Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
BIỂU TÌNH LÀ Ý THỨC TỰ NHIÊN TRƯỚC ĐỒNG LOẠI
16:44
Hoàng Phong Nhã
No comments
TS Nguyễn Sỹ Phương, theo SGTT
Ngày 17.11, khi thảo
luận về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XIII, dù
nằm trong danh mục “chương trình chuẩn bị” (chứ không phải chính thức),
nhưng một số đại biểu đã tranh luận khá gay gắt về luật biểu tình, về
nguồn gốc, bản chất của hoạt động này, nhu cầu xã hội hiện nay cần –
không cần một luật điều chỉnh về nó. Sài Gòn Tiếp Thị xin giới thiệu bài
viết của TS Nguyễn Sỹ Phương, cung cấp những thông tin nền tảng về vấn
đề này.
Biểu tình khác bạo động
Trước hết cần phân biệt khái niệm biểu
tình với thực tế biểu tình muôn hình vạn trạng, nếu không, sẽ như thầy
bói xem voi, sờ thực tế cái tai định nghĩa ngay voi là cái quạt. Ngoại
diên của khái niệm biểu tình là nhiều người tập trung lại theo nghĩa tập
họp, tụ tập. Nhưng khác với tụ tập để lao động trong nhà máy vì mưu
sinh, hay hội hè để vui chơi, đám ma đám cưới chia sẻ tình cảm gia đình,
bán buôn trong chợ búa kiếm lời, hoặc bị tống tù do phạm tội, tụ tập
biểu tình có nội hàm: xuất phát từ tâm, cùng nhau biểu thị tình cảm
(biểu tình), thái độ, quan điểm của mình.
Như vậy, có ba dấu hiệu để phân biệt biểu
tình với các khái niệm khác có cùng ngoại diên tụ tập: 1- Biểu thị, 2-
Tự nguyện, 3- Xuất phát từ tâm.
Căn cứ ba dấu hiệu trên, có thể xác định khi nào thì được gọi là biểu tình.
Nếu tụ tập nhưng có sử dụng bạo lực, hoặc
có hành vi xâm phạm lợi ích người khác, thì đó là bạo động, chứ không
phải biểu tình. Giải thích tại sao nhiều cuộc biểu tình ở các nước hiện
đại, đoạn chót bị đàn áp, cưỡng chế giải tán, do bị biến thành bạo động;
đàn áp lúc đó là đàn áp bạo động chứ không phải đàn áp biểu tình.
Nếu tụ tập là do được trả tiền, được thuê
mướn, hoặc cưỡng bức người khác, nghĩa là không tự nguyện, không phải
từ tâm, thì đó là bè đảng, hoặc hình sự, không phải biểu tình.
Biểu tình chỉ có thể biểu thị bằng hiện
diện, hình ảnh, tiếng nói, vì vậy nếu nhằm mục đích “chống lại“, thì
phải hiểu chống lại bằng cách biểu thị, tức phản đối, hoàn toàn khác với
chống đối mang tính loại bỏ như bạo động.
Là quyền cơ bản, không phụ thuộc dân trí
Biểu tình xuất phát từ “ý thức tự nhiên
trước đồng loại“. “Tự nhiên“ nghĩa là bản năng, không phụ thuộc bất cứ
yếu tố bên ngoài nào. Còn “ ý thức“ chỉ có ở con người. Biểu tình, vì
vậy, là một dấu hiệu thuộc tính riêng có của con người, phân biệt với
thế giới sinh vật còn lại, hoàn toàn không phụ thuộc trình độ nhận thức.
Do đó, biểu tình không như có ý kiến ngộ nhân tuỳ thuộc dân trí, để
khẳng định nước nào biểu tình được, nước nào không thể. Ngay cả nếu thừa
nhận điều đó, thì cũng mâu thuẫn với sử liệu thế giới, biểu tình được
ghi lại từ thời La Mã cổ đại. Không quốc gia nào ngày nay thấp hơn dân
trí Lã Mã thời đó cả.
Biểu tình ở các nước hiện đại gắn với
cuộc sống thường nhật như ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, làm việc,
diễn ra có khi chỉ bởi hiện tượng một đưá con bị cha mẹ lạm dụng khủng
khiếp hay một người đi tàu bị kẻ xấu giết dã man gây bất bình dân chúng,
hoặc bởi các chính sách nhà nước ảnh hưởng lợi ích của bộ phận, giai
tầng nào đó, buộc họ phải phản đối, hay chính phủ, các cơ quan công
quyền tỏ ra bất lực, họ phải thể hiện bất tín nhiệm, hoặc bởi nhân quyền
ở các nước khác vi phạm làm họ xót xa phải chia sẻ. Vì vậy, không thể
gán cho biểu tình chỉ mỗi “chống Chính phủ nước mình hay một chủ trương
của Chính phủ nước mình“, và càng không thể hiểu chống theo nghĩa chống
đối. Ngộ nhận đó tất yếu dẫn tới hành vi ứng xử với biểu tình cực đoan.
Chính để khắc phục nguy hại đó, Luật tụ tập biểu tình Đức VersammlG cấm
biểu tình đòi hủy bỏ quyền biểu tình!
Biểu tình cũng như ăn ở, đi lại, làm
việc… là bản năng, thuộc tính con người, nên trở thành quyền cơ bản “tạo
hoá ban cho họ“, chứ không phải nhà nước, hay tôn giáo, hay bất cứ thế
lực nào. Một khi đã là quyền cơ bản, thì một mặt các quyền đó bình đẳng
ngang nhau ở chỗ đều mang tính chất bản năng thuộc tính người, mặt khác
chúng tự động trở thành đối tượng chi phối của luật pháp, nghĩa là thuộc
chức năng trách nhiệm của chính quyền phải bảo đảm.
Vì vậy không thể đặt câu hỏi “Liệu cái
gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn quyền được kiếm sống của người
dân…“, như đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước phát biểu, trong khi cả hai
đều là bản năng như nhau. Còn trong thực tế, đúng là có những cuộc biểu
tình “xâm hại quyền tự do đi lại của người dân, xâm hại quyền tự do mưu
cầu hạnh phúc của người dân, buôn gánh bán bưng“, cũng giống như quyền
làm việc có khi gây ô nhiễm môi trường, quyền tự do ăn uống nhưng khi bị
bệnh lại lây nhiễm sang người khác, quyền đi lại bằng xe cộ, lại dẫn
tới tai nạn chết người, nhưng không vì thế mà cấm hết những quyền đó.
Ngược lại, vì thế mà loài người bắt buộc phải sinh ra nhà nước, cũng để
bảo đảm quyền nọ không triệt tiêu quyền kia. Các luật liên quan tới
quyền cơ bản, như luật biểu tình, lưu trú, giao thông, vệ sinh thực
phẩm, trở thành tất yếu khách quan là vậy.
Ứng xử với quyền biểu tình
Là đối tượng điều chỉnh của luật pháp, biểu tình được các nước chọn lựa cách giải quyết xưa nay như sau:
Thứ nhất, không đả động đến. Trong trường
hợp đó, người dân biểu tình hay không, nhà nước cho phép hay đàn áp,
đều hoàn toàn tự phát và tùy tiện xử lý, hậu quả là cả nhà nước và công
dân đều thiệt hại. Cuối cùng vẫn buộc phải đề cập đến nó theo những cách
thức dưới đây.
Thứ hai, không thừa nhận quyền biểu tình
và cấm tuyệt đối nó, thường xảy ra ở những chế độ quân chủ độc tài. Lịch
sử thế giới đã chứng minh sự sụp đổ tất yếu của nó, bởi không thể tước
bỏ thuộc tính người vốn dĩ chỉ có ở con người.
Thứ ba, hiến định quyền biểu tình nhưng
thiếu luật điều chỉnh. Nước Đức từng xảy ra như vậy trong bốn năm sau
khi ban hành Hiến pháp năm 1949. Kết qủa, biểu tình vẫn được tổ chức như
vốn có, không hề thay đổi, bởi đã được hiến định, nhà nước không thể
cấm. Tuy nhiên, chính quyền không chủ động ngăn ngừa trước được thiệt
hại hay biến thái thành bạo động có thể xảy ra, và khi xảy ra thì xử lý
lúng túng, phải áp dụng luật dân sự hoặc luật hình sự phức tạp.
Thứ tư, hiến định quyền biểu tình, bảo
đảm quyền này bằng toà Bảo hiến và ban hành văn bản lập pháp bảo đảm
chắc chắn nó. Đó là lựa chọn duy nhất hiện nay ở các nước hiện đại. Hiến
pháp và toà Bảo hiến buộc nhà nước phải bảo đảm thực thi quyền cơ bản
của công dân trong đó có quyền biểu tình. Bởi nói nhà nước dân chủ, của
dân, do dân, vì dân, rốt cuộc cũng chỉ nhằm bảo đảm quyền cơ bản cho họ,
chứ không phải thay họ lo cho cuộc sống của họ, vốn chưa và không nhà
nước nào làm nổi. Ngược lại, quyền cơ bản một khi được bảo đảm sẽ kích
thích người dân không ỷ lại mà làm chủ nhà nước, sử dụng quyền đó để vừa
tham gia vừa đòi hỏi các công bộc nhà nước hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách sao cho phù hợp với nhu cầu của mình. Nhà nước không
phải thánh, cái gì cũng đúng, vì vậy mọi chính sách của nó cần được thực
tế kiểm nghiệm, không đâu chính xác hơn ngoài chính người dân chịu sự
chi phối trực tiếp của chính sách, mà biểu tình là sự phản ảnh tập trung
nhất. Điều này giải thích tại sao các nước hiện đại khuyến khích biểu
tình, phản biện, trưng cầu dân ý, và bất cứ quyết định nào của cơ quan
hành chính từ phạt xe chạy phạm luật đến mức thuế phải đóng, giải quyết
các đơn từ, đều bắt buộc phải có phần hướng dẫn, ông bà có quyền chống
lại quyết định này tại cơ quan nào, ở đâu, nếu vẫn không thoả mãn thì
tại toà án nào. Nhờ có Luật biểu tình, những biến thái chuyển sang bạo
động sẽ được tham chiếu với các quy phạm trong luật biểu tình để ngăn
ngừa. Toà Bảo hiến sẽ bảo đảm cho luật hoặc văn bản dưới luật ban hành
không thể vi hiến, nếu Chính phủ muốn “nhẹ gánh“ bằng cách ban hành luật
hạn chế quyền biểu tình.
Thứ năm, hiến định quyền biểu tình, nhưng
chưa có toà án hiến pháp bảo đảm và thiếu văn bản lập pháp điều chỉnh.
Đó là trường hợp ở nước ta (xem điều 69 Hiến pháp 1992). Các cuộc biểu
tình ở Thái Bình trước đây đã gây hậu quả thiệt hại cho cả người biểu
tình lẫn nhà nước, xử lý rất phức tạp hay biểu tình ở Hà Nội vừa qua dẫn
tới phiền lụy cho chính những người biểu tình “thể hiện lòng yêu nước“,
lẫn chính quyền vì mất công sức xử lý nhưng thiếu văn bản lập pháp làm
cơ sở, thấy hệ lụy tất yếu phải đến của cách chọn lựa trên. Nếu cứ để
thế mãi chưa biết tình hình sẽ tiến triển tới đâu? Đề xuất cần có luật
biểu tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp đó, là phản ứng cần thiết,
kịp thời, thể hiện bản lĩnh chính trị cần có của người đứng đầu Chính
phủ ở các quốc gia hiện đại trước bức xúc của dân chúng.
Câu hỏi đặt ra cho Quốc hội-có chức năng
lập pháp- không còn là có cần ban hành luật biểu tình hay việc ban hành
luật này có gây tổn hại gì. Câu hỏi bây giờ là luật biểu tình phải đặt
ra những chuẩn mực, thước đo, quy tắc xử sự như thế nào cho cả chính
quyền lẫn người biểu tình, để quyền hiến định này được thực thi và trong
trường hợp bạo động xảy ra, sẽ chế tài kịp thời. Trả lời câu hỏi trên
không qúa khó khăn, nếu nghiên cứu luật biểu tình các nước, cùng khảo
sát thực tế biểu tình ở họ vốn diễn ra thường nhật. Đó chính là căn cứ
thực tiễn thế giới để tham khảo xây dựng luật biểu tình.
___
Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ
những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu
trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết
không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét