Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

Cả thế giới cải tổ ngân hàng thế nào?

Hệ thống ngân hàng thế giới sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đang tiến hành cải tổ sâu rộng như một yêu cầu tất yếu.
Cả thế giới cải tổ ngân hàng thế nào?
Cả thế giới cải tổ ngân hàng thế nào?
4 xu hướng phát triển

Xu hướng phát triển của hệ thống ngân hàng thế giới trong những năm đầu thế kỷ 20 có thể tổng kết thành 4 xu hướng chủ đạo là:

- Phát triển hoạt động NHTM cung cấp các dịch vụ truyền thống. Việc phát triển cung cấp các dịch vụ truyền thống theo hướng xác định rõ định hướng phát triển đối với từng nhóm dịch vụ ngân hàng, trong đó tính liên kết giữa dịch vụ, kể cả giữa các dịch vụ ngân hàng và giữa dịch vụ ngân hàng với dịch vụ tài chính phi ngân hàng rất được chú trọng, nhằm tối ưu hóa năng lực cung ứng dịch vụ của các ngân hàng và tạo ra chuỗi dịch vụ tài chính hoàn chỉnh cho nền kinh tế.

- Phát triển hoạt động ngân hàng đầu tư bao gồm các dịch vụ từ chứng khoán hóa tài sản, thực hiện các thương vụ mua lại, sáp nhập và cơ cấu lại công ty thông qua việc bao tiêu, bảo lãnh phát hành, sắp xếp CPH các công ty, chứng khoán hóa các khoản nợ.

- Phát triển mô hình ngân hàng đa năng. Ưu điểm lớn nhất của mô hình ngân hàng đầu tư là “khả năng bù trừ rủi ro” và “mở rộng cơ hội kinh doanh.” Một ngân hàng đầu tư có thể phân bổ chi phí vào nhiều đơn vị kinh doanh chiến lược và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn nhờ vào việc cung cấp một tập hợp đầy đủ các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Việc đa dạng hoá các hoạt động tới lượt nó sẽ giúp giảm thiểu rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng lớn thường có xu hướng hoạt động như những ngân hàng đa năng, trong khi một số tổ chức nhỏ hơn lại tập trung vào việc phát triển thành những NHTM chuyên biệt hoặc ngân hàng đầu tư.

- Phát triển hoạt động ngân hàng xuyên biên giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc bùng nổ hoạt động ngân hàng cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực này đã làm dấy lên nhu cầu tất yếu của việc phát triển hoạt động ngân hàng xuyên biên giới thông qua các hình thức như hợp tác, mua lại, sáp nhập và hiện diện thương mại.

Trước những xu hướng phát triển đó đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ bao gồm cải cách toàn diện khuôn khổ thể chế, tăng cường năng lực điều hành chính sách và giám sát hệ thống ngân hàng của NHTW, tăng cường năng lực hoạt động, năng lực tài chính và quản trị rủi ro của các NHTM, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng. Nhưng sự phát triển của các nhân tố trên chưa theo kịp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn vừa qua. Đặc biệt là sự phát triển nóng của các công cụ, sản phẩm phái sinh mới đã vượt qua những tính toán thông thường và tiềm ẩn rủi ro đổ vỡ khi không được quản lý chặt chẽ.

3 nội dung cải tổ

Trong khi các xu hướng phát triển đó là tất yếu và tiếp diễn trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ những yêu cầu của nền kinh tế, cải tổ hệ thống ngân hàng đã được tiến hành ở hầu hết các nước, thậm chí là với nỗ lực của các nhóm nước, tập trung vào 3 nội dung chính sau:

Một là, sửa đổi bổ sung các quy định tài chính theo hướng nâng cao vai trò của các cơ quan giám sát đối với hoạt động ngân hàng và giám sát chặt chẽ các hoạt động phái sinh. Tại Hội nghị G20 tổ chức ở London (Anh) ngày 2/4/2009, các nhà lãnh đạo các nước G20 đã thống nhất cho rằng, trước mắt cần phải: (i) Quản lý và giám sát chặt chẽ các tổ chức tài chính, thiết lập những quy tắc mới nhằm giám sát các quỹ đầu cơ (hedge funds), kiểm soát các công ty xếp hạng tín dụng để tránh những trường hợp mâu thuẫn quyền lợi hay thiên vị, có sự móc ngoặc giữa cơ quan đánh giá và giới đầu tư; (ii) Tăng cường các quy định, quy chế quốc tế đối với các ngân hàng và các định chế tài chính khác, buộc các ngân hàng giữ nhiều vốn hơn để đề phòng khả năng tái diễn thua lỗ, giám sát tiền lương, tiền thưởng, hoàn thiện các tiêu chuẩn kế toán quốc tế, trong đó có việc trích lập dự phòng và đánh giá rủi ro, tiêu chuẩn hóa các sản phẩm phái sinh; (iii) Các ngân hàng từ thương mại đến đầu tư sẽ bị thanh tra chặt chẽ hơn nhằm phát hiện sớm, phòng ngừa các hoạt động tín dụng, đầu tư chứa đựng quá nhiều rủi ro, minh bạch hóa các hoạt động kinh doanh, chống che giấu nghiệp vụ hay lý lịch thân chủ; (iv) Đưa ra quy định mới và chế tài nghiêm ngặt đối với các nước có chính sách thuế thông thoáng có thái độ bất hợp tác trong việc giám sát tài chính quốc tế.

Hai là, nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro và hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng chủ động khởi xướng và triển khai các biện pháp quản lý rủi ro theo những định hướng của mình, chứ không chỉ quản lý rủi ro theo kiểu tuân thủ các quy định như thường lệ. Bên cạnh đó, phương pháp quản lý tài sản nợ còn được triển khai để đánh giá chính xác hơn tài sản do các tổ chức tín dụng nắm giữ nhằm ngăn chặn lặp lại thất bại trong việc chứng khoán hóa các khoản nợ dưới chuẩn như nhiều nước phương Tây đã gặp. NHTW Ấn Độ, Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản cũng đã đưa ra những hướng dẫn để các ngân hàng tuân theo những nguyên tắc quan trọng nhằm đẩy mạnh việc quản lý tài sản một cách chặt chẽ.

Hiệu quả hoạt động vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu đối với các tổ chức tín dụng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Yêu cầu này liên quan đến một số vấn đề như quản lý chi phí hoạt động, giảm bớt các thủ tục và rút ngắn thời gian xử lý giao dịch. Việc củng cố tích hợp các giải pháp công nghệ theo một nền tảng chung là yếu tố quan trọng đem lại hiệu quả trong hoạt động.

Ba là, tái cơ cấu vốn và đòn bẩy tài chính. Đòn bẩy tài chính được coi là một trong những nguyên nhân chính của hầu hết các cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây, trong đó có cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Tại Mỹ, theo quy định, ở các NHTM, tỷ lệ đòn bẩy thường bị khống chế ở mức 12 lần, nhưng ở các ngân hàng đầu tư, tỷ lệ này thường trên 20 lần. Theo một số tính toán, đầu năm 2008, 5 “đại gia” phố Wall (Goldman Sachs, Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bear Stearns và Morgan Stanley) đều có tỷ lệ đòn bẩy tài chính xấp xỉ hoặc hơn 30 lần. Chính vì vậy, không ngạc nhiên khi 2 “đại gia” bất động sản Freddie Mac và Fannie Mae với đòn bẩy tài chính hơn 60 lần là những nạn nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng.

Trong thời gian tới, hệ thống ngân hàng cần có sự cơ cấu lại đòn bẩy tài chính để nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động ở một số khía cạnh: hạn chế tối đa việc sử dụng đòn bẩy vào các tài sản không có tính thanh khoản, đưa ra những quy định rõ ràng về tỷ lệ đòn bẩy cần khống chế, các cơ chế kiểm soát việc sử dụng đòn bẩy tài chính cần được tuân thủ, các nguyên tắc quản trị ngân hàng hiện đại cần được áp dụng triệt để.

Nguyễn Thùy Linh, Viện Chiến lược Ngân hàng - NHNN

0 nhận xét:

Đăng nhận xét