Trong khi lãi suất ngân hàng đang vượt ngưỡng chịu đựng của
nhiều doanh nghiệp thì các kênh huy động vốn khác vẫn gặp phải nhiều rào cản và
bản thân DN Việt dường như chưa có sự chuẩn bị để vươn ra thị trường vốn quốc
tế. Các chuyên gia phân tích tại Hội nghị thường niên CFO do Cty Vietnam Report
và báo VietNamNet tổ chức ngày 10/6.
Vốn nước ngoài gặp khó khi vào Việt Nam
Giữa tháng 5/2011, thông tin Công ty CP Hoàng Anh Gia Lai
(HAG) huy động thành công 90 triệu trái phiếu quốc tế đã khiến giới đầu tư, tài
chính trong nước xôn xao. Số trái phiếu trên có thời hạn 5 năm, và sẽ trả trước
một phần sau 3 năm. Lãi suất được cố định ở mức 9,875%, Credit Suisse là tổ
chức bảo lãnh duy nhất.
Thành công của HAG trên thị trường nợ quốc tế có thể là một
"liều thuốc" kích thích các DN khác của Việt Nam chủ động tiếp cận
nguồn vốn này.
Ông Lê Hoàng Lân, Phó TGĐ Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn cho rằng
việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư nước ngoài là một quá trình gian nan, lâu dài và
bên cạnh việc chuẩn bị nâng ao hiệu quả hoạt động kinh doanh thì DN phải có sự
chuẩn bị về tâm lý.
"Chính các DN tạo cảm giác cho chính mình là vốn trên
thị trường còn thiếu. Thực chất, vốn trên thị trường quốc tế còn rất
nhiều," ông Lân chia sẻ.
Đồng thời, ông Lân nhấn mạnh rằng DN phải hiểu là chi phí
vốn có sự khác nhau tuỳ DN. Một công ty lớn và uy tín trên thị trường như HAG
cũng phải chấp nhận mức lãi suất gần 10% thì DN nhỏ hơn phải chịu mức chi phí
vốn cao hơn là chuyện bình thường.
Ông Lân cho rằng có thế chia thành 2 nhóm nhà đầu tư nước
ngoài. Nhóm thứ nhất là những nhà đầu tư mua trái phiếu mà không tham gia điều
hành. Nhóm còn lại là những người "ăn, ngủ" với DN, cùng tham gia Hội
đồng Quản trị và kỳ vọng sẽ cùng công ty phát triển. Với nhóm này, họ mong đợi
tính minh bạch từ phía DN.
Ông Quách Mạnh Hào, Phó TGĐ Công ty Chứng khoán Thăng Long
(TLS) cũng đồng tình rằng các nhà đầu tư nước ngoài quan ngại nhất là vấn đề
minh bạch của các công ty Việt Nam bởi họ muốn đầu tư dài hạn, có tầm nhìn 7-10
năm. Kiểu "gia đình trị" và những mập mờ trong quản trị, điều hành,
báo cáo của nhiều DN Việt Nam hiện nay khó tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
"Thật thà, cởi mở, hiểu doanh nghiệp đang ở tình trạng
nào và chia sẻ rõ ràng với nhà đầu tư để họ có cái nhìn toàn diện về doanh
nghiệp là cách tốt nhất để tạo niềm tin và quan hệ vững chắc với nhà đầu
tư," ông Tom Herron, GĐ Dịch vụ Tư vấn Giao dịch Tài chính của Công ty
Ernst & Young VN, phân tích. "Thực ra, không ai muốn chia sẻ phần xấu
của mình, nhưng đây lại là phần quan trọng trong hoạt động huy động vốn. Việc
doanh nghiệp giấu giếm những khó khăn, những điểm bất ổn của mình sẽ ảnh hưởng
đến mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư khi nhà đầu tư phát hiện ra sự
thật."
Ngoài quản trị công ty và tính minh bạch thì ông Matthew
Lourey, GĐ Dịch vụ Tư vấn, Công ty TNHH Grant Thorton Việt Nam còn chỉ ra thêm
nhiều rào cản cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào VN.
Thứ nhất là các công ty niêm yết quá sớm , quá dễ dàng khiến
có thể mất đi sự hấp dẫn đối với quỹ đầu tư. Đồng thời, các công ty đã niêm yết
bị hạn chế sở hữu của nước ngoài. Thứ hai là DN nợ quá nhiều mà các nhà đầu tư không
muốn nhìn thấy phần vốn của mình chuyển thẳng sang để thanh toán nợ vay.
"Nhà đầu tư tìm kiếm những công ty biết quản lý tốt
nguồn vốn, bao gồm cả việc duy trì một tỉ lệ nợ thích hợp tương ứng với vốn chủ
sở hữu," ông Matthew phân tích.
Ngoài ra, các yếu tố khác như cơ cấu phức tạp, lĩnh vực hạn
chế đầu tư nước ngoài và nhân lực cũng là các rào cản trong thu hút vốn từ nước
ngoài.
Còn bà Nguyễn Thuỳ Dương, đại diện công ty KPMG Việt Nam cho
rằng các nhà đầu tư nước ngoài có 3 quan ngại khi vào Việt Nam. Thứ nhất là rủi
ro về môi trường pháp lý, "sáng tỉnh dậy là có chính sách mới" khiến
DN lúng túng. Thứ hai, VN là thị trường "vào dễ, ra khó" vì DN Việt
luôn kỳ vọng nhà đầu tư nước ngoài chia sẻ, cảm thông trong mọi hoàn cảnh. Thứ
ba là vẫn thiếu chiến lược dài hạn và DN chưa tập trung hoạt động vì lợi ích cổ
đông mà vẫn chỉ tư lợi riêng.
Siết tín dụng, vẫn
trông chờ ngân hàng
Theo khảo sát tiến hành ngay tại Hội nghị thường niên CFO
ngày 10/5 công ty Vietnam Report và báo VietNamNet tổ chức thì có tới 32% doanh
nghiệp được hỏi cho biết vay vốn ngân hàng vẫn là nguồn huy động vốn chính
trong thời gian qua. Như vậy, trong ba kênh huy động vốn chính là thị trường
trái phiếu, thị trường chứng khoán và tín dụng thì DN vẫn ưu tiên "gõ cửa"
ngân hàng hơn, bất chấp lãi suất cao ngất ngưởng.
"Lãi suất ngân hàng cao và kỳ vọng lãi suất cao từ tiền
gửi đang là thách đố với vấn đề nguồn vốn cho các doanh nghiệp," ông Tom
Herron, GĐ Dịch vụ Tư vấn Giao dịch Tài chính của Công ty Ernst & Young VN
nhận định.
Ông Vũ Đình Phúc, Kế toán trưởng Cty CP Xuất nhập khẩu &
Hợp tác đầu tư Vilexim, nhận định lãi suất và tỉ giá hiện đang là vấn đề rất
lớn khiến tại thời điểm này, công ty ông chỉ "có lãi một chút chứ không
nhiều".
Ông Quách Mạnh Hào cho rằng siết tín dụng dẫn tới hai trường
hợp: DN không thể tiếp cận vốn và DN tốt cũng chủ động không tiếp cận nguồn vốn
từ ngân hàng. Đặc biệt, thị trường chứng khoán ở VN tăng trưởng những năm trước
là nhờ tín dụng nên tại thời điểm này, thị trường không thể phát triển được,
đồng nghĩa với việc một kênh huy động vốn quan trọng khó được phát huy.
Một hình thức huy động vốn được nhắc đến nhiều trong thời
gian gần đây là các hoạt động mua bán và sáp nhập DN (còn gọi là M&A).
"Thực tế có rất nhiều nhà đầu tư quan tâm đến M&A,
họ muốn mua cổ phiếu cổ phần ở nhiều doanh nghiệp. Nhiều nhà đầu tư đang trực
tiếp tham gia, tìm hiểu cơ hội dầu tư," ông Tom Herron nhận định.
"Nếu chính sách tài chính ổn định, trong quý IV năm nay và 2 quý đầu năm
2012 sẽ có nhiều thương vụ M&A."
Cũng theo ông Tom thì nửa năm tới là thời điểm khó khăn cho
trị trường vốn vì còn nhiều vấn đề cần ổn định. Nhiều nhà đầu tư muốn tham gia
vẫn phải chờ để có cái nhìn rõ ràng hơn trước khi vào đầu tư.
"Vậy nên thời điểm quý III và IV năm nay sẽ là thời
điểm cho các doanh nghiệp chuẩn bị nội bộ, tinh thần, tạo niềm tin để tiếp cận
nhà đầu tư thành công trong năm 2012," ông Tom nhận định.
Ông Võ Minh Tuấn, Phó TGĐ Ngân hàng TMCP Công thương
VietinBank (CTG):
- Hiện nay doanh nghiệp tiếp cận vốn từ ngân hàng rất khó
khăn. Theo ông doanh nghiệp cần làm gì để tháo gỡ khó khăn này?
Doanh nghiệp muốn tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng
cần xác định rõ họ cần vay vốn để làm gì. Dự án kinh doanh của họ phải chứng
minh được các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp phục vụ cho
đối tượng nào, thành phần, đơn vị cá nhân nào. Doanh nghiệp cũng cần chứng
minh được với ngân hàng họ có khả năng tổ chức quản lý sản xuất, điều hành
kinh doanh và vốn tự có theo tỷ lệ nhất định khoảng 30-40% trên tổng nhu cầu
vốn.
- Với tư cách là chuyên gia ngân hàng, ông đánh giá thế
nào về xu hướng lãi suất các tháng cuối năm?
Lãi suất các tháng cuối năm chắn chắn sẽ giảm. Chính phủ
và các Bộ, Ngành đang triển khai quyết liệt các biện pháp cụ thể cho kịp NQ
11/CP. Tháng 6/2011, các biện pháp được triển khai từ đầu năm sẽ
"ngấm" vào nền kinh tế, phát huy hiệu quả và cộng đồng doanh nghiệp
sẽ có thể đón chờ những tin vui như lạm phát và lãi suất giảm từ giờ đến cuối
năm.
- Với bối cảnh hiện tại ngân hàng có sự hỗ trợ như thế nào
để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn một cách hiệu quả?
Trước hết, trong bối cảnh lãi suất tăng cao, chính phủ đưa
ra nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ, ngân hàng cần tập trung vốn ưu tiên cho
các doanh nghiệp sản xuất, bao gồm cả những doanh nghiệp vay vốn lưu động để
phục vụ sản xuất hàng hóa ngay. Còn những doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác
như bất động sản thì không được ưu tiên vì tiền rót vào bất động sản phải mất
vài năm mới ra hàng hóa.
Các ngân hàng như VietinBank đang cố gắng tiếp xúc nhiều
nguồn vốn quốc tế, ODA để tăng tổng nguồn vốn huy động, nhờ đó dành nguồn vốn
có được, bao gồm nguồn vốn thương mại - nguồn vốn giá rẻ, dẫn vốn vào các
lĩnh vực chính phủ ưu tiên, cụ thể là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, các
ngành công nghiệp hỗ trợ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
(Hải Yến ghi)
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét