trong hệ thống đào tạo đại
học ở Pháp.
Nhiều triết gia, nhà văn, nhà hoạt động
xã hội lừng danh của châu Âu từng được đào tạo ở đây Người Việt du học
không mấy người thi vào được trường D'Ulm. Do ý thức được ngôi trường
mình đang học là đầu mối tiếp xúc của các tư tưởng tiên tiến trên thế
giới, Trần Đức Thảo ngày đêm đọc sách, tìm tòi tư liệu trên báo chí.
Trong đầu ông tràn ngập tư tưởng của các hiền nhân. Ông đặc biệt quan
tâm đến tác phẩm của Husserl và Hegel. Luận văn tốt nghiệp của ông đạt
điểm cao nhất khóa học. Tên tuổi ông được giới khoa học đặc biệt chú ý.
Thời gian này, tác phẩm của Husserl là
chủ đề của hầu hết mọi cuộc đàm luận về triết học và xã hội, bởi phát
xít Đức cấm dạy tác phẩm của triết gia này ở các trường đại học. Ông bảo
vệ thành công luận án cao học rồi tiến sĩ về "Hiện tượng học của
Husserl tại Trường đại học Sorbonne danh tiếng. Do đó ông nghiễm nhiên
trở thành một triết gia được giới trí thức chờ đợi và kính trọng. Càng
tiến triển trên con đường vinh quang, gặp gỡ nhiều tầng lớp tri thức,
Trần Đức Thảo càng nhận rõ số phận đất nước, quê hương của mình. Ông
tích cực dạy tư cho nhiều nhóm sinh viên du học người Việt về những tư
tưởng triết học tiến bộ trên thế giới. Bên cạnh đó, ông tham gia nhiệt
tình vào Hội kiều dân Đông Dương, kêu gọi giới trí thức và nhân dân tiến
bộ châu Âu nhận rõ thực chất của chủ nghĩa đế quốc. Đồng thời, bằng
những sự thực lịch sử hùng hồn, ông đập tan những luận điệu bôi nhọ,
xuyên tạc về Mặt trận Việt Minh.
Năm 1944, trong Đại hội kiều dân họp ở
Avignon, Trần Đức Thảo đã trình bày cương lĩnh đấu tranh đòi thiết lập
nền dân chủ ở Đông Dương. Ông tự mình viết rất nhiều truyền đơn và tổ
chức họp báo vận động, kêu gọi kiều dân, dư luận xã hội Pháp ủng hộ cuộc
cách mạng chính nghĩa ở Việt nam. Năm 1945, ông cùng với Lê Viết Hường
thay mặt Hội kiều dân Đông Dương làm việc với Maurice - Tổng bí thư Đảng
cộng sản Pháp, tại trụ sở Đảng về tình hình Đông Dương. Nhận thấy những
hoạt động của ông tố cáo trực tiếp những lợi ích bẩn thỉu của chế độ
thực dân, nhà cầm quyền lập tức bắt Trần Đức Thảo.
Nhiều nhà khoa học Pháp, báo Nhân đạo
(L'humanité), Thời hiện đại (Les Temps Modemes)... liên tục lên tiếng
đòi chính quyền trả tự do cho Trần Đức Thảo. Trước phản ứng gay gắt của
dư luận, nhà cầm quyền Pháp chơi trò "gắp lửa bỏ tay người", tung tin
lập lờ rằng Trần Đức Thảo dường như có quan hệ với phát xít Đức. Nhưng
trò chơi tiểu nhân đó không làm cho dư luận lầm lẫn. Giới trí thức thực
sự hiểu rõ ông là ai, bởi tên tuổi ông còn gắn với Husserl một kẻ thù
của tư tưởng phát xít. Cuối cùng chúng phải thả người con của tự do
nhưng không quên công khai giám sát ông chặt chẽ.
Để minh chứng
tinh thần bất khuất của một người con yêu nước, Trần Đức Thảo kiên
quyết không tiếp tục làm việc với Trung tâm Nghiên cứu quốc gia Pháp
(CNRS). Ông dạy triết học tư, viết sách để kiếm sống. Trong một cuộc họp
báo kêu gọi ủng hộ cách mạng ở Việt nam, một nhà báo hỏi: "Với tư cách
là một triết gia, ông cho rằng nhân dân Việt nam sẽ hành động thế nào
khi quân viễn chinh Pháp đổ bộ". Trần Đức Thảo đáp lại ngắn gọn, đanh
thép: "Nổ súng?".
Triết gia nhập thế Cũng
giống như các trí thức lớn theo lời hiệu triệu của Hồ Chủ tịch rũ bỏ
cuộc sống yên ổn, phồn hoa ở Paris, trở về làm cách mạng. Nhưng số phận
ông có điều đặc biệt hơn bởi các nhà triết học thường tự giam mình trong
tháp ngà cá nhân xa lánh nhân thế. Khi biết quyết định trở về của ông,
những trí thức châu Âu cho rằng thế giới sẽ mất đi một triết gia lỗi
lạc. Nhưng khước từ "chủ nghĩa kinh viện" trong nghiên cứu, Trần Đức
Thảo thực sự muốn "Phải làm cho cuộc sống nhất trí với triết học".
Chính vậy mà tinh thần của ông "nhập
thế", lao động với những vấn đề cốt yếu nhất mà xã hội đặt ra. Cuối năm
1951, để khỏi bị theo dõi, ông chỉ mang theo vài cuốn sách quý như thể
đi du lịch, bí mật rời khỏi Paris. Từ Luân Đôn qua Praha, qua Mátxcơva,
Trần Đức Thảo ngang qua Bắc kinh, tìm đường về biên giới Việt-Trung. Từ
lâu, tên tuổi của ông đã là niềm tự hào của giới trí thức và sinh viên
trong nước. Buổi thuyết giảng đầu tiên, sinh viên ngồi kín hội trường.
Nhiều giáo sư tìm đến nghe.
Bằng tiếng mẹ đẻ thuần khiết, ông đã
truyền lòng say mê môn học khó khăn này cho sinh viên... Giảng dạy được
ít lâu, ông chuyển sang làm những công việc khác, có những công việc
hoàn toàn không hợp với khả năng của ông. Cuộc sống thử thách ông, muốn
biết ông có bất lực phải trở về với "chủ nghĩa kinh viện cổ điển" trong
nghiên cứu triết học hay không. Dường như vai trò một người hoạt động xã
hội không hợp với ông.
Tuy vậy, ông đón nhận những khó khăn của
cuộc sống bằng cách tiếp tục lao động hăng hái hơn. Những tác phẩm của
ông liên tục được đăng trên các tạp chí triết học của Pháp như "Hạt nhân
của phép biện chứng", "Từ hiện tượng học đến phép duy vật biện chứng
của trí thức"... Những tác phẩm tiếp theo như "Vấn đề con người và chủ
nghĩa lý luận không có con người", "Sự ra đời của con người đầu tiên"...
cho đến tác phẩm cuối cùng "Lôgíc của thực tại sống động" đã khiến ông
nổi danh trên toàn thế giới. Những tác phẩm này được dịch ra rất nhiều
thứ tiếng như Đức, Tây Ban Nha, Anh, Nhật Bản... và được nghiên cứu
trong nhiều trường đại học trên thế giới. Trần Đức Thảo trở thành một
trong những triết gia duy vật lịch sử uy tín của thế kỷ XX. Trong lời
giới thiệu cuốn "Nghiên cứu nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ" của ông,
Nhà xuất bản Xã hội ở Paris viết rằng, tư tưởng của triết gia Trần Đức
Thảo đã ghi dấu ấn quan trọng đến tinh thần của cả thế hệ trí thức, sinh
viên Pháp những năm năm mươi.
Ngay tại nước Đức, đất nước của triết
học cũng có nhiều triết gia tự nhận là môn đệ của Trần Đức Thảo. Bằng nỗ
lực không ngừng kiếm tìm "triết học" ngay trong cuộc sống hiện tại trên
quê hương, ông đã tạo dựng được nền tảng triết lý chắc chắn của môn
khoa học vừa khó khăn, vừa đặc biệt "quý tộc" này. Sự ngụy tạo và lười
biếng của một số người hay đổ lỗi cho sự khó khăn xã hội nên không làm
việc được đã bị phơi bày trước "thực tại sống động" của cuộc đời ông.
Bí mật đời thường của triết gia
Đối
với các triết gia, nhu cầu thường trực của họ là được yên tĩnh để suy
tưởng, cho nên những nhu cầu cá nhân khác dường như không thiết yếu lắm.
Tuy nhiên, tình yêu cũng rạo rực trong trái tim triết gia một lần. Năm
1949, nữ sinh Nguyễn Thị Nhứt sang Pháp để ôn thi vào Trường đại học
Sorbonne. Theo lời bạn học, cô đến học ôn triết học của thầy Thảo ngay
tại nhà trọ của thầy. Hai người tỏ ra quý mến nhau, nhưng khi gặp thầy
cũng chỉ nói chuyện triết học. Trước khi về nước, ông chỉ nói rằng nếu
còn gặp lại thì sẽ sống với nhau.
Khi bà về nước, họ trở thành vợ chồng và
một lễ cưới đơn sơ. Ngay khi sống với nhau, bà hiểu ra rằng tâm trí ông
dồn cả vào triết học. Nhiều lần bà ngồi ăn cơm một mình trong khi chồng
ở ngay phòng bên cạnh. Ông hầu như không để ý đến những nhu cầu cá nhân
hằng ngày, thậm chí còn khó chịu khi ai đó tỏ ra chăm sóc mình vì vô
tình người kia đã kéo ông ra khỏi dòng suy tưởng.
Một mình bà không thể giữ được tình cảm
thuở ban đầu. Bà bị viêm tử cung và không thể có con. Đứa con - sự ràng
buộc đồng thời là thiên thần che chở cho hạnh phúc gia đình, cuộc đời
không ban cho vợ chông bà. Bà lặng lẽ ra đi. Gia đình không hiểu đời
sống của triết gia, muốn tìm cho ông một người bạn đời khác, ông kiên
quyết từ chối. Ông sống một mình và tự lo lấy sinh hoạt cá nhân hằng
ngày. Do ông bị bệnh tiểu đường nên món ăn chính của ông là lạc rang và
đậu xanh.
Theo lời cháu họ ông kể lại thì khi
triết gia vào bếp, từ hai món đó sẽ nấu thành những món ăn chưa từng
thấy trong các sách nội trợ. Để lấy chỗ để sách, ông nhờ mấy người buôn
đồng nát đến cho họ khiêng khỏi nhà từ giường, tủ buýpphê, chăn màn,
giày dép, chén điã... Căn phòng chỉ còn chiếc đivăng lớn chất đầy sách
chừa ra một khoảng nhỏ có mắc màn sẵn.
Một lần, mọi người trong
khu tập thể thấy khói bay ra từ nhà ông, hàng xóm xô cửa vào thấy ông
đang ngồi viết, chiếc nồi nhôm đang đun bên cạnh bị nung đỏ, thức ăn
cháy hết... Sau một thời gian ngắn trở lại Paris làm việc, sống trong
một điều kiện vật chất, tiện nghi hết sức tối thiểu, triết gia Trần Đức
Thảo vĩnh biệt thế giới vào hồi 8 giờ 10 phút ngày 24.4.1993 tại Bệnh
viện Broussais.
Thi thể triết gia được hỏa thiêu, gửi
tro về chôn ở nghĩa trang Văn Điển. Hôm đưa tang, bà Nhứt đến với vòng
băng tang trên cánh tay to hơn một chút so với vòng tang của những người
bình thường. Ông đã ngủ yên trong lòng Đất Mẹ. Mãi mãi như vậy, từ Đất
Mẹ "trí tuệ" trổ hoa, tỏa hương bay khắp bốn phương.
Theo AN NINH THẾ GIỚI CUỐI THÁNG
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét