Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

TRƯỜNG PHÁI PHÁP LUẬT LỊCH SỬ Ở ĐỨC



Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
Số 5 (289) 2012, đăng ngày 14/5/2012, tr. 39–47, đường link mục lục tạp chí tại đây.
 
Trường phái pháp luật lịch sử (die historische Rechtsschule) là trường phái pháp luật lớn, phát triển mạnh nhất ở Đức trong suốt thế kỷ XIX. Mở đầu cho sự ra đời của trường phái pháp luật lịch sử này là cuộc tranh luận khoa học giữa hai nhà luật học Thibaut (17721840) và Savigny (17791861) về vấn đề pháp điển hóa Bộ luật dân sự thống nhất của nước Đức. Những học giả của trường phái pháp luật lịch sử, mà người sáng lập là Savigny đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sự phát triển khoa học pháp lý ở Đức, trong đó quan trọng nhất là việc xây dựng một phương pháp tiếp cận pháp luật mới, khảo cứu một cách toàn diện, có hệ thống Luật La Mã và thực tiễn áp dụng ở thời trung cổ để đưa ra những đóng góp tích cực vào quá trình pháp điển hóa Bộ luật dân sự của Đức năm 1900.


1. Tác phẩm “Về sự cần thiết ra đời bộ pháp điển hóa Luật dân sự thống nhất ở Đức” năm 1814 của Thibaut

Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các vùng trên nước Đức như Bayern (1756), Preußen (1794), Baden (1809) đều đã xây dựng được các bộ pháp điển riêng về dân luật. Những nơi khác, Tòa án vẫn áp dụng Luật La Mã và Luật của giáo hội từ thời trung cổ. Khác với Pháp và Áo, đế chế Đức lúc đó vẫn chưa có sự thống nhất về chính trị. Cuộc xung đột vũ trang giữa quân đội Pháp và Đức (1813–1815) cũng như sự ra đời của Bộ luật dân sự của Pháp 1804 là động lực cho những nhà luật học Đức yêu nước mong muốn xây dựng một Bộ pháp điển dân luật thống nhất. Họ cho rằng đây sẽ là một bước quan trọng để tiến tới sự thống nhất về chính trị trên toàn lãnh thổ nước Đức.

Thibaut (1772-1840)
Năm 1814, Thibaut, một Giáo sư luật học của Đại học Heidelberg đã viết cuốn sách Sự cần thiết ra đời bộ pháp điển hóa Luật dân sự thống nhất ở Đức (Über die Notwendigkeit eines allgemeinen bürgerlichen Rechts für Deutschland) để khẳng định nhu cầu này.[1]
Trong tác phẩm này, ông đã nêu hai vấn đề chính:

Thứ nhất, bộ pháp điển Luật La Mã Corpus iuris civilis không còn phù hợp với bối cảnh thế kỷ XIX. Trước tình trạng hàm hỗn của Luật La Mã, bao gồm cả những chế định luật dân sự, luật hình sự, luật tố tụng, ông đề xuất cần phải tách riêng những chế định của luật tư – những chế định liên quan đến các quan hệ pháp luật có tính chất phi nhà nước.

Thứ hai, chính tình trạng pháp luật thiếu thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo là nguyên nhân dẫn đến sự bất công và sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật.[2] Vì vậy, việc pháp điển hóa là nhiệm vụ cấp thiết của nhà nước, của những nhà lập pháp và chính trị để khái quát hóa toàn bộ hệ thống dân luật.[3]

Với tác phẩm này, Thibaut là người đầu tiên đặt ra vấn đề xây dựng bộ pháp điển dân luật thống nhất cho toàn nước Đức.[4] Tuy nhiên vấn đề cách thức làm như thế nào để pháp điển hóa hiệu quả thì ông chưa có điều kiện làm rõ trong tác phẩm này.[5]

2. Tác phẩm “Nhiệm vụ của thời đại chúng ta đối với hoạt động lập pháp và khoa học pháp lý” năm 1814 của Savigny và sự ra đời của trường phái pháp luật lịch sử

Savigny (1779-1861)
Savigny sinh năm 1779 trong một gia đình quí tộc ở Frankfurt am Main. Ông đã đi chu du nhiều nơi, đọc nhiều sách, trao đổi với nhiều học giả và có điều kiện cảm nhận sự đa dạng của cuộc sống.[6]

Trong giới luật học của Đức, Savigny được đánh giá là một thiên tài, một nhà luật học xuất chúng, là Goethe của ngành luật.[7] Năm 16 tuổi, Savigny bắt đầu học luật, đến năm 21 tuổi (năm 1800), ông đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ luật học ở Marburg. Khi mới 24 tuổi (năm 1803), ông đã được trường Đại học Marburg bổ nhiệm làm Giáo sư và sớm nổi tiếng với cuốn sách Luật về quyền chiếm hữu (Das Recht des Besitzes). Năm 1810, ông được mời về giảng dạy ở Đại học Humbolt Berlin.[8]

Năm 1814, Savigny đã viết tác phẩm “Nhiệm vụ của thời đại chúng ta đối với hoạt động lập pháp và khoa học pháp lý” (Vom Beruf unserer Zeit für Gesetzgebung und Rechtswissenschaft). Đây là tác phẩm ông viết để tranh luận với quan điểm của Thibaut về vấn đề pháp điển hóa Bộ luật dân sự.

Trước hết, Savigny đồng tình với quan điểm của Thibaut rằng cần phải tách riêng các chế định của luật tư và tiến hành pháp điển hóa Bộ luật dân sự. Tuy nhiên ông cũng đã đưa ra ba luận điểm chính để phê phán quan điểm của Thibaut và đề xuất những cách tiếp cận mới:

  Thứ nhất, pháp điển hóa trước tiên là nhiệm vụ của những nhà luật học. Ông đưa ra lập luận: “Không phải cứ có một bộ luật mới là những quyền lợi của người dân sẽ được đảm bảo, mà quan trọng là nội dung của bộ luật đó là gì, phục vụ cho lợi ích của ai.[9] Từ đó ông phê phán quan điểm của Thibaut: “Không ai được phép chính trị hóa pháp luật. Một công trình pháp điển chỉ thành công khi nó có sự tham gia rộng rãi của những nhà luật học, hay nói cách khác là phải bằng con đường khoa học, chứ không phải con đường chính trị.[10]

Thứ hai, một bộ pháp điển hóa chỉ có sức sống lâu dài khi có một sức sống nội sinh, phản ánh tập quán, thói quen sinh hoạt của nhân dân. Ông nhấn mạnh: “Luật pháp không phải là một chiếc áo mà có thể thay đổi một cách dễ dàng. Muốn có sức sống lâu dài, luật pháp phải có một sức sống nội sinh (innere Kräfte). Sức sống ấy được hình thành, phát triển trong một thời gian dài.”[11] Ông nói: “Luật pháp sống với nhân dân, hình thành ra bởi nhân dân. Cách mà luật pháp được hình thành thực chất là kết quả của một quá trình thích nghi với tập quán, tâm lý, thói quen, đạo đức, niềm tin của nhân dân v.v...[12]

Thứ ba, việc pháp điển hóa chỉ thành công khi có sự đầu tư nghiên cứu toàn diện pháp luật từ lịch sử, hiểu pháp luật thông qua công cụ lịch sử. Savigny cho rằng “khoa học pháp lý thực chất là một khoa học luật lịch sử, bởi lẽ tất cả những gì là luật pháp, đều phản ánh tính phù hợp đời sống khách quan trong một chiều dài diễn tiến lịch sử.”[13] Từ đó ông đưa ra nhận định và đề xuất: “Kế hoạch pháp điển mà Thibaut đưa ra là nóng vội. Việc xây dựng bộ pháp điển lúc này là chưa chín muồi, cần phải ưu tiên cho việc nghiên cứu pháp luật trước khi tiến hành pháp điển. [14] Do vậy, cần phải nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc Luật La Mã trong lịch sử, nghiên cứu một cách toàn diện tập quán sử dụng pháp luật của người dân (Volkgeist), chính xác hóa lại các khái niệm trước khi pháp điển hóa.”[15]

Với việc phê phán quan điểm về pháp điển của Thibaut, Savigny đã thực sự thuyết phục được nhiều nhà khoa học lúc bấy giờ và trở thành người sáng lập, người mở đường cho một trường phái pháp luật mới, một trường phái pháp luật lớn nhất, nhiều đại biểu nhất thế kỷ XIX – trường phái pháp luật lịch sử (die historische Rechtsschule), thay thế vị trí độc tôn của trường phái pháp luật tự nhiên ở Đức thế kỷ XVIII.

Một công trình pháp điển chỉ thành công khi nó có sự tham gia rộng rãi của những nhà luật học, hay nói cách khác là phải bằng con đường khoa học, chứ không phải con đường chính trị. – Savigny (1779-1861)

Nếu như trường phái luật tự nhiên (Naturrecht) thế kỷ XVIII cho rằng để đảm bảo được mục tiêu công bằng, luật pháp của con người cần được xây dựng sao cho phù hợp với luật tự nhiên (Naturrecht/natural law) – điều mà con người có thể khám phá nhờ vào tư duy lý trí (Vernunft) của mình, thì những học giả theo trường phái pháp luật lịch sử lại cho rằng có rất nhiều những tập quán, qui tắc tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào lý trí của con người. Luật pháp chịu sự ràng buộc bởi điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội. Vì vậy muốn hiểu luật pháp phải thông qua lịch sử, tức là hiểu luật pháp trong một quá trình phát triển.[16]

Năm 1814, cùng với Karl Friedrich Eichhorn (1781–1854) và Johann Friedrich Ludwig Goeschen (1778–1873), Savigny đã sáng lập ra Tạp chí khoa học luật lịch sử, chuyên nghiên cứu về các vấn đề lịch sử pháp lý, đặc biệt là Lịch sử Luật La Mã. Trong thời gian từ năm 1815 đến 1831, Savigny đã lần lượt cho ra đời sáu tập của bộ sách “Lịch sử của Luật La Mã thời trung cổ” (Geschichte des römischen Rechts im Mittelalter). Đây là công trình khoa học khảo cứu một cách toàn diện nhất về lịch sử Luật La Mã. Các nhà khoa học Đức đã đánh giá rằng cho đến thời điểm thế kỷ XIX trên toàn thế giới chưa có một công trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ hơn tác phẩm này của Savigny về lịch sử Luật La Mã thời trung cổ.[17] Ngoài ra Savigny còn đưa luận thuyết của mình lên một tầm cao mới khi chỉ rõ được những giá trị của những chế định cụ thể nào của Luật La Mã cần kế thừa khi tiến hành pháp điển Bộ luật dân sự trong bộ sách gồm tám tập “Hệ thống Luật La Mã hiện nay” (System des heutigen römischen Rechts) (1840–1849) và bộ sách gồm hai tập “Luật nghĩa vụ” (Obligationenrechts) (1851–1853).[18]

Khoa học pháp lý thực chất là một khoa học luật lịch sử, bởi lẽ tất cả những gì là luật pháp, đều phản ánh tính phù hợp với đời sống khách quan trong một chiều dài diễn tiến lịch sử.” – Savigny (1779-1861)
Thực tế sau này trong trường phái pháp luật lịch sử có sự phân chia tiếp thành hai trường phái nhỏ hơn đó là: trường phái thân luật La Mã (Romanist) mà đại biểu tiêu biểu là Savigny, G.F. Puchta, Bernhard Windscheidtrường phái thân luật Đức (Germanist) mà đại biểu tiêu biểu là Otto von Gierke, Karl Friedrich, Jakob Grimm, George Beseler. Hai trường phái này mặc dù hướng nghiên cứu khác nhau nhưng thống nhất ở xuất phát điểm phương pháp tiếp cận, coi lịch sử là phương tiện để hiểu pháp luật mà Savigny đã đưa ra và thực tế kết quả nghiên cứu của cả hai trường phái này là sự bổ khuyết cho nhau.

3. Đóng góp của trường phái pháp luật lịch sử trong việc pháp điển hóa Bộ luật dân sự Đức năm 1900

Người đã kế thừa tư tưởng của Savigny là Giáo sư G. F. Puchta (1798–1846). Puchta đã kế thừa sâu sắc những tư tưởng của Savigny về phương pháp tiếp cận pháp luật, bổ sung một hệ thống các khái niệm mới trên cơ sở tiếp thu các khái niệm của Luật La Mã như các khái niệm: quyền tuyệt đối (absolutes Recht), quyền đối vật (dingliches Recht), thế chấp (Pfandrecht), cầm cố (Grund-schuld)…[19]

SavignyPuchta đã nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống các khái niệm của Luật La Mã, hệ thống hóa chúng và xây dựng một ngành khoa học mới – khoa học nghiên cứu về lịch sử Luật La Mã (Pandektenwissenschaft).[20]

Những công trình khoa học, đặc biệt là phương pháp tiếp cận của Savigny và Puchta về lịch sử luật La Mã, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến việc pháp điển Bộ luật dân sự của Đức năm 1900 sau này.

Xã hội cần được hiểu là một cộng đồng trong đó các thành viên được phát huy tất cả những tiềm năng, khả năng ở mức độ cao nhất, cùng nhau hợp tác để vì mục tiêu phục vụ lợi ích xã hội chung. Khi phúc lợi chung được đảm bảo thì khi đó mới hiện thực hóa được yêu cầu về công bằng xã hội. Otto von Gierke (1841-1921)


Bộ luật dân sự Đức (Bürgerliches Gesetzbuch – BGB) được hai viện thông qua năm 1896 và có hiệu lực vào ngày 1/1/1900.[21] Trước khi được thông qua, Bộ luật này đã trải qua hai giai đoạn xây dựng dự thảo, lấy ý kiến và chỉnh sửa, kéo dài trong suốt 21 năm. Trong cả hai giai đoạn (giai đoạn 1 [1874–1889] và giai đoạn hai [1889–1895]), các học giả của trường phái pháp luật lịch sử, nổi bật là hai nhà luật học Rudolf von Ihering[22]Otto von Gierke[23] đã kế thừa phương pháp tiếp cận và hệ thống các thuật ngữ pháp luật mà SavignyPuchta đưa ra[24] đồng thời trực tiếp bổ sung thêm hàng loạt các thuật ngữ pháp lý mới trong các bản dự thảo của Bộ luật.[25]

Otto von Gierke (1841-1921)
Đại diện tiêu biểu của trường phái pháp luật lịch sử thân luật Đức (Germanist) Otto von Gierke (1841–1921) là người đầu tiên xây dựng một lý thuyết mới về luật hợp tác xã hội Đức (Das Deutsche Genossenschaftsrecht) trong cuốn sách Nhiệm vụ xã hội của Bộ luật dân sự năm 1889. Lý thuyết này của Gierke có ảnh hưởng rất lớn đến cách thức xây dựng Bộ luật dân sự 1900 trong việc giải bài toán mối quan hệ giữa “lợi ích tư” và “lợi ích công”.

Theo Gierke, xã hội cần được hiểu là một cộng đồng trong đó các thành viên được phát huy tất cả những tiềm năng, khả năng ở mức độ cao nhất, cùng nhau hợp tác để vì mục tiêu phục vụ lợi ích xã hội chung. Khi phúc lợi chung được đảm bảo thì khi đó mới hiện thực hóa được yêu cầu về công bằng xã hội (Gerechtigkeit).

Gierke cho rằng vai trò điều tiết của nhà nước và các định chế pháp luật đóng vai trò rất quan trọng, thông qua mở rộng tự do cá nhân, mở rộng quyền tự do hợp đồng, mở rộng hợp tác của các thành viên trong xã hội, nhà nước sẽ có sức mạnh tài chính, từ việc có sức mạnh tài chính, nhà nước mới có thể đảm bảo được các nhiệm vụ xã hội (soziale Gemeinschaft) và từ đó đảm bảo được nguyên tắc công bằng (Gerechtigkeit).[26]

Từ chủ thuyết này, Gierke đã tiếp tục phân tích, phản biện trong tác phẩm Phê phán dự thảo Bộ luật dân sự lần thứ nhất (Kritik am ersten Entwurf des BGB) và trở thành một trong những người có đóng góp quan trọng nhất đối với việc pháp điển hóa Bộ luật dân sự Đức 1900.[27]

4. Đóng góp của trường phái pháp luật lịch sử trong việc xây dựng một quan niệm thống nhất về vấn đề nguồn của pháp luật

Bên cạnh việc đưa ra một hệ thống các khái niệm pháp lý có tính chuẩn mực, các nhà khoa học thuộc trường phái pháp luật lịch sử này còn đưa ra được một cách hiểu mới về nguồn của pháp luật (Rechtsquelle).

Xuất phát từ quan điểm cho rằng: “Một Bộ luật là sản phẩm của con người. Con người vốn không hoàn thiện thì không thể có một Bộ luật hoàn thiện do con người tạo ra, qui định được đầy đủ, chi tiết tất cả các tình huống phát sinh trên thực tế ở trong đó”,[28] các học giả của trường phái này đặt vấn đề cần phải phân biệt hai khái niệm đạo luật (Gesetz) và luật (Recht).[29]

Bürgerliches Gesetzbuch 1900
Một đạo luật (Gesetz) chỉ là tập hợp những định chế, qui phạm có tính chất quan phương (staatliche Regelungen), do nhà nước ban hành. Khái niệm luật (Recht) cần phải được hiểu rộng hơn. Khái niệm này theo các các đại biểu của trường phái pháp luật lịch sử ngoài việc bao hàm nghĩa của đạo luật (Gesetz), còn gồm cả những định chế phi quan phương (nichtstaatliche Regelungen), trong đó có các qui phạm đạo đức, qui phạm tập quán, được thừa nhận và áp dụng lâu dài[30] và cả những án lệ.[31]

Từ những lập luận đó, các nhà khoa học thuộc trường phái này đã cho rằng khi pháp điển hóa Bộ luật dân sự một mặt cần chính xác hóa các thuật ngữ, qui định các nguyên tắc chung để đảm bảo sự an toàn pháp lý, đồng thời cần phải “lấp những lỗ hổng pháp luậtbằng việc thừa nhận những loại nguồn pháp luật khác như tập quán, đạo đức và cả án lệ không trái với những nguyên tắc chung mà đạo luật đó đưa ra.[32] Điều 242 (qui định về áp dụng luật tập quán)[33] và Điều 138 (qui định về giao dịch dân sự vi phạm đạo đức bị coi là vô hiệu)[34] của Bộ luật dân sự năm 1900 là những bằng chứng về việc quan điểm khoa học của những học giả trường phái pháp luật lịch sử về vấn đề nguồn của pháp luật được hiện thực hóa.

5. Đóng góp của trường phái pháp luật lịch sử về xây dựng phương pháp giải thích qui phạm pháp luật thống nhất

Nhằm giải quyết vấn đề đa nghĩa và bất định của qui phạm pháp luật, Savigny đã khẳng định cơ quan tư pháp (Rechtsprechung) phải có nhiệm vụ giải thích pháp luật để bảo vệ sự an toàn pháp lý, bảo vệ niềm tin của người dân về sự minh bạch của pháp luật và tránh sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật.[35] Ông đưa ra một phương pháp giải thích qui phạm pháp luật  (Auslegung von Rechtsnormen) trong tác phẩm “Hệ thống pháp luật La Mã ngày nay”.

Nội dung của phương pháp này hiểu một cách đơn giản nhất gồm bốn công cụ giải thích (Auslegungsmittel): giải thích có tính chất ngữ pháp (die grammatische Auslegung), giải thích có tính chất nguồn gốc lịch sử (die historische Auslegung), giải thích có tính chất hệ thống (die systematische Auslegung) giải thích có tính chất mục đích luận (die teleologische Auslegung).[36]

Giải thích có tính chất ngữ pháp là việc giải thích qui phạm pháp luật một cách chính xác về mặt ngôn ngữ cũng như văn phạm nhằm làm rõ nghĩa của qui phạm. Từng qui phạm phải được giải thích, làm rõ theo cả nghĩa phổ thông - nghĩa mà một người dân bình thường khi đặt vào tình huống đó sẽ hiểu (der allgemeine Sprachgebrauch) và cả ngôn ngữ chuyên ngành cụ thể (eine spezielle Fachsprache). Giải thích có tính chất nguồn gốc lịch sử  là việc giải thích qui phạm thông qua cơ sở lập luận của các nhà khoa học, đặc biệt là những nhà lập pháp (Gesetzgeber) được thể hiện từ khi vấn đề đó phát sinh đến khi trở thành luật. Để giải đáp ý nghĩa của qui phạm, trước hết phải dựa trên những dữ liệu khoa học trung thực và đặc biệt là các dữ liệu lập pháp (Gesetzgebungsmaterialien). Giải thích có tính chất hệ thống là việc giải thích qui phạm trong việc xem xét tổng quát mối quan hệ giữa qui phạm đó với các qui phạm khác có liên quan (Normzusammenhang [Kontext]). Việc giải thích này sẽ giúp mỗi một qui phạm được xem xét một cách toàn diện trong liên hệ với các qui phạm khác và cũng giúp khẳng định được sự nhất quán của qui phạm đó nếu nó không mâu thuẫn với những qui phạm khác. Giải thích có tính chất mục đích luận là chỉ ra được nội dung của qui phạm cần giải thích theo ý nghĩa và mục đích của đạo luật. Mục đích và ý nghĩa của đạo luật ở đây không phải là ý muốn nguyên thủy của nhà làm luật, mà là mục đích khách quan được thể hiện ở trong chính đạo luật đó.[37]

Theo thời gian, phương pháp này được các học giả của trường phái pháp luật lịch sử và các nhà luật học khác bổ sung, phát triển. Vào năm 1960, Tòa án hiến pháp liên bang Đức đã thừa nhận trong phán quyết BVerfGE 11, 126 (130) coi phương pháp giải thích qui phạm pháp luật do Savigny xây dựng là phương pháp giải thích qui phạm pháp luật chính thống ở Đức.[38]

Bìa sách "Ngày các nhà luật học Đức" 2012
Những tư tưởng, thành tựu mà trường phái pháp luật lịch sử đạt được, đến nay vẫn được kế thừa, tiếp nối và phát triển dưới nhiều hình thức, hoạt động khác nhau. Về nghiên cứu, Tạp chí lịch sử pháp luật do Savigny cùng với EichhornGoeschen sáng lập năm 1814 đến nay vẫn là một trong những tạp chí luật học uy tín hàng đầu ở Đức do Viện nghiên cứu lịch sử pháp luật Châu Âu Max Planckt xuất bản định kỳ. Về giảng dạy, Lịch sử pháp luật (Rechtsgeschichte) là môn học truyền thống, bắt buộc, thuộc khối kiến thức khoa học pháp lý cơ bản trong chương trình đào tạo luật trên toàn nước Đức. Về trao đổi học thuật, hoạt động “Ngày của những nhà luật học Đức” (Deutscher Juristentag) do trường phái pháp luật lịch sử sáng lập từ năm 1860, cách đây hơn 150 năm, đến nay vẫn được duy trì thường xuyên. Đây là diễn đàn khoa học trao đổi về các vấn đề luật học đương đại được tổ chức hai năm một lần.[39]

Kết luận

Tóm lại, qua việc nghiên cứu các quan điểm, luận thuyết và thành tựu của trường phái pháp luật lịch sử như đã phân tích ở trên, có thể rút ra những nhận định khoa học cơ bản sau:

Tranh luận về vấn đề pháp điển Bộ luật dân sự ở Đức giữa hai tác giả ThibautSavigny là sự khởi đầu cho việc ra đời trường phái pháp luật lịch sử. Điểm khởi đầu có tính quyết định trong tư tưởng và công trình của Savigny là xây dựng một phương pháp tiếp cận pháp luật mới – phương pháp pháp luật lịch sử. Phương pháp này không coi lịch sử là mục đích, mà là phương tiện để hiểu đúng, đầy đủ, toàn diện về pháp luật.

Savigny khẳng định vai trò của các nhà khoa học pháp lý có tính chất quyết định đến sự thành công của việc pháp điển hóa Bộ luật dân sự. Những nhà luật học Đức đánh giá rất cao sự táo bạo, dũng cảm và tinh thần khoa học của Savigny khi đưa ra nhận định này, đặc biệt khi đặt trong hoàn cảnh lịch sử của đế chế phong kiến Đức đầu thế kỷ XIX. Có thể nói, với luận điểm này, Savigny đã trở thành người tiên phong cho một trào lưu tự do học thuật mới ở Đức thế kỷ XIX.

Việc phân chia tiếp thành 2 trường phái nhỏ hơn đó là: trường phái thân luật La Mã (Romanist) và trường phái thân luật Đức (Germanist) thể hiện hai khuynh hướng nghiên cứu khác nhau nhưng bổ khuyết cho nhau, nhằm làm rõ giá trị của Luật La Mã và giá trị của Luật bản địa Đức. Hai trường phái này hiện thực hóa hai mục tiêu: mục tiêu pháp luật phải thể hiện giá trị nhân bản, phù hợp với tập quán sử dụng pháp luật của người dân trong một quá trình lịch sử của Savigny và mục tiêu pháp luật phải bảo vệ tự do cá nhân, phục vụ mục tiêu vì lợi ích xã hội, hướng tới giá trị công bằng và phản ánh đặc trưng văn hóa bản địa của người Đức của Gierke.

  Trường phái pháp luật lịch sử là trường phái phát triển mạnh nhất ở Đức thế kỷ XIX và cũng là trường phái có đóng góp quan trọng nhất vào quá trình pháp điển hóa Bộ luật dân sự Đức năm 1900. Bên cạnh đó trường phái này còn đưa ra nhận thức mới về vấn đề nguồn của pháp luật phương pháp giải thích qui phạm pháp luật. Những đóng góp của trường phái pháp luật lịch sử này ở Đức đến nay vẫn có ý nghĩa nhiều mặt đối với khoa học pháp lý, không chỉ với riêng nước Đức, mà rộng hơn với sự tiến bộ về khoa học pháp lý nói chung của nhân loại. 

  Hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và trao đổi học thuật về lịch sử pháp luật ở Đức từ thế kỷ XIX đến nay luôn phát triển rất mạnh. Với cách thức và mức độ khác nhau, tinh thần và giá trị mà trường phái pháp luật lịch sử gây dựng nên ngày nay vẫn liên tục được tiếp nối, kế thừa và phát triển, đóng góp trực tiếp cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đối với các hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử ở Đức.





[1] Thibaut, Über die Notwendigkeit eines allgemeinen bürgerlichen Rechts für Deutschland, 1814.
[2] Thibaut, Über die Notwendigkeit eines allgemeinen bürgerlichen Rechts für Deutschland, 1814, S. 14 f; G. Lingelbach, Anton Friedrich Justus Thibaut und der Kodifikationsstreit in der Rechtswissenschaft, in: FS Leser, S. 62 ff.
[3] Thibaut, Über die Notwendigkeit eines allgemeinen bürgerlichen Rechts für Deutschland, 1814, S. 14 f.
[4] G. Lingelbach, Anton Friedrich Justus Thibaut und der Kodifikationsstreit in der Rechtswissenschaft, in: FS Leser, S. 62.
[5] Conrad, Aus der Entstehungszeit der historischen Rechtsschule: Friedrich Carl von Savigny and Jacob Grimm, in: ZRG Germ. Abt. 65, 1947, S. 261 ff.
[6] Schmoeckel, Stolte, Examinatorium Rechtsgeschichte, 1. Aufl. 2008, S. 180.
[7] Stephan Meder, Rechtsgeschichte, 2. Aufl. 2005, S. 239 f.
[8] Năm 1842, Savigny được nhà vua Phổ Friedrich Wilhelm IV bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng lập pháp (Minister für Gesetzgebung). Ông qua đời vào năm 1861 tại Berlin.
[9] J. Schroeder, Savigny, in: Kleinheyer-Schroeder (Hrsg.), Deutsche Juristen aus neun Jahrhunderten, 4. Aufl., 1996, S. 354 f.
[10] Savigny, Vom Beruf unserer Zeit für Gesetzgebung und Rechtswissenschaft, 1814, S. 11 ff.
[11] Helmut Coing, Epochen der Rechtsgeschichte in Deutschland, 1967, S. 107 f.
[12] Savigny, Vom Beruf unserer Zeit für Gesetzgebung und Rechtswissenschaft, 1814, S. 11 ff.
[13] Xem thêm: Hattenhauer (Hrsg.), Thibaut und Savigny. Ihre programmatischen Schriften mit einer Einführung von Hattenhauer, 1973.
[14] Khi Savigny đưa ra quan điểm này vào năm 1814 cũng có không ít người phê phán rằng quan điểm này là bảo thủ. Tuy nhiên sau này thực tế việc pháp điển Bộ luật dân sự năm 1900 đã diễn ra đúng như lộ trình mà Savigny đã tiên đoán là vào đầu thế kỷ XX (J. Rückert, Savignys Einfluss auf die Jurisprudenz in Deutschland nach 1900, JuS 1991, 624 ff.).
[15] Conrad, Aus der Entstehungszeit der historischen Rechtsschule: Friedrich Carl von Savigny and Jacob Grimm, in: ZRG Germ. Abt. 65, 1947, S. 261 ff.; Xem thêm: Gmür, Savigny und die Entwicklung der Rechtswissenschaft, 1962.
[16] Savigny, Vorlesungen über juristische Methodologie, 18021842, Ius Commune, Sonderhefte: Studien zur Europäischen Rechtsgeschichte, 63, S. 182 f.
[17] Schmoeckel, Stolte, Examinatorium Rechtsgeschichte, 1. Aufl. 2008, S.  181.
[18] Gmuer/Roth, Grundriss der deutschen Rechtsgeschichte, 12. Aufl. 2008, Rn. 406 f.
[19] S. Meder, Rechtsgeschichte, 2. Aufl. 2005, S. 276 f.
[20] Xem thêm: J. Schroeder, Savigny, in: Kleinheyer-Schroeder (Hrsg.), Deutsche Juristen aus neun Jahrhunderten, 4. Aufl., 1996.
[21] Bộ luật này gồm có 2385 Điều, được chia làm 5 quyển: Những qui định chung (Điều 1–240), Luật nghĩa vụ (Điều 241–853), Luật tài sản (Điều 853–1296), Luật gia đình (Điều 1279–1921), Luật thừa kế (Điều 1922–2385).
[22] Rudorf  von Ihering (18181892) là nhà luật học thuộc trường phái pháp luật lịch sử thân luật La Mã (Romanist). Năm 1872 ông xuất bản cuốn sách Tranh đấu vì luật pháp (Der Kampf ums Recht). Trong tác phẩm này, ông chỉ rõ điểm khác biệt giữa luật về mặt lý thuyết và luật trên thực tế, xây dựng lý thuyết mới về vi phạm hợp đồng (Tiếng la tinh: culpa in contrahendo).
[23] Otto von Gierke (18411921) là học giả thuộc trường phái pháp luật lịch sử thân luật Đức (Germanist). Ông đã xuất bản rất nhiều tác phẩm như: Luật hợp tác xã hội Đức (Das deutsche Genossenschaftsrecht) (18681913), gồm 4 tập; Nhiệm vụ xã hội của Luật tư (Die soziale Aufgabe des Privatrechts), 1889; Luật tư của Đức (Deutsches Privatrecht) (18951917); Trường phái pháp luật lịch sử và trường phái pháp luật lịch sử thân luật Đức (Die historische Rechtsschule und die Germanisten), 1903 v.v… Trong số những tác phẩm của Gierke, nổi tiếng nhất là hai tác phẩm Phê phán dự thảo Bộ luật dân sự lần thứ nhất (Kritik am ersten Entwurf des BGB) và tác phẩm Nhiệm vụ xã hội của Luật tư (Die soziale Aufgabe des Privatrechts) cùng được xuất bản năm 1889.
[24] J. Rückert, Savignys Einfluss auf die Jurisprudenz in Deutschland nach 1900, JuS 1991, 624 ff.
[25] Gmuer/Roth, Grundriss der deutschen Rechtsgeschichte, 12. Aufl. 2008, Rn. 405 f.
[26] Lý thuyết này của Gierke ngày nay đã được phát triển trong rất nhiều các lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là các lĩnh vực của Luật tư, Luật lao động, Luật bảo hiểm và Luật hiến pháp, trong đó có những chế định pháp luật như: bảo hiểm (Versicherung), sự ràng buộc xã hội của tài sản (Sozialbindung des Eigentums), luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (Recht des Verbrauerschutzes), quyền được phát huy cá tính riêng (Persönlichkeitsrecht), nguyên tắc nhà nước phúc lợi chung (Sozialstaatsprinzip)…(Xem: Schmoeckel/Stolte, Examinatorium Rechtsgeschichte, 1. Aufl. 2008, S. 187).
[27] Tham khảo thêm những đóng góp cụ thể của Gierke đối với việc pháp điển Bộ luật dân sự 1900 trong tác phẩm: T. Nippderdey, Deutsche Geschichte 1866-1918, Bd. 2, 1992, S. 195 f.
[28] Ebel/Thielmann, Rechtsgeschichte – Von der Römischen Antike bis zur Neuzeit, 3. Aufl. 2003, Rn. 498 f.
[29] Xem thêm những luận điểm về nguồn của pháp luật của các tác giả thuộc trường phái pháp luật lịch sử như: Rückert, Bernhard Windscheid und seine Jurisprudenz als solche im liberalen Rechtsstaat (18171892), JuS 1992, S. 902 ff.; Kern, George Beseler – Ein Leben für das deutsche Recht, in: JuS 1988, S. 598 ff.
[30] Stephan Meder, Rechtsgeschichte, 2. Aufl. 2005, S. 279 f.
[31] Việc bổ sung thêm án lệ (Juristenrecht) là một dạng nguồn của pháp luật (Rechtsquelle) là quan điểm của Georg Beseler (1809-1888) – một đại diện của trường phái luật lịch sử thân luật Đức (Germanist). Xem: Pöppelmann, Georg Beseler und seine Tätigkeit für die Deutschen Grundrechte des deutschen Volkes im Jahre 1848, 1. Aufl. 1907. 
[32] Ebel/Thielmann, Rechtsgeschichte – Von der Römischen Antike bis zur Neuzeit, 3. Aufl. 2003, Rn. 507.
[33] Nguyên văn Tiếng Đức: “Der Schuldner ist verpflichtet, die Leistung so zu bewirken, wie Treu und Glauben mit Rücksicht auf die Verkehrssitte es erfordern.”; Dịch Tiếng Anh: “An obligor has an obligation to perform according to the good faith, taking customary practice into consideration.” (Tác giả); Dịch tham khảo Tiếng Việt: “Bên có nghĩa vụ phải thực thi nghĩa vụ theo yêu cầu về sự ngay tình, tuân thủ tập quán pháp luật“ (Tác giả).
[34] Nguyên văn Tiếng Đức: „Ein Rechtsgeschäft, das gegen die guten Sitten verstößt, ist nichtig“. Dịch Tiếng Anh: “A legal transaction ,which is contrary to good morality, is void” (Tác giả). Dịch tham khảo Tiếng Việt: „Một giao dịch pháp lý mà trái với những giá trị đạo đức tốt đẹp thì bị coi là vô hiệu“ (Tác giả).
[35] Savigny, System des heutigen Römischen Rechts, Bd. 1, Berlin 1840, S. 14.
[36] Savigny, System des heutigen Römischen Rechts, Bd. 1, Berlin 1840, S. 14 f.
[37] Savigny, System des heutigen Römischen Rechts, Bd. 1, Berlin 1840, S. 213 ff.; Bd. 3, S. 244. Xem thêm: Ch. Gröpl, Staatsrecht I mit Einführung in das juristische Lernen, 3. Aufl. 2011, Rn. 203 f.; Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl. 2010, § 2 Rn. 6 ff.
[38] Xem Phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức tập số 11, trang mở đầu phần phán quyết 126, trang trích dẫn chính xác 130 (BVerfGE 11, 126 [130]). Xem thêm: K. Engisch, Einführung in das juristische Denken, 9. Aufl., 1997, S. 106 f.; Schwacke, Juristische Methodik, 3. Aufl., 1995, S. 50.
[39] Xem thêm: R.M. Kiesow, Die Tage der Juristen. Der Deutsche Juristentag wird 150 Jahre alt, in: myops Nr. 10 (2010), S. 4–18; Conrad/Dilcher/Kurland, Der Deutsche Juristentag: 1860–1994, 1997.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét