Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013
Ý nghĩa của cuộc đấu tranh để thực hiện việc kiểm kê và kiểm soát của toàn dân
14:06
Hoàng Phong Nhã
No comments
Nhà nước, vốn là một công cụ áp bức và cướp bóc nhân
dân suốt hàng bao nhiêu thế kỷ nay, đã để lại cho chúng ta một di sản,
đó là lòng căm thù dữ dội và sự nghi kỵ của quần chúng đối với bất cứ
cái gì thuộc về nhà nước. Khắc phục được tâm trạng đó là một nhiệm vụ
rất khó khăn, mà chỉ có Chính quyền xô-viết mới đủ sức làm được, nhưng
ngay cả đối với chính quyền này, nhiệm vụ đó cũng đòi hỏi một thời gian
lâu dài và một sự kiên trì rất lớn. Trong vấn đề kiểm kê và kiểm soát -
vấn đề căn bản đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, ngay sau khi lật
đổ được giai cấp tư sản, - ảnh hưởng của cái "di sản" ấy biểu hiện ra
đặc biệt rõ rệt. Nhất định phải trải qua một thời gian nào đó thì những
quần chúng lần đầu tiên cảm thấy mình được tự do sau khi lật đổ được bọn
địa chủ và tư sản, mới hiểu được và cảm thấy rõ - không phải nhờ sách
vở, mà là nhờ kinh nghiệm của bản thân mình, kinh nghiệm xô-viết - rằng
nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc
sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những người lao
động, nền tự do của họ, sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ
sẽ phải sống trở lại dưới ách của chủ nghĩa tư bản. Tất cả những thói
quen và những truyền thống của giai cấp tư sản nói chung, và của giai
cấp tiểu tư sản nói riêng, đều chống lại chế độ kiểm soát của nhà nước
và đều bảo vệ tính bất khả xâm phạm của "quyền tư hữu thiêng liêng", của
quyền kinh doanh tư nhân "thiêng liêng". Ngày nay, chúng ta thấy đặc
biệt rõ rằng luận điểm mác-xít cho chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa
công đoàn - vô chính phủ thực chất đều là những xu hướng tư sản - là
luận điểm đúng biết bao; rằng những xu hướng này mâu thuẫn không thể
điều hòa được biết chừng nào với chủ nghĩa xã hội, với chuyên chính vô
sản, với chủ nghĩa cộng sản. Cuộc đấu tranh để làm cho quần chúng thấm
nhuần tư tưởng về sự kiểm kê và kiểm soát có tính chất xô-viết của nhà
nước, cuộc đấu tranh để thực hành tư tưởng ấy, để đoạn tuyệt với cái quá
khứ đáng nguyền rủa đã gây ra cho người ta cái thói quen coi việc kiếm
cơm ăn, áo mặc là một việc "riêng", là việc mua bán, là một việc "chỉ có
liên quan đến cá nhân mình mà thôi", - cuộc đấu tranh đó là rất vĩ đại,
có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, là cuộc đấu tranh của ý thức giác ngộ
xã hội chủ nghĩa chống tính tự phát tư sản - vô chính phủ. ở nước
chúng ta, sự kiểm soát của công nhân được chế định thành luật pháp,
nhưng nó chỉ vừa mới bắt đầu thấm vào đời sống, thậm chí vừa mới bắt đầu
thấm vào ý thức của đông đảo quần chúng vô sản mà thôi. Trong công tác
cổ động, chúng ta chưa nói đầy đủ, mà những công nhân và nông dân tiên
tiến cũng không suy nghĩ, không nói đầy đủ đến điều sau đây: không có
chế độ kế toán và kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì
những mầm mống của chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt, thì có nghĩa là ăn
cắp quốc khố (vì tất cả của cải đều thuộc về quốc khố mà quốc khố đây
lại chính là Chính quyền xô-viết, chính quyền của đa số những người lao
động); cẩu thả đối với việc kiểm kê và kiểm soát là trực tiếp giúp sức
cho bọn Coóc-ni-lốp Đức và Nga, là những kê chỉ có thể lật đổ chính
quyền của những người lao động, nếu chúng ta không giải quyết được nhiệm
vụ kiểm kê và kiểm soát; bọn chúng được sự giúp đỡ của toàn bộ giai cấp
tư sản mu-gích, của bọn dân chủ - lập hiến, của bọn men-sê-vích và bọn
xã hội chủ nghĩa - cách mạng cánh hữu, đang "rình" chúng ta, đang chờ
thời cơ thuận lợi. Mà chừng nào sự kiểm soát của công nhân chưa trở
thành sự thật hẳn hoi, chừng nào những công nhân tiên tiến chưa tổ chức
và chưa tiến hành một cuộc tấn công thắng lợi không khoan nhượng chống
tất cả những kẻ vi phạm sự kiểm soát ấy, hoặc những kẻ tỏ ra thờ ơ về
mặt đó, thì chừng đó sẽ không thể nào tiến từ bước thứ nhất (thực hiện
việc kiểm soát của công nhân) lên bước thứ hai trên con đường đi tới chủ
nghĩa xã hội, tức là bước chuyển sang việc công nhân điều tiết sản
xuất. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời dưới hình thức một hệ
thống những công xã sản xuất và tiêu dùng biết tính toán một cách thật
thà sự sản xuất và tiêu dùng của mình, biết tiết kiệm lao động, không
ngừng tăng năng suất và do đó tạo điều kiện giảm ngày lao động xuống bảy
giờ, sáu giờ hay ít hơn thế nữa. Trong lĩnh vực đó, người ta sẽ không
thể nào không dùng đến sự kiểm kê và kiểm soát chặt chẽ nhất và toàn
diện nhất của toàn dân đối với lúa mì và việc sản xuất lúa mì (rồi đến
tất cả những sản phẩm cần thiết khác). Chủ nghĩa tư bản đã để lại cho
chúng ta những tổ chức quần chúng có thể làm giảm nhẹ việc chuyển sang
kiểm kê và kiểm soát một cách rộng rãi sự phân phối các sản phẩm: đó là
những hội tiêu dùng. ở Nga, những hội này phát triển kém hơn ở các nước
tiên tiến, nhưng dù sao cũng có được hơn 10 triệu hội viên. Sắc lệnh về
các hội tiêu dùng67 vừa được công bố là hiện tượng hết sức tiêu biểu: nó
cho ta thấy rõ hiện nay đặc điểm của tình hình và nhiệm vụ của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô-viết là như thế nào. Sắc lệnh đó là một sự
thỏa thuận với các hợp tác xã tư sản và với những hợp tác xã công nhân
còn giữ quan điểm tư sản. Thỏa thuận hay thỏa hiệp, trước hết là ở chỗ
những đại diện của các tổ chức đó không những tham gia thảo luận bản dự
án sắc lệnh đó, mà còn thực tế có quyền quyết định nữa, vì trong sắc
lệnh, những phần nào mà các tổ chức nói trên đã kiên quyết phản đối thì
đều bị bỏ đi cả. Hai là, về thực chất thì sự thỏa hiệp còn là ở chỗ
Chính quyền xô-viết từ bỏ nguyên tắc tham gia hợp tác xã không phải nộp
tiền (là nguyên tắc duy nhất triệt để vô sản) và nguyên tắc tập hợp toàn
thể dân cư của một địa phương vào trong một hợp tác xã. Do từ bỏ nguyên
tắc đó, nguyên tắc duy nhất có tính chất xã hội chủ nghĩa và phù hợp
với nhiệm vụ thủ tiêu các giai cấp, nên chúng ta đã để cho "các hợp tác
xã công nhân có tính chất giai cấp" (ở đây, sở dĩ những hợp tác xã đó
được gọi là "có tính chất giai cấp" chỉ vì nó phục tùng quyền lợi giai
cấp của giai cấp tư sản) có quyền được tiếp tục tồn tại. Cuối cùng là đề
nghị của Chính quyền xô-viết về việc loại hẳn giai cấp tư sản ra khỏi
ban quản trị các hợp tác xã, cũng đã được giảm nhẹ đi rất nhiều, và việc
cấm tham gia các ban quản trị chỉ áp dụng đối với những chủ xí nghiệp
thương nghiệp và công nghiệp có tính chất tư bản chủ nghĩa tư nhân
thôi. Nếu giai cấp vô sản, thông qua Chính quyền xô-viết, đã kịp thời
tổ chức được việc kiểm kê và kiểm soát trong phạm vi cả nước, hay ít ra
là đã đặt được nền móng của sự kiểm soát đó thì đã không cần đến những
sự thỏa hiệp như vậy. Nếu được như vậy, thì chúng ta đã thông qua các
ban lương thực của các Xô-viết và các cơ quan cung cấp trực thuộc các
Xô-viết, mà tập hợp dân cư vào một hợp tác xã duy nhất, do giai cấp vô
sản lãnh đạo, không cần có sự giúp đỡ của các hợp tác xã tư sản, không
cần phải nhượng bộ cái nguyên tắc thuần túy tư sản ấy, cái nguyên tắc
khiến cho hợp tác xã công nhân phải tồn tại với tư cách là hợp tác xã
công nhân song song với hợp tác xã tư sản, - mà lẽ ra phải bắt hợp tác
xã tư sản đó hoàn toàn phụ thuộc mình, bằng cách tiến hành hợp nhất hai
tổ chức đó lại, bằng cách nắm lấy toàn bộ việc quản lý và nắm lấy việc
giám sát sự tiêu dùng của bọn giàu có. Khi thực hiện sự thỏa thuận như
thế với các hợp tác xã tư sản, Chính quyền xô-viết đã xác định cụ thể
những nhiệm vụ sách lược của mình và những phương pháp hành động đặc thù
trong giai đoạn phát triển hiện nay, tức là: thông qua việc lãnh đạo
những phần tử tư sản, sử dụng họ, nhượng bộ họ một phần nào đó, chúng ta
tạo ra những điều kiện để tiến lên, tuy tiến chậm hơn so với dự kiến
lúc đầu của chúng ta, nhưng lại vững bền hơn, đảm bảo vững chắc hơn cho
chúng ta có được một cơ sở và những đường giao thông, làm cho những vị
trí đã chiếm được sẽ được củng cố hơn. Hiện giờ, các Xô-viết có thể (và
phải) đánh giá những thành tựu của mình trong việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bằng cái thước đo cực kỳ rõ ràng, đơn giản và thực tế: bằng cách
xét xem có bao nhiêu địa phương (công xã, làng, xóm, v.v.), ở đó các hợp
tác xã đang tiến gần và tiến gần trên mức độ nào đến chỗ bao gồm toàn
bộ dân cư-V.I.Lenin.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét