Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
KHÁI NIỆM VỀ QUYỀN LẬP HIẾN CỦA TOÀN DÂN
16:34
Hoàng Phong Nhã
No comments
Đỗ Kim Thêm, theo Phía Trước
Vấn đề
Khái niệm về thẩm quyền lập hiến ra đời
đầu tiên qua luận thuyết ”Qu´est ce que le Tiers état?“ của Emmanuel
Joseph Sieyès vào tháng giêng năm 1789 tại Pháp. Áp dụng khái niệm này
trong bối cảnh sôi sục của Cách Mạng đã gây nhiều biến động liên tục với
kết quả là chế độ quân chủ sụp đổ kéo theo đủ loại trưng cầu dân ý và
nhiều Hiến pháp mới thành hình. Qua thời gian, chính sự lắng đọng hơn,
các nước phương Tây đều lần lượt công nhận giá trị khái niệm này và đưa
vào áp dụng. Đây là kinh nghiệm quốc tế mà chúng ta cũng cần tìm hiểu để
góp ý trong việc sửa đổi Hiến pháp hiện nay. Để góp phần khiêm tốn
trong việc thảo luận chung, bài viết sau đây sẽ tìm hiểu thành tựu của
khái niệm này trong hai khía cạnh lý thuyết và thực tế.
Định nghĩa
Hiến pháp là một văn bản quy định về
nguyên tắc tổ chức nhà nước và có uy lực tối thượng trong hệ thống luật
pháp. Hiến pháp có hai chức năng chủ yếu. Một là tạo ra thẩm quyền hiến
định cho các cơ quan nhà nuớc và quy định mọi luật thủ tục cho các cơ
quan hiến định thực hiện quyền này. Hai là quy định những luật lệ, thí
dụ như dân quyền và nhân quyền, để cho các cơ quan hiến định phải tôn
trọng. Nhưng ai có quyền lập hiến? Luật Hiến pháp của Pháp đã lý giải
cho vấn đề này.
Bất cứ một loại luật nào, trước khi áp
dụng cũng cần có hiệu lực pháp lý về hình thức và nội dung. Hình thức có
nghiã là luật được thông qua đúng theo thủ tục, nội dung được hiểu là
lập luận được chấp nhận là hợp pháp. Khi luật có hiệu lực sẽ tạo cho
người dân có tố quyền khi quyền lợi luật định bị vi phạm. Khi tòa án
quyết định tranh chấp sẽ có hiệu lực cưỡng chế.
Trong một hệ thống pháp luật, các văn bản
phải căn cứ vào nhau để tạo hiệu lực, thí dụ một nghị định của môt Bộ
phải dựa vào một bộ luật để ban hành và một văn bản địa phương căn cứ
vào quy định của trung ương làm cơ sở. Luật giới gọi đây là trình tự quy
chiếu mà nó tạo nên một giá trị nội tại cho pháp luật và đỉnh cao của
hệ thống quy chiếu này là Hiến pháp.
Hiến pháp có một giá trị tự tại vì không
cần quy chiếu hay trưng dẫn vào các luật khác để tạo giá trị. Đặc thù
này có thể được giải thích qua nhiều khía cạnh khác nhau. Sử gia tìm
hiểu nguồn gốc lịch sử và giải thích sự thành hình Hiến pháp qua các
diễn biến của thời gian. Các nhà lý thuyết về luật học cho rằng nguyên
tắc triết học tạo giá trị nội dung cho Hiến pháp. Họ hướng về các chuyên
đề như tính chính thống, tính hợp pháp của thể chế, thẩm quyền lập hiến
và thẩm quyền hiến định. Hiến pháp có giá trị cao cả vì là một lý
tưởng, một giá trị quy phạm ràng buộc cho đất nước và con người. Đặc
điểm chính của luật Hiến pháp là có động lực chính trị thúc đẩy, do ý
chí chính trị của toàn dân quyết định chung sống trong trật tự và công
bình xã hội. Vì tầm vóc chính trị của các quyết định liên quan đến đất
nước, chính quyền, xã hội và con người mà luật Hiến pháp vượt ra khỏi
phạm vi luật học và đi vào lĩnh vực chính trị.
Khái niệm về thẩm quyền lập hiến của toàn
dân có hai sắc thái vừa cách mạng và dân chủ. Cách mạng vì mục đích của
Sieyès là chống đối lại quyền lực cai trị của Hoàng gia và các định chế
quân chủ, một quyền lực nguyên thuỷ và tối cao cho mọi sinh hoạt của
nước Pháp. Dân chủ vì Sieyès, vốn là một nhà thần học, đưa ý niệm thẩm
quyền lập hiến vào Thần học Thiên Chúa giáo. Thần học có nội dung chính
trị dân chủ. Từ nay, đất nước không phải là một trật tự thiên nhiên do
Thiên Chúa sắp đặt ra mà do ý chí cuả con người trong quyết định tối
thượng để làm chủ vận mệnh. Toàn dân là một chủ thể luật pháp có thẩm
quyền quyết định về trật tự cho đất nước và là tác giả của công trình
lập hiến.
Sieyès phân biệt khái niệm thẩm quyền lập
hiến (pouvoir constituant) qua đó mà Hiến pháp thành hình và quy định
quyền lực cho các cơ quan nhà nước. Quyền của các cơ quan này ông gọi là
thẩm quyền hiến định (pouvoir constitué) vì nằm trong phạm vi của Hiến
pháp và bị ràng buộc bởi Hiến pháp.
Tổng hợp các chiều hướng giải thích này
chúng ta có thể định nghĩa thẩm quyền lập hiến là một sức mạnh, môt
quyền lực chính trị của toàn dân nhằm lập ra hay thay đổi Hiến pháp để
làm căn bản cho sự chung sống trong một đất nuớc. Thẩm quyền lập hiến
không đồng nghiã với quyền lực nhà nước mà là điều kiện tiên quyết để
tạo ra quyền lực nhà nước. Tùy theo hình thức thể hiện mà thẩm quyền lập
hiến tác động đến nội dung của quyền lực nhà nước. Thẩm quyền lập hiến
của toàn dân không bị giới hạn và không thể chuyển nhượng. Toàn dân và
kể cả thế hệ tương lai không bị ràng buộc vào bất cứ một luật thủ tục
hình thức nào khi hành sử thẩm quyền lập hiến.
Truyền thống Anh
Khái niệm quyền lực lập hiến thuộc về
toàn dân đã có trong truyền thống của Anh trước khi Cách Mạng Pháp bùng
nổ. Trong thời kỳ nội chiến ở nước Anh vào năm 1647 có một phong trào
đấu tranh đòi dân chủ của Levellers. Ông đề nghị du nhập Hiến pháp mới
có tên là Ageement of the People, một hình thức tạo ra một hợp đồng giữa
dân và chính quyền, một đạo luật tối cao nhằm quy định nền tảng cho
quyền lực nhà nước và không phải là quyết định của quốc hội. Dự thảo về
Agreement of the People được tu chỉnh và đệ trình quốc hội vào năm 1648
nhưng không được phê chuẩn.
Đến năm 1653 trong thời kỳ của Oliver
Cromwell, ông đề ra một Hiến pháp thành văn được gọi là Instrument of
Government. Đặc điểm của Hiến pháp này là không được thay đổi và Quốc
hội cũng không được tu chỉnh. Cromwell lập luận rằng Hiến pháp có tính
ràng buộc vì dân chúng đã đồng thuận. Năm 1657 Quốc hội nhận được bản dự
thảo Hiến pháp. Đây là một Hiến pháp thành văn duy nhất trong lịch sử
lập hiến của Anh. Năm sau Cromwell từ trần. Năm 1660 Quốc hội không phê
chuẩn mà quyết định đưa đất nước trở lại chế độ quân chủ. Từ đó, khái
niệm Hiến pháp thành văn không đóng vai trò quan trọng. Truyền thống tư
duy ở Anh cho là quyền tối thượng thuộc về Hoàng gia và Quốc hội. Dân
quyền luôn sẳn có trong xã hội mà nhiệm vụ của nhà nước là phải tìm
những thiết chế hữu hiệu hơn để bảo vệ.
Truyền thống Hoa Kỳ
Một biểu hiện khác tương tự là năm 1776
khi các thuộc địa của Anh taị Bắc Mỹ tuyên bố độc lập. Tuyên ngôn này
dựa vào quyền dân tộc tự quyết và thẩm quyền lập hiến tối thượng. Trước
đó, Bắc Mỹ đã có những Hiến chương quy định về tự do và tổ chức nhà
nước. Các Hiến chương này do Vương quốc Anh chuẩn nhận như một đạo luật
cơ bản cho toàn dân thuộc địa và là một thành phần trong luật của Anh.
Trong khuôn khổ này các tiểu bang thuộc điạ có quyền ban hành luật. Toà
án Anh chỉ xét tính phù hợp luật tiểu bang với luật của Anh. Trước khi
giành được độc lập dân chúng trong thuộc địa Anh coi sự ràng buộc luật
tiểu bang với luật của mẩu quốc Anh là hiển nhiên.
Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 4.7.1776 đề cao
quyền dân tộc tự quyết và thẩm quyền lập hiến. Tư tưởng này bị ảnh hưởng
từ lý thuyết luật Hiến pháp của châu Âu, mà chủ yếu là John Locke.
Thomas Jefferson thể hiện đặc điểm này qua trích đoạn sau:
“Chúng tôi cho rằng những chân lý này là
hiển nhiên, tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, được tạo hoá ban cho
một quyền không thể chuyển nhượng, đó là quyền sống, tự do và mưu cầu
hạnh phúc. Để bảo đảm cho những quyền này chính quyền được lập ra cho
con người, bắt nguồn từ quyền lực hợp pháp do sự đồng thuận của người bị
trị. Khi nào hình thức của chính quyền tác hại đến cứu cánh này, dân có
quyền thay đổi hay bỏ chính quyền và thay một chính quyền mới, đặt ra
nền tảng hay nguyên tắc tổ chức quyền lực theo hình thức phù hợp nhất để
mang lại an ninh và hạnh phúc.”
Trong hiến pháp mới của các tiểu bang
tuyên bố độc lập có đề ra nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết, nguyên tắc
phân quyền và giới hạn quyền lực nhà nước. Bản văn Hiến pháp gồm có hai
phần. Phần thứ nhất quy định cách tổ chức quyền lực cơ quan nhà nước và
phần thứ hai là dân quyền, Bill of Rights, xác định quyền của người dân
mà nhà nước phải tôn trọng. Trong Hiến pháp Liên Bang Hoa Kỳ công bố
1787 không quy định các quyền cơ bản của người dân vì hai lý do. Một là
Hiến pháp các tiểu bang đã có quy định truớc đó và hai là trong Bảng
Tuyên Ngôn Độc Lập đã minh thị vấn đề. Đến cuối năm 1791 một thủ tục tu
chỉnh ra đời để quy định muời quyền cơ bản này thành các điều khoản phụ
thuộc và được chuẩn nhận.
Cách mạng Pháp
Để tránh khủng hoảng chính trị vua Louis
XVI đề ra những cải cách nhằm chống lại giới quý tộc vào tháng năm 1789.
Ông đề nghị triệu tập một Đại Hội Toàn Dân mà từ năm 1614 chưa hề tập
hợp được. Trong xã hội có quá nhiều vấn đề sôi nổi cần giải quyết, mà
chủ tâm của công luận là cần mở rộng tầm ảnh hưởng cuả tư sản thành thị
và nông dân, trong khi giới tu sĩ và quý tộc đang còn chiếm ưu thế trong
chính quyền.
Lúc chính trường càng giao động và chính
giới đang hoang mang thì học thuyết của Sieyès được công luận đón nhận
nồng nhiệt. Ông cổ vũ rằng vị trí của đất nước và dân tộc là cao cả, chỉ
bị ràng buộc theo luật tự nhiên. Đất nước hiện hữu trước tất cả, nguồn
gốc của mọi sự. Ý muốn của đất nước bao giờ cũng là hợp pháp. Đất nước
tự nó là một loại luật. Trước và trên đất nước chỉ có luật tự nhiên.
Luật pháp thành văn được hình thành chậm trể hơn thông qua sự phát triển
của xã hội. Thể hiện ý chí của đất nước không bị ràng buộc vào một luật
hình thức nào.
Ông giải thích đất nước là một nơi tập
hợp của toàn dân để chung sống trong tinh thần tự nguyện. Để đạt đuợc
mục tiêu này tất cả mọi người cần thông báo cho nhau ý nguyện chung sống
này. Ý chí từng cá nhân sẽ kết hợp thành một ý chí chung cho toàn xã
hội, qua đó xã hội sẽ nhân danh toàn thể để hành động. Khi các thành
viên xã hội quá đông và sống phân tán thì việc thể hiện một ý chí chung
sẽ khó khăn hơn. Từ bước đầu tiên này mà xã hội sẽ ủy nhiệm cho một cơ
chế đại diện cho toàn dân điều hành và giải quyết những nhu cầu chung.
Cơ chế này có thẩm quyền hành động trong phạm vi mà xã hội đồng ý ủy
nhiệm. Ý chí thực sự của toàn dân từ nay được thể hiện qua ý chí của các
đại biểu của cơ chế đại diện.
Do đó, vấn đề nguyên tắc tổ chức và thủ
tục được đặt ra mà trước hết và trên hết là Hiến pháp. Sieyès cho là có
hai loại thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền hiến định. Do thẩm quyền lập
hiến của toàn dân mà Hiến pháp mới thành hình, không có một hình thức
nào khác như quân quyền có thể thay thế. Thông qua Hiến pháp mà các cơ
quan nhà nước được tạo lập. Sở dĩ các cơ quan này có được quyền là vì do
hiến pháp ban cho, vì thế nên ông goị là thẩm quyền hiến định. Ba cơ
quan được Hiến pháp trao quyền là Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp, cả ba
bị ràng buộc bởi luật Hiến pháp.
Ý chí của nhà lập hiến là việc thi hành
quyền lực nhà nước không gây thiệt hại xã hội. Trước tình trạng khủng
hoảng của đất nước hai giai cấp qúy tộc và tu sĩ không đủ túc số là đại
diện cho toàn xã hội và sẽ không giải quyết được vấn đề. Sieyès cho rằng
phải có một cuộc triệu tập toàn dân để lập Quốc Hội Lập Hiến. Theo ông
thì thành phần thứ ba gồm có nông dân và tư sản thành thị mới có thẩm
quyền và tư cách triệu tập Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc.
Tác phẩm của Sieyès gây vang động khắp
nước Pháp. Cách Mạng bùng nổ. Ngày 17. 06.1789 đúng theo đề nghị của
Sieyès, Đại Hội Toàn Dân tuyên bố tự triệu tập Quốc Hội Lập Hiến và tự
nhận là có thẩm quyền lập hiến. Sau một thời kỳ tham vấn các đại biểu
quyết định đưa ra Bảng Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền vào ngày
26.08.1789. Bảng Tuyên Ngôn này được ghi lại trong Hiến pháp Cách Mạng
đầu tiên. Hai Hiến pháp sau đó có lập lại với một vài tu chỉnh. Sau một
thời kỳ dài thảo luận, tháng chín năm 1791 Quốc Hội Lập Hiến chung quyết
Hiến pháp mới để quy định chế độ quân chủ lập hiến cho Pháp. Dù Hiến
pháp tháng chín được ghi nhận như là một mô hình cho các nước Tây Âu,
nhưng tại Pháp lại không có hiệu lực, sau đó bị thay đổi.
Một đặc điểm của Hiến pháp tháng chín
1791 là không phận biệt giữa thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền tu chỉnh.
Các đaị biểu giải thích là họ có ý thức vấn đề, nhưng tin rằng công
trình lập hiến là hoàn chỉnh và muốn tránh việc thay đổi trong tương
lai, cho dù họ công nhận là trên lý thuyết toàn dân có quyền thay đổi.
Một vấn đề khác là nên thay đổi từng phần hay toàn bộ Hiến pháp. Các đại
biểu cho rằng việc thay đổi một phần chi tiết có thể được Quốc hội đảm
nhận, nhưng thay đổi toàn bộ phải thuộc về toàn dân.
Điều 1 phần VII Tu chỉnh Hiến pháp quy
định: „Quốc hội Lập Hiến tuyên bố rằng đất nước có một quyền bất khả
thời tiêu về việc thay đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, khi xét rằng sẽ thích
hợp hơn với quyền lợi quốc gia với những phương tiện do chính Hiến pháp
đề ra, thì có quyền thay đổi những điều khoản nào kinh nghiệm cho thấy
là không phù hợp, Quốc hội đề ra những thủ tục tu chỉnh Hiến pháp theo
hình thức quy định sau đây…“ Để thực hiện mục tiêu này, Quốc Hội Lập
Hiến đưa ra một thủ tục nghiêm nhặt hơn với việc tu chỉnh Hiến pháp.
Ngoài vấn đề soạn Hiến pháp mà cả việc
thay đổi chế độ quân chủ cũng được thảo luận kể từ năm 1792. Tranh luận
xảy ra khi một Đại biểu tuyên bố là Hiến pháp mới là một căn bản pháp lý
cho việc huỷ bỏ chế độ quân chủ. Chủ tịch Quốc Hội phản bác là hủy bỏ
Hoàng gia là vi hiến, nhưng quan điểm này không được toàn thể quốc hội
và dân chúng đồng tình. Ngày 10. 08. 1792 Hoàng triều bị sụp đổ. Đại Hội
bầu ra một Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến pháp mới. Ngay phiên họp
đầu tiên 21. 09. 1792 Quốc Hội đồng thanh phê chuẩn việc truất bỏ chế
độ quân chủ và Hiến pháp không được ban hành nếu không có sư đồng thuận
của toàn dân. Tháng 7 năm 1793 Hiến pháp mới ra đời với sự chuẩn nhận
của đa số dân chúng.
Vì chiến tranh trong thời Robespierres
nên Quốc Hội Lập Hiến dời việc phê chuẩn Hiến pháp mới cho đến khi có
hoà ước. Sau khi chế độ Robespierres sụp đổ, Hiến pháp mới ra đời vào
tháng tám năm 1795. Nhưng khủng hoảng Hiến pháp liên tục xảy ra kéo theo
nhiều xáo trộn chính trị. Tháng 11 năm 1799 Napoleon Bonaparte lên nắm
quyền, một Hiến pháp mới ra đời và được dân chúng chuẩn nhận. Qua trưng
cầu dân ý vào năm 1802 Napoleon nắm quyền Tổng Tài trọn đời và năm 1804
được toàn dân tôn vinh làm vua nước Pháp.
Truyền thống Đức
Dù Cách Mạng Pháp có ảnh hưởng sâu đậm
đến công luận và khái niệm về thẩm quyền lập hiến được học giới thảo
luận, nhưng những Hiến pháp đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX tại Đức đã không
minh thị thẩm quyền lập hiến thuộc về toàn dân, mà chỉ nêu lên Hiến
pháp là sự tương thuận giữa Hoàng gia và đại biểu dân chúng, đặc biệt là
các hoàng tộc điạ phương, một hình thức nhằm tránh các phong trào đòi
hỏi dân chủ. Phong trào Cách Mạng vào năm 1848 bắt đầu gây ý thức vấn đề
này khi kêu gọi soạn thảo Hiến pháp toàn nước Đức mà không cần sự hợp
tác của Hoàng gia. Quốc Hội Lập Hiến triệu tập tại Frankfurter
Paulskirche vào tháng năm 1848 và biểu quyết Hiến pháp (Deutsche
Reichsverfassung) vào 28.3.1849. Hiến pháp 1849 tuy đề cao một vài yếu
tố dân chủ nhưng lại không công nhận quyền dân tộc tối thượng như Pháp.
Thoạt đầu các tiểu bang không chuẩn nhận Hiến pháp này, nhưng về sau do
áp lực của dân chúng mà Hiến pháp được chấp nhận và Quốc Hội Lập Hiến
giải tán.
Nước Đức (Das Deustche Reich) thành hình
vào năm 1871 do việc quyết định mở rộng các lãnh thổ ở Bắc Đức với sự
đồng thuận của các lãnh chúa địa phương và đại biểu dân chúng. Việc kết
ước này không đề cập tới thẩm quyền lập hiến. Luật Hiến pháp của Đức
hình thành trong một bối cảnh lịch sử và truyền thống tư duy khác biệt.
Chủ thuyết lập hiến của Đức không theo truyền thống chung của các nước
phương Tây. Lập luận chính cho là không phải dân chúng mà nhà nước có
quyền tối thuợng. Hiến pháp cũng giống như các loại luật khác và được
hiểu là một hành vi bày tỏ ý chí của nhà nước. Tất cả luật pháp đều có
thể bị thay đổi, nhưng luật Hiến pháp phải qua thủ tục khó khăn hơn.
Georg Jellinek là học giả luật Hiến pháp
có đề cập đến thẩm quyền lập hiến qua tác phẩm Allgemeine Staatslehre.
Đây là một sách giáo khoa chuẩn mực nhất trong thời kỳ Cộng hoà Weimar.
Jellinek giải thích nhà nước và dân tộc là hai khái niệm đồng nghiã,
luận thuyết này thuộc lý thuyết cổ điển nhất. Từ suy luận này mà khái
niệm về quyền dân tộc tự quyết và ý chí nhà nước có tính đồng nhất. Cách
hoà đồng hai ý chí này có ảnh hưởng đến sự phát triển học thuyết thẩm
quyền lập hiến về sau.
Sai lầm của Jellinek là đồng hóa tất cả
các cá nhân sống trong xã hội vào một hình thức dân tộc thống nhất, một
tập thể thống nhất. Đúng hơn, cá nhân là một thành viên của dân tộc, một
khuôn khổ xã hội có tổ chức với một hệ thống luật lệ chung. Với hình
thức này thì việc bày tỏ ý chí của toàn dân là điều khả thi. Thực tế cho
thấy không bao giờ có một ý chí thống nhất cuả toàn dân, mà ý chí này
là một khái niệm luật pháp tương đối. Nguồn gốc của quyền lực không tự
nhiên có sẳn trong một dân tộc khi nhà nước chưa thành hình, ý chí của
dân tộc được thể hiện sau khi nhà nước được tổ chức nề nếp. Tùy theo
hình thức tổ chức về cơ chế đại diện toàn dân mà thẩm quyển quyết định
tối cao của nhà nước được quy định và có thể thuộc về Hoàng gia.
Jellinek cho rằng giá trị cuả luật pháp
tùy vào mức độ tin tưởng của dân chúng, mà phần lớn do khả năng thuyết
phục, một vấn đề thuộc về hiện tượng tâm lý đại chúng trong xã hội, đặc
biệt hướng về các thành phần trung lưu ít hiểu biết về luật lệ. Về ảnh
hưởng của Quốc hội trong thời Cách Mạng Pháp ông giải thích là những
người làm Cách Mạng cũng tin là nhà nước quân chủ có dựa vào nguyên tắc
quyền dân tộc tự quyết và nhà vua là công chức để thực hiện ý chí chung.
Nhưng qua hành động cách mạng của toàn dân và không có sự chống đối mà
niềm tin này trở thành thực tại luật pháp.
Năm 1909 Egon Zwieg cho ra đời một tác
phẩm với chuyên đề Cách mạng Pháp và thẩm quyền lập hiến. Zwieg cho là
thẩm quyền lập hiến là một giai đoạn khởi đầu soi sáng cho luật Hiến
pháp. Cuối cùng quyền lực đem tư cách pháp nhân cho nhà nước.
Sau thế chiến thứ nhất Quốc Hội Lập Hiến
thành hình. Hiến pháp được Quốc hội soạn thảo và chuẩn nhận vào ngày 11
tháng 8 năm 1919. Thủ tục lập hiến của Hiến pháp Weimar (WRV) dựa vào
nguyên tắc thẩm quyền lập hiến của toàn dân. Sự phúc quyết của toàn dân
không cần thiết. Điều 1 Khoản 2 WRV quy định: “Quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”. Điều 181 WRV ghi: „Thông qua quốc hội nhân dân Đức biểu
quyết và chuẩn y Hiến pháp này. Hiến pháp này có hiệu lực kể từ ngày
công bố.”
Dù Hiến pháp dựa thẩm quyền lập hiến của
toàn dân làm cơ sở, nhưng học giới kéo dài việc tranh luận giá trị khái
niệm này. Quan điểm đối nghịch nổi bật nhất là Gehard Anschütz. Khi bình
luận về luật Hiến Pháp Weimar, ông lập luận rằng phân biệt thẩm quyền
lập pháp và thẩm quyền lập hiến là hoàn toàn xa lạ trong truyền thống
luật Đức. Không giống như tại Bắc Mỹ, thẩm quyền lập hiến tại Đức không
thể cao hơn thẩm quyền lập pháp; Hiến pháp không thể đứng lên trên Lập
pháp; Hiến pháp là một phương tiện mẩu mực để Lập pháp có nghĩa vụ chấp
hành theo đúng hình thức quy định việc thay đổi Hiến pháp.
Điều 76 WRV quy định Hiến pháp có thể
thay đổi qua thủ tục trưng cầu dân ý hay qua sự đồng thuận với đa số
tuyệt đối của hai cơ quan Reichstag và Reichsrat. Túc số cần thiết là
2/3 đại biểu. Theo quan điểm chung của luật giới chính túc số 2/3 này
làm cho việc thay đổi Hiến pháp có giá trị pháp lý, nên không cần quy
định vấn đề thay đổi Hiến pháp hay ghi vào trong Hiến pháp. Để đạt được
túc số này là khó khăn trong thực tế và thay đổi luật thông thường không
cần túc số này.
Giải thích điều 76 WRV đem lại nhiều
tranh luận, nhưng thuyết phục nhất là ý kiến của Carl Schmitt. Trong hai
tác phẩm Chế độ Độc Tài năm 1921 và Lý thuyết Luật Hiến pháp năm 1928
Schmitt đã đào sâu vấn đề thẩm quyền lập hiến. Ông cho rằng khái niệm
này nhằm giới hạn cho mọi thay đổi Hiến pháp. Hiến pháp chỉ có giá trị
khi nào chính toàn dân thể hiện ý chí lập hiến. Ý nghĩa của Hiến pháp
không nằm trong một vài điều khoản của Hiến pháp mà Hiến pháp là một
toàn bộ bản văn và là một quyết định cơ bản về một trật tự chính trị cho
cả nước. Thủ tục lập hiến đòi hỏi điều kiện tiên quyết là có sự thống
nhất về ý chí chính trị, một quyết định có ý thức của toàn dân về thẩm
quyền này.
Ông phân biệt Hiến pháp, Verfassung (G),
Constitution (E), và luật Hiến pháp Verfassungsgesetzte (G),
Constitutional law (E). Hiến pháp phản ảnh ý chí chính trị lập hiến của
toàn dân trong việc quy định cấu trúc và thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước. Đây là điều kiện tiên khởi để Hiến pháp ra đời và có gía trị tối
thượng. Hiến pháp tạo nên giá trị cho luật Hiến pháp. Luật Hiến pháp
thành văn chỉ là những điều khoản quy định để thi hành ý chí lập hiến
qua Hiến pháp. Thẩm quyền lập hiến không thể được coi là mất đi sau khi
Hiến pháp ra đời, mà nó tồn taị mãi bên cạnh và bên trên Hiến pháp. Bất
cứ lúc nào Hiến pháp cũng có thể bị thay đổi bởi một Hiến pháp mới khi
toàn dân quyết định sử dụng thẩm quyền lập hiến.
Khi Hiến pháp có quy định thủ tục thay
đổi Luật Hiến pháp, thì vấn đề thẩm quyền được đặt ra. Theo Schmitt, nếu
không có các điều khoản thẩm quyền này, thì thẩm quyền lập hiến của
toàn dân sẽ quyết định. Ngược lại, khi có điều khoản quy định thẩm quyền
này, thí dụ như Điều 76 WRV, vấn đề sẽ khác đi. Điều 76 WRV ủy quyền
cho thay đổi luật Hiến pháp nhưng toàn dân vẫn phải bảo lưu về thẩm
quyền lập hiến. Schmitt giải thích là điều 76 WRV đã không phân biệt
được sự khác nhau giữa Hiến pháp và Luật Hiến pháp. Thẩm quyền thay đổi ở
đây chỉ là thay đổi Luật Hiến pháp, không phải thay đổi Hiến pháp; Hiến
pháp phải luôn được bảo tồn. Cơ quan chức năng không được ủy quyền
chung quyết Hiến pháp mới và đề ra những nguyên tắc về thẩm quyền tu
chỉnh. Tất cả các điều khoản quy định tu chỉnh không thể bị thay đối
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Sieyès và Schmitt giải thích về khái niệm
thẩm quyền lập hiến khác nhau. Sieyès cho là thẩm quyền này bắt buộc
phải thuộc về toàn dân, không ai khác hơn và Schmitt cho là không nhất
thiết mà giải thích rộng hơn. Thẩm quyền này thuộc về ý chí của cơ quan
nào có đủ quyền lực để đưa ra một quyết định toàn bộ về một trật tự
chính trị chung cho đất nước. Ý chí này trước tiên thuộc về toàn dân, mà
cũng có thể thuộc về Hoàng gia, một nhóm người hay một tổ chức. Đối với
Hiến pháp Weimar, Schmitt cho là thẩm quyền lập hiến thuộc về toàn dân.
Ngày 24 tháng 3 1933, để khởi đầu chế độ
Đức Quốc Xã, Quốc hội Đức với một đa số đã áp dụng điều 76 WRV để ủy
quyền cho chính phủ ra luật (Ermächtigungs-gesetz). Từ nay, chính phủ có
quyền ban hành luật và thay đổi những điểu khoản của Hiến pháp mà không
cần thông qua Quốc hội. Về phương diện hình thức, Hiến pháp Weimar vẫn
còn giá trị trong suốt thời kỳ Đức quốc xã, nhưng Hiến pháp không có
hiệu lực trong thực tế. Học thuyết vể thẩm quyền lập hiến được sống lại
và thảo luận sau 1945.
Đến năm 1949 Luật Căn Bản của Cộng Hoà
Liên Bang Đức ra đời, đây là một loại Hiến pháp, nhưng do tình thế lịch
sử mà không thể có chính danh Hiến pháp. Nhà lập hiến chấp nhận giá trị
học thuyết thẩm quyền lập hiến của toàn dân. Ngay trong phần mở đầu nhà
làm luật đã ghi thẩm quyền lập hiến thuộc về toàn dân, đây là một bằng
chứng.
Hình thức thể hiện
Thẩm quyền lập hiến có đặc tính nguyên
thuỷ, trực tiếp và cơ bản để thể hiện ý chí chính trị và mang một tầm
vóc lịch sử. Nhưng nó thể hiện bằng cách nào trong thực tế?
Hiến pháp không thể quy định và giới hạn
cách thể hiện này, vì đây là một thực tế chính trị sinh động nên luật
giới dè dặt hơn. Tiên đoán và giải quyết mọi diễn biến chính trị không
thuộc phạm vi của họ. Họ lại không thể luật hoá mức độ một ý chí cách
mạng có hậu quả pháp lý là hủy bỏ hay tu chỉnh Hiến pháp. Dù không thể
quy định một luật thủ tục cho hậu quả thẩm quyền lập hiến, nhưng luật
giới có thể tiên đoán một số hình thức thể hiện cơ bản nhất có thể xảy
ra. Hai phương cách chính để thể hiện thẩm quyền lập hiến là soạn thảo
hay tu chỉnh Hiến pháp.
Toàn dân có điều kiện thuận lợi hơn để
thể hiện thẩm quyền lập hiến khi sống trong một nước dân chủ. Việc phát
triển và thực hành các thủ tục dân chủ dễ dàng gây ảnh hưởng này, dù là
gián tiếp. Ngược lại, việc thể hiện này quá khó khăn trong một đất nước
toàn trị
Theo Sieyès, quan trọng nhất là cần phân
biệt hai khái niệm thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền hiến định. Thẩm
quyền lập hiến có tầm vóc chính trị quy mô và tác động việc thay đổi
Hiến pháp, nên cần phải đưa ra khỏi khuôn khổ giá trị tự tại của Hiến
pháp. Giới hạn này đã có trong lý thuyết, nhưng để bảo đảm hơn nửa trong
thực tế thì thẩm quyền lập hiến cần phải tách biệt với thẩm quyển lập
pháp. Muốn đạt mục tiêu này thì giá trị quy phạm của luật Hiến pháp phải
được nâng cao. Các cơ quan hiến định và tất cả mọi quyền hiến định của
các cơ quan này phải đặt dưới Hiến pháp.
Khác với Sieyès, Schmitt đề ra bốn thủ tục tiêu biểu khi dựa vào thành quả Cách Mạng Pháp và truyền thống Đức.
Một là toàn dân bầu ra Quốc Hội
Lập Hiến. Quốc hội có hai nhiệm vụ dự thảo và chung quyết Hiến pháp.
Theo cách này thì không cần đưa ra dân chúng để phúc quyết hay trưng cầu
dân ý. Tại Đức Quốc Hội Lập Hiến Weimar soạn thảo và chung quyết Hiến
pháp và kết qủa là Hiến pháp Weimar 1919 ra đời. Do ảnh hưởng thời kỳ
cách mạng vào tháng 11 và 12 năm 1918, Quốc hội chung quyết chống lại
chế độ quân chủ, đề ra chế độ cộng hoà dân chủ và nguyên tắc dân chủ đại
nghị.
Hai là toàn dân bầu ra Quốc Hội
Lập Hiến, nhưng chỉ có nhiệm vụ soạn thảo bản văn Hiến pháp mà không có
quyền chung quyết và toàn dân quyết định. Các Hiến pháp tiểu bang tại
Đức sau năm 1945 đã theo cách này. Tại các tiểu bang Bayern,
Baden-Württemberg, Rheinland- Pfalz, Bremen và Nordrhein-Westfalen Quốc
hội soạn thảo ra Hiến pháp và dân chúng chuẩn nhận Hiến pháp.
Ba là hình thức trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ trực tiếp. Một số dân chúng tự nguyện tập hợp lại
và đề xuất việc soạn thảo hay tu chỉnh Hiến pháp hoặc thay đối cấu trúc
một cơ quan hiến định. Thủ tục này áp dụng rộng rải nhất tại Thụy Sĩ.
Điều 119 của Hiến pháp Thụy Sĩ quy định vấn đề dân có quyền duyệt xét
lại Hiến pháp và không quy định một giới hạn nào về nội dung hay hình
thức. Tại hai tiểu bang của Đức là Bayern và Baden-Württemberg có quy
định chặt chẻ hơn về trưng cầu dân ý; đề xuất trưng cầu dân ý chỉ làm
thay đổi một vài điều khoản trong luật Hiến pháp, nhưng không được thay
đổi toàn bộ Hiến pháp.
Bốn là thủ tục trưng cầu dân ý về
tính hơp hiến của một điều khoản hay một đạo luật mà chính quyển đã ban
hành. Thủ tục này được thực hiện nhiều lần dưới thời Napoleon vào những
năm 1799, 1802, 1804, 1815 và 1852. Đây là một hình thức mà chính phủ
Cách Mạng muốn lấy lòng dân nhanh chóng hơn, mà về sau tướng De Gaulle
cũng áp dụng vào thời Đệ Ngũ Cộng Hoà.
Ngoài bốn thủ tục trên còn một cách khác
để chuẩn bị cho việc thể hiện thẩm quyền lâp hiến, mà điển hình là tích
cực tham gia của toàn dân trong việc dùng quyền tự do hội họp, tự do baó
chí và ngôn luận. Khi người dân ý thức về vai trò công dân trong tiến
trình dân chủ hoá, đặc biệt nhất là quan tâm đến về các vấn đề xã hội và
thay đổi luật pháp, thì điều kiện thể hiện này thuận lợi hơn.
Kết luận
Vì bối cảnh lịch sử và trình độ phát
triển dị biệt nên kinh nghiệm quốc tế trình bày ở đây không có cơ sở để
so sánh với thực tế Việt Nam. Nếu chấp nhận giá trị phổ quát của khái
niệm từ các nước phương Tây làm chuẩn thì chúng ta thấy nguời dân Việt
chưa hề có cơ hội thể hiện thẩm quyền lập hiến vì bốn nghịch lý hiển
nhiên.
Một là, dù công nhận nhân
dân là tác giả của Hiến pháp, nhưng nền tảng của nhân dân là liên minh
giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Khẳng định này không phân biệt hai phạm vi nhà nước và xã hội trong mô
hình hiện đại.
Hai là, sửa đổi Hiến pháp có mục
đích thể chế hoá kịp thời chính sách của Đảng. Hiến pháp phải bám sát
các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng và ghi nhận những thành tựu đất nước
do Đảng khởi xướng. Kết luận này không tôn trọng ý chí lập hiến của
toàn dân.
Ba là, nhân dân thực hiện quyền
làm chủ Hiến pháp thông qua Quốc hội. Quốc hội là một cơ chế Đảng cử dân
bầu, nên thẩm quyền chỉ là gián tiếp và phụ thuộc. Do Đảng đứng trên
Hiến pháp và có thẩm quyền tối thượng và nguyên thuỷ tạo hình cho Hiến
pháp, nên Hiến pháp không phải là công trình của toàn dân.
Bốn là, để bổ túc cho khiếm
khuyết này, nhân dân cần có luật về trưng cầu dân ý để có cơ hội quyết
định trực tiếp các vấn đề hệ trọng của đất nước. Nhu cầu này chưa được
Đảng quan tâm nên triển vọng là mơ hồ.
Dù thông tin của cộng đồng mạng và trào
lưu đòi hỏi dân chủ hoá đang đóng góp đáng kể, nhưng còn rất nhiều yếu
tố khác tác động đến hình thức thể hiện thẩm quyền lập hiến trong tương
lai cần tìm hiểu và vượt khỏi giới hạn của bài viết này.
***
Cùng một tác giả, sách đã xuất bản:
Quan Điểm Của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại
Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay 126, Nhà Xuất Bản Hồng Đức 2012
_______
Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
Tiếng Nói Dân Chủ là diễn đàn chia sẻ những quan điểm dân chủ từ nhiều nơi khác nhau. Ban Biên Tập không chịu trách nhiệm nội dung các bài viết đã được đăng tải, cũng như bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tiếng Nói Dân Chủ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét