Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
CÁC KHÁI NIỆM DÂN CHỦ, PHÁP QUYỀN, CỘNG HÒA VÀ XÃ HỘI: LÝ THUYẾT VÀ THỰC TẾ
16:31
Hoàng Phong Nhã
No comments
Đỗ Kim Thêm*, theo Phía Trước
Vấn dề
Một trong những góp ý tu chỉnh Hiến pháp
Việt Nam là đề xuất du nhập mô hình dân chủ của nhà nước phương Tây. Dân
chủ là một khái niệm luật Hiến pháp nhằm quy định hình thức cai trị,
nhưng lại gắn liền với các khái niệm pháp quyền, cộng hoà và xã hội. Dù
có liên hệ nhau nhưng các khái niệm này có nhiều giá trị tương đồng và
dị biệt mà tiểu luận này sẽ giới thiệu những mối quan hệ lý thuyết để
đối chiếu với thực tế của Hiến pháp Việt Nam.
Lý thuyết luật Hiến pháp
Dân chủ và pháp quyền
Ý nghiã dị biệt
Ý nghĩa chính của dân chủ là toàn dân có
thẩm quyền tối thượng trong việc quyết định vận mệnh của đất nước và con
người, mà không ai khác thay thế. Vào thời trung cổ giáo quyền chiếm
vai trò chủ yếu trong việc quyết định mọi sinh hoạt thế quyền. Sau khi
Cách mạng Pháp thành công, toàn dân trở thành nguồn quyền lực duy nhất
của đất nước, điển hình là thẩm quyền lập hiến. Toàn dân là tác giả Hiến
pháp mà nội dung là quy định một trật tự cho sự chung sống trong xã hội
và quan trọng nhất là các nguyên tắc tổ chức nhà nước. Tại Đức, nguyên
tắc quyền dân tộc tối thượng lần đầu tiên được ghi trong Hiến pháp
Weimar 1919, nguyên tắc này cũng được công nhận trong Hiến pháp các tiểu
bang; Hiến pháp Paulkirchen 1849 tuy đề cao một vài yếu tố dân chủ
nhưng lại không công nhận quyền dân tộc tối thượng như Pháp. Dân chủ, do
đó, không đi sâu về nội dung luật pháp, tính chính thống hay kiểm soát
các hoạt động nhà nước.
Khái niệm dân chủ tại Hoa kỳ và châu Âu
có nhiều dị biệt. Dân chủ tại Hoa kỳ không là một phong trào đấu tranh
trong nội bộ của một nước mà trước tiên là đòi hỏi quyền tự do tôn giáo
và quyền tự trị. Sự hình thành các tiểu bang New England (Đông Hoa Kỳ)
nhằm tách rời khỏi quyền thống trị của mẩu quốc Anh là một minh chứng.
Truyền thống tư duy tại châu Âu khác hơn. John Locke cho rằng dân quyền
tại Anh là tình trạng tự nhiên có sẳn của xã hội mà vai trò của chính
quyền là phải bảo đảm quyền này được thực thi. Locke không coi dân chủ
là quyền tối thượng và nằm trong truyền thống đấu tranh như tại Pháp.
Lịch sử của Pháp cho thấy toàn dân có một quá trình chống đối và với cải
cách liên tục của chính quyền mà khái niệm về dân chủ mới thành hình.
Nhờ thế dân chủ trở thành quyền tốí thượng và không thể chuyển nhượng.
Nhà nước pháp quyền, ngược lại, đặt vấn
đề nội dung, phạm vi và luật thủ tục trong việc điều hành các hoạt động
của nhà nước, cụ thể là quy định mọi giới hạn của nhà nước và người dân
vào luật pháp. Nguyên tắc ràng buộc này nhằm bảo đảm quyền tự do của cá
nhân, cụ thể là nhà nước phải tôn trọng việc thực thi dân quyền, các thủ
tục luật hành chính và có nền tư pháp độc lập. Tôn trọng luật pháp là
một phương tiện cho nhà nước thực thi nguyên tắc dân chủ được hữu hiệu
hơn.
Lịch sử chứng minh các chế độ quân chủ
hiến định vào thế kỷ XIX, dù không dân chủ, nhưng cũng tôn trọng nguyên
tắc nhà nước pháp quyền. Nguợc lại, các chế độ dân chủ hiện nay luôn đề
cao trọng pháp, mà mức độ áp dụng trong thực tế bị giới hạn.
Mục tiêu tương đồng
Nội dung của khái niệm nhà nước pháp
quyền nhằm bảo vệ dân quyền một cách tổng quát, không đặc biệt hướng về ý
kiến của người dân trong các quyết định cụ thể. Dù khác nhau về chiều
hướng nhưng hai khái niệm dân chủ và pháp quyền cùng theo đuổi một mục
tiêu chung là bảo vệ dân quyền, mà tự do ngôn luận, báo chí, thông tin
và hội họp là điển hình. Quyền tự do dân chủ là một điểm nối kết cho hai
khái niệm này gặp nhau. Đó cũng chính làm điểm phân biệt giũa chế độ
dân chủ và độc tài. Tự do có quan hệ với dân chủ vì là nguyên tắc hình
thức tổ chức cho một nhà nước, trong khi chế độ độc tài, ngược lại,
không tạo điều kiện này. Do đó, dân chủ và pháp quyền có một chức năng
chung là bảo vệ dân quyền và tự do trong một thể thống nhất.
Hai nguyên tắc dân chủ và pháp quyền
không hề cạnh tranh hay đối nghịch mà bổ sung nhau, tạo thành một khuôn
khổ chung làm cho luật Hiến pháp có giá trị bền vững hợn. Ý nghĩa của
phân quyền nếu nằm trong khuôn khổ dân chủ thì sẽ dễ thành hình hơn;
quyền lực của nhà nước, do đó, được quân bình hơn và có điều kiện kiểm
soát chặt chẻ hơn. Thí dụ điển hình nhất là vai trò độc lập của cơ quan
tư pháp. Tinh thần độc lập và khách quan của tòa án làm cho việc giải
quyết các tranh chấp không bị quyền lợi cá nhân hay phe nhóm gây ảnh
hưởng.
Toàn dân nắm quyền lực cai trị đất nước,
nên nhà nước pháp quyền cũng bị giới hạn trong nguyên tắc này. Có lập
luận cho là tam quyền phân lập ngày càng chuyên môn hoá cao độ nên làm
suy yếu việc thực thi dân chủ. Thực tế cho thấy phân biệt chức năng
trong quyền lực của bộ máy nhà nước không làm mất đi quyền kiểm soát của
người dân, vì việc quân bình và kiểm soát sẽ hữu hiệu hơn, dĩ nhiên
trong điều kiện là nếu nhà nước tôn trọng uy lực của luật pháp
Dân chủ và cộng hòa
Cộng hoà là một khái niệm cổ điển của luật Hiến pháp nhằm quy định về tổ chức nhà nước và có hai nghĩa hình thức hay nội dung.
Hình thức
Miachiavelli là người đầu tiên du nhập
khái niệm cộng hoà vào luật Hiến pháp. Ông cho rằng nhà nước cộng hoà
có hai chức năng là nắm quyền lực và lãnh đạo mà trước đó thuộc về nhà
vua. Nhà nước cộng hoà được hiểu là tương phản và thay thế cho nhà nước
quân chủ. Do đó, chúng ta không thể gọi chế độ quân quyền của Anh và
Thụy Điển là cộng hoà. Qua sự hình thành và phát triển của khái niệm dân
chủ, chế độ cộng hoà sẽ làm dân chủ hóa cho đất nước về hình thức. Ngày
nay, khái niệm cộng hoà đã thay đổi nhiều vì không chú trọng đến cá
nhân lãnh đạo mà coi là một hình thức cai trị cộng đồng, bao gồm tất cả
sinh hoạt chung của đất nước và con người.
Mối quan hệ giữa dân chủ và cộng hòa
không đối nghịch hay đồng nghĩa vì cả hai có chiều hướng khác nhau.
Nhưng du nhập khái niệm cộng hoà cho một chế độ dân chủ cũng không làm
cho nguyên tắc dân chủ suy yếu hay mạnh hơn. Thực tế cho thấy các nước
độc tài chuyên chế hoặc theo xã hội chủ nghĩa đã lạm dụng khái niệm cộng
hòa khi khái niệm chuyên chính vô sản không hề phù hợp với cộng hoà dù
theo nghĩa hình thức.
Nội dung
Nội dung của khái niệm cộng hoà được
Cicero và Kant đề cao. Cicero cho là dân tộc không chỉ là một tập hợp
của một số người hổn tạp mà là một sư đồng thuận chung sống trong quy
luật chung và sử dụng các tài sản chung. Cộng hoà là việc điều hành các
vấn đề chung cho mọi người trong cộng đồng, thí dụ như trong cùng thành
phố thời cổ Hy Lạp. Do dó, quyền lợi của cá nhân hay một phe nhóm không
có ý nghĩa cộng hoà mà thuộc về tất cả các thành viên trong cộng đồng.
Cá nhân và lãnh đạo cùng theo đuổi mục đích chung sống trong chế độ cộng
hoà trong tinh thần trọng pháp. Chế độ cộng hoà không còn là một hình
thức không quân chủ hay chuyên chế mà là một chế độ chính trị, một biểu
hiện có nội dung là mọi quyết định phải phù hợp với quyền lợi công cộng.
Trong nội dung này, cộng hoà có ý nghiã của khái niệm nhà nước pháp
quyền hiện nay.
Theo Kant, cộng hoà không có nội dung
giáo điều mà là một khái niệm luật Hiến pháp đề ra các quy phạm căn bản
cho sự chung sống trong xã hội và ba điều kiện tiên quyết là tự do, ràng
buộc về luật pháp và bình đẳng. Nội dung này không cách biệt với khái
niệm tự do dân chủ hiện đại. Kant mơ ước là nếu Hiến pháp cộng hoà thực
hiện được trong từng quốc gia và có sự hợp tác quốc tế hữu hiệu thì một
nền hoà bình vĩnh cữu cho nhân loại là khả thi.
Dân chủ và xã hội
Ủy nhiệm mục tiêu
Nhà nước xã hội là một khái niệm hiện đại
của luật Hiến pháp, không phải là một nguyên tắc hiến định để tạo thành
nhà nước XHCN, không thuộc về dân quyền hay pháp quyền, mà là một mục
tiêu của nhà nước để đem lại công bình và an toàn xã hội. Đúng hơn đây
là một sự ủy nhiệm của luật Hiến pháp cho nhà nước và các cơ quan chức
năng thi hành các biện pháp xã hội để bảo đảm cuộc sống cho toàn dân,
thí dụ tạo an sinh cộng đồng, phúc lợi xã hội, phòng chống thiên tai,
công bình trong hệ thống thuế khọá, phân phối lợi tức, các biện pháp bảo
hiểm sức khoẻ, thất nghiệp, hưu bổng và trợ cấp xã hội vv…
Hai khái niệm dân chủ và nhà nước xã hội
không đối nghịch mà hổ trợ nhau. Nếu bất công là một hậu quả tất yếu
trong đời sống xã hội, thì dân chủ là một khả năng để giải quyết vấn đề.
Việc thực hiện các mục tiêu của nhà nước xã hội đề ra cần đến dân chủ.
Dân chủ đem lại sư bình đẳng chính trị cho toàn dân, dân có quyền định
chọn lãnh đạo qua hình thức đầu phiếu. Do đó, các bất công xã hội cũng
phải do dân giải quyết qua phương thức dân chủ.
Triển vọng khó khăn
Trở ngại chính là nguyên tắc dân chủ quy
định quá tổng quát, trong khi mang lại công bình và an toàn xã hội cho
toàn dân là mục tiêu lý tưởng. Đồng thuận dân chủ không thể đề ra một
thể chế tối ưu và một giải pháp khi nhà nước không có phương tiện. Hiện
nay, bất công xã hội không thuần túy nằm trong sự bóc lột công nhân qua
quá trình sản xuất như Marx mô tả mà thực tế phức tạp hơn nhiều. Toàn
cầu hoá, nợ công lan tràn và suy thoái kinh tế là các vấn đề xã hội trầm
trọng của các nuớc phương Tây. Khả năng giải quyết vấn đề càng thu hẹp,
nên nhà nước càng cần hợp tác quốc tế và các tổ chức dân sự, kể cả sự
chấp nhận hy sinh và khắc khổ của dân chúng.
Luật Hiến pháp không cho phép nguời dân
có tố quyền hiến định về một quyền lợi xã hội. Triển vọng về việc phát
triển quyền này thành một nhân quyền càng khó khăn hơn vì tình hình kinh
tế không cho phép. Tạo công bình trong phân phối phúc lợi và an toàn xã
hội cho toàn dân, giải quyết bất công qua đánh thuế doanh nghiệp, thuế
di sản và thuế lợi tức là những biện pháp luật định. Do đó, vấn đề không
những cần dân chủ mà còn cần đến pháp quyền. Mối quan hệ này cần được
đặt ra. Việc phân chia phúc lợi xã hội công bình trong tương lai càng
bất trắc hơn.
Thực tế Hiến pháp Việt Nam
Thực trạng
Dù tự hào dân chủ của Việt Nam là tốt đẹp
vạn lần hơn của các nước phương Tây, nhưng Việt Nam chưa hề có một Hiến
pháp nào đúng nghĩa là của dân làm ra, nên không có điều kiện tương
đồng để so chiếu với các khái niệm vừa trình bày và suy diễn về tương
lai Hiến pháp. Nếu chấp nhận giá trị phổ quát của các khái niệm trên để
soi sáng cho thực trạng Hiến pháp thì chúng ta thấy một thực tế khác.
Hiến pháp không có dân chủ, vì ngườì dân
không có cơ hội hành sử thẩm quyền lập hiến và không có tố quyền hiến
định về các vi phạm nhân quyền. Hiến pháp không bảo đảm tự do báo chí mà
trước đây thực dân Pháp đã triệt để tôn trọng.
Hiến pháp không có pháp quyền soi sáng vì
Đảng quyền can thiệp toàn diện và triệt để vào mọi sinh hoạt xã hội, do
đó vi phạm về sự phân biệt giữa chính quyền và xã hội.
Hiến pháp không theo thể chế cộng hoà dù
quốc hiệu minh danh là cộng hòa xã hội chủ nghiã. Quyền dân chủ nhân dân
mà chế độ Đảng cử dân bầu và quyền sở hữu nhà nước không phù hợp theo ý
niệm cổ điển cộng hoà.
Hiến pháp không theo quan điểm nhà nước
xã hội vì định hướng XHCN. Chính sách này không đem lại công bình trong
phân chia phúc lợi và an toàn xã hội. Bốn khiếm khuyết này quá hiển
nhiên nên không cần lý giải thêm.
Nguyên nhân
Lý thuyết Mác xít cho rằng các khái niệm
thượng tôn luật pháp, tôn trọng nhân quyền, tam quyền phân lập, chính
thể lập hiến và đại nghị là những sản phẩm sai lầm của ý thức trong xã
hội tư sản mà tranh chấp quyền lợi của các giai cấp là một thực tại
khách quan. Hiến pháp phản ảnh một tình trạng đấu tranh giai cấp, một
phương tiện cho giai cấp thống trị đàn áp các giai cấp khác và cuối cùng
đi đến thoả hiệp về hình thức hay nội dung trong một thời kỳ nhất định.
Sự thoả hiệp này không còn nửa khi giai cấp công nhân thắng thế trong
cuộc đấu tranh cách mạng. Giai cấp vô sản là đại diện chính thống cho
toàn xã hội và có thẩm quyền tối thượng về lập hiến. Với bạo lực cách
mạng và độc quyền chuyên chính vô sản Hiến pháp XHCN là một công cụ lý
tưởng để xây dựng xã hội và đem lại công bình tuyệt đối. Các mối quan hệ
về các khái niệm dân chủ, pháp quyền, cộng hoà và xã hội sẽ bị hủy diệt
theo ánh sáng của nền dân chủ nhân dân.
Thực tế đấu tranh cách mạng dành đôc lập
và giải phóng dân tộc tạo cho Đảng có một ưu quyền tối thượng và Việt
Nam có một đặc thù là Đảng, nhà nước và xã hội là một thể thống nhất.
Soạn thảo Hiến pháp là sự cải biên các Nghị quyết và Cương lĩnh của
Đảng; Hiến pháp không do thẩm quyền lập hiến của toàn dân quyết định và
nội dung không là ý chí chung sống của toàn dân trong nguyên tắc đồng
thuận. Từ sự áp đặt của Đảng quyền mà Hiến pháp không có giá trị về mặt
pháp lý và thực tế.
Giải pháp
Lý thuyết về luật Hiến pháp rất đa dạng
cần được góp ý, nhưng ít ai quan tâm, kể cả học giới. Đảng chưa thuyết
phục được về khái niệm NNPQXHCN và không còn thuyết phục được về khái
niệm chuyên chính vô sản và quyền sở hữu toàn dân. Tất cả lý thuyết làm
kìm chế sự thịnh vượng đất nước. Nếu Quốc hội tiếp tục sao chép Cương
lĩnh của Đảng thì Hiến pháp tương lai sẽ là một áp đặt của tư bản nhà
nước với giai cấp vô sản mới, nạn nhân của Đảng. Cuối cùng, Hiến pháp
không phát huy được khái niệm đối lập chính trị trong sinh hoạt dân chủ
mà chỉ duy trì khái niệm phản động, thế lực thù địch và suy thoái đạo
đức.
Thực tế về góp ý tu chỉnh không dựa theo
lý thuyết luật pháp XHCN mà theo công lý cá nhân và đạo đức xã hội để
lập luận. Dân oan thấy là luật pháp không còn là công cụ của tư sản bóc
lột mà đã trở thành phương tiện cưõng chế của tư bản thân tộc. Dân không
thấy có thành phần giai cấp vô sản vùng lên mà chỉ biết có các nhóm lợi
ích dành nhau định đoạt vận mệnh đất nước. Dân không tự xác định được
mình có thẩm quyền lập hiến tối thượng, vì cho là hoang tưởng và dè dặt
hơn khi góp ý theo chỉ đạo của Đảng. Dĩ nhiên cũng có một thiểu số khác
phê phán Đảng nghiêm khác hơn với tất cả thành tâm. Dù cả hai thiện chí
này đều đáng được tôn trọng, nhưng không đem lại giá trị cho việc tu
chỉnh được cao cả hơn, vì vô hình chung là họ chấp nhận duy trì tình
trạng vô luật pháp hiện nay.
Đảng muốn tiếp tục lãnh đạo, nhưng dân
cần có cơ hội đối thoại trong tinh thần bình đẳng hơn là theo sự chỉ đạo
của Đảng. Giữa dân và Đảng cần hiểu nhau nhiều hơn mà hệ thống thông
tin của nhà nước và cộng đồng mạng không thể đáp ứng được nhu cầu này.
Để chuẩn bị tìm ra mô hình Hiến pháp mới, các khái niệm hiến định là
quan trọng cho học giới, vì họ cần có cơ sở để đóng góp thiết thực hơn.
Một cuộc thăm dò dư luận khách quan sẽ đem lại nguồn thông tin khả tín
và phương tiện cần thiết. Tìm hiểu y kiến công luận về triển vọng hình
thành các định hướng lập hiến này là một sinh hoạt bình thường của một
đất nước dân chủ. Việc Đảng và dân chúng đồng thuận tham gia cho bước
khởi đầu này trở thành vấn đề nghiêm túc cần thảo luận sâu rộng hơn.
Kết luận
Trình độ luật pháp biểu hiện nền văn hoá
của một nước. Tu chỉnh Hiến pháp là một nhu cầu bức thiết của thời đại
để chứng tỏ là một tinh hoa văn hóa đáng cho thế hệ hôm nay tự hào và
mai sau kế thừa. Tiến trình cải cách thêm xa vì chúng ta không có một
chủ thuyết lập hiến mở lối và cũng không có kinh nghiệm thực tế để thu
ngắn.
Nguyên uỷ chuyển động cho tương lai Hiến
pháp cần đến một khởi điểm tinh thần: cả nước tìm hiểu và mến yêu những
giá trị cao đẹp của Hiến pháp và biến kiến thức và ý thức này thành một
tinh thần yêu nước. Luận đề này do triết gia Jürgen Habermas khởi xướng.
Tinh thần yêu nước hôm nay là phát huy những giá trị đích thực của tự
do, công bình, nhân quyền và ràng buộc pháp luật. Toàn dân thay đổi tư
duy về thẩm quyền lập hiến là khởi điểm và Đảng thăm dò dư luận theo
phương cách khoa học là biện pháp.
* Dr. Đỗ Kim Thêm L.L.
M., M. A, Legal Member, Competition Law and Policy and Consumers
Protection Branch, United Nations Conference on Trade and Development
(UNCTAD), Geneva. Views expressed are personal.
_______
Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét