Ngược dòng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và Hegel.
Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012
Tự do là gì?
06:51
Hoàng Phong Nhã
No comments
Quốc Thanh
Tự
do không phải là thuật ngữ xa lạ, càng không phải một phát hiện bởi nó
gắn liền với con người như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát
triển. Tuy nhiên, đối với con người, tự do vẫn phần nào bí ẩn; chúng ta,
dường như, chưa nhận thức trọn vẹn về nó, càng chưa biết khai thác và
sử dụng nó như một công nghệ phát triển.
Thời kỳ Khai sáng đã đánh dấu một bước
ngoặt không chỉ trong lịch sử mà còn trong nhận thức của con người. Các
học giả của thời kỳ ấy không phải những người đầu tiên bàn về tự do
nhưng họ là những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận
thức mới về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Phương
Tây đã đón nhận những đóng góp ấy và là những người đầu tiên được nếm vị
ngọt của tự do và hưởng thụ những thành quả của nó.
Tuy nhiên, ở một số vùng kém phát triển,
con người vẫn mơ hồ trước tự do và dừng lại ở việc nhận thức nó như một
công cụ thỏa mãn các đòi hỏi mang tính bản năng. Vậy đâu là căn nguyên
của hiện tượng này và phải chăng, có mối liên hệ giữa tình trạng kém
phát triển với trạng thái thiếu hoặc không có tự do? Bài viết “Biện
chứng của tự do” sẽ góp phần trả lời câu hỏi ấy.TỰ DO NHƯ MỘT PHẠM TRÙ TRIẾT HỌC
Những quan niệm về tự do
Ngược dòng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và Hegel.
Ngược dòng lịch sử, có thể thấy các học giả phương Tây đã sớm đưa ra một số định nghĩa về tự do. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra hai cách hiểu về tự do phổ biến nhất của Locke và Hegel.
Tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào (Locke)
Đây là định nghĩa nguyên thủy nhất về tự
do và cũng từng được khá nhiều người tán đồng. Tuy nhiên, định nghĩa này
có những hạn chế nhất định, thể hiện ở chỗ nếu tự do chỉ thuần túy là
khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mình mong muốn mà không gặp
bất kỳ cản trở nào thì sẽ có rất nhiều người nhân danh tự do để thỏa
mãn những mong muốn hay tham vọng cá nhân của mình, phá hoại trật tự xã
hội, và do đó, làm phương hại đến sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như
cả cộng đồng.
Tự do là cái tất yếu được nhận thức (Hegel)
Nhận thức được sự hạn chế của định nghĩa
về tự do của Locke, Hegel đã xây dựng một định nghĩa mới về tự do. Đó
là, tự do là cái tất yếu được nhận thức. Câu hỏi đặt ra là, vậy cái tất
yếu là gì? Ở đây, cái tất yếu được hiểu là các quy luật tự nhiên. Do
vậy, có thể viết lại định nghĩa về tự do của Hegel như sau: tự do là các
quy luật tự nhiên được nhận thức. Hegel cho rằng con người càng nhận
thức một cách chính xác, rõ ràng và toàn diện về cái tất yếu bao nhiêu
thì càng có tự do bấy nhiêu.
Định nghĩa này đã phát triển hơn một bước
so với định nghĩa của Locke, tức đã đưa tự do từ một trạng thái bản
năng đến tự do trong mối tương quan với cái tất yếu. Như vậy, ranh giới
của trạng thái tự do và trạng thái không có tự do chính là cột mốc nhận
thức được cái tất yếu. Nhận thức được cái tất yếu, con người sẽ không
nhân danh tự do để thực hiện những hành vi kìm hãm sự phát triển của bản
thân anh ta và cả cộng đồng. Chính lúc ấy, tự do sẽ là điều kiện tinh
thần giúp con người tiếp cận với sự phát triển thực thụ và toàn diện.
Trong khi ở phương Tây, các học giả bàn
về tự do một cách sôi nổi và đầy cảm hứng thì ở phương Đông, tự do chưa
phải là một khái niệm hoàn chỉnh mà mới chỉ được hiểu theo nghĩa tự do
bản năng, hay như cái cho phép, hệ quả là, cái gì không cho phép nghĩa
là không tự do. Chẳng hạn, giải thoát là một trong những phạm trù triết
học tôn giáp Ấn Độ để chỉ trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con
người thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ ải
của cuộc đời. Có thể nói, triết học Ấn Độ chỉ xoay quanh giải thoát con
người trong đời sống tinh thần (gần như tiệm cận trạng thái siêu thoát)
thay vì đưa ra các tư tưởng phát triển con người bằng cách giải phóng
con người khỏi những ràng buộc. Triết học Trung Hoa cổ đại từng đề xướng
tư tưởng “vô vị” nghĩa là tự do tuyệt đối không bị ràng buộc bởi bất cứ
ý tưởng dục vọng, đam mê, ham muốn nào; tức sống, tồn tại theo bản tính
tự nhiên, không cần sự tham gia có tính chất xã hội.
Tự do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi
Tự
do được hiểu một cách rất khác nhau giữa các dân tộc và thậm chí, giữa
các thành viên của dân tộc. Thực ra, người ta chỉ nhận ra giá trị của tự
do khi đã bị mất tự do, hay nói cách khác, người ta chỉ cảm thấy giá
trị của tự do khi vướng phải những giới hạn của nó bởi chính những giới
hạn ấy sẽ đánh thức con người, giúp con người thoát ra khỏi trạng thái
thụ động đón nhận một phần của tự do như sự nhân nhượng của bề trên đối
với kẻ dưới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, tự do không phải là một
loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ thể chế nào mà nó là bản chất tự
nhiên của con người, tức là nó gắn liền với con người ngay từ khi sinh
ra. Có thể nói, tự do là không gian sống của mỗi cá nhân, ai cũng có thể
khai thác không gian ấy, thậm chí mở rộng nó, nếu hiểu được bản chất và
giá trị của tự do.
Tuy nhiên, trước khi bàn về phép biện
chứng của tự do, chúng ta cần phải xây dựng một định nghĩa về tự do.
Chúng tôi cho rằng, tự do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ
và hành vi, hệ quả là, bất cứ xã hội nào cho phép sự dịch chuyển song
song này diễn ra một cách thuận lợi trong một trật tự hài hòa và cân
đối, xã hội ấy sẽ đạt tới trạng thái tự do. Phép biện chứng của tự do
cần phải góp phần vào việc thay đổi nhận thức của con người về tự do,
trên cơ sở ấy hỗ trợ quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành
vi ở mỗi cá nhân cũng như cả cộng động. Đó chính là tiền đề của sự phát
triển.
TỰ DO VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
Tự do là một khái niệm phức tạp, đa chiều
và gồm có nhiều thành tố. Nó không phải là một cảm giác mặc dù nếu
thiếu cảm giác về tự do thì cũng không thể tạo thành khái niệm tự do.
Điều quan trọng nhất là khi nghiên cứu tự do là chúng ta phải phân tích
các thành tố tạo thành khái niệm tự do, vị trí và ảnh hưởng của từng
thành tố đối với đời sống. Trên cơ sở đó, con người sẽ nhận thức được
mình nên chuyển nhượng bộ phận nào của tự do, chuyển nhượng cho ai và
vào thời điểm nào để phần tự do mình cống hiến không trở nên vô nghĩa.
Tự do là một trong những điều kiện ban
đầu để hình thành hạnh phúc. Đồng thời, nó là nguyên liệu đầu vào của
đời sống con người, hạnh phúc chính là kết quả của việc chuyển hóa tự do
thành những sức mạnh nhất định và toàn bộ quá trình chuyển hóa chính là
tiến trình phát triển. Vì vậy, có thể nói, phân tích tự do, hạnh phúc
và quá trình phát triển chính là phân tích quá trình vận động của tự do.
Điều quan trọng nhất là, trên cơ sở các
phân tích về tự do, chúng ta cần phải xác lập ranh giới giữa các loại
đối tượng, đó là loại đối tượng có năng lực sử dụng và khai thác tự do
và loại đối tượng không có năng lực khai thác và sử dụng tự do, bởi tự
do chỉ dành cho những người có trình độ nhận thức nhất định. Mặc dù tự
do là sở hữu tự nhiên của con người, nhưng không phải tất cả mọi người
đều có năng lực và xứng đáng được khai thác thứ tài sản vô giá ấy. Xác
lập ranh giới giữa những loại đối tượng khác nhau sẽ giảm bớt những rủi
ro có thể xảy ra trong quá trình xây dựng tự do như một công nghệ phát
triển. Chỉ có như thế, tự do mới trở thành điểm xuất phát của mọi quá
trình phát triển cả về mặt nhận thức lẫn hành vi.
Mối quan hệ giữa các thành tố của tự do
Có thể hiểu, tự do gồm có hai thành tố
quan trọng nhất là tự do nhận thức và tự do hành động trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống. Vậy, đâu là mối liên hệ giữa hai thành tố này?
Tôi cho rằng tự do nhận thức là nền tảng
để con người đi tới tự do hành động. Không có tự do nhận thức tức là
không có tự do tinh thần, con người sẽ không thể có tự do hành động bởi
luôn vấp phải các rào cản về mặt nhận thức, và do đó, con người sẽ cảm
thấy bị hạn chế, bị mất tự do ngay từ trong ý nghĩ chứ không chỉ trong
hành vi của mình. Điều này hoàn toàn trái ngược với tinh thần về tự do
mà chúng tôi đã đưa ra trong phần trên, đó là tự do là sự dịch chuyển
song song của ý nghĩ và hành vi. Phải hiểu rằng, tự do nhận thức sẽ tạo
điều kiện cho sự phát triển và dịch chuyển của ý nghĩ, trong khi đó, tự
do hành động sẽ tạo điều kiện cho sự dịch chuyển của hành vi song song
và tương ứng với sự dịch chuyển của ý nghĩ.
Mặt khác, tự do nhận thức chính là điều
kiện tiên quyết để xây dựng các mô-đun nhận thức, biến không gian nhận
thức của mỗi cá nhân và cộng đồng thành một vườn ươm các mô-đun tư duy
của con người. Khu vườn đó chỉ đa dạng và phong phú chừng nào tự do hạnh
phúc được công nhận như một trong những nguyên lý căn bản nhất. Sự
phong phú và đa dạng về mặt nhận thức sẽ dẫn tới sự phong phú và đa dạng
của hành động. Điều này sẽ tạo ra không gian đa chiều trong các lĩnh
vực kinh tế, chính trị và văn hóa – điều kiện cần và đủ để mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng, mỗi nhà nước, mỗi thể chế duy trì và phát triển sự đúng
đắn của mình. Mặt khác, đến lượt mình, tự do hành động lại tạo điều kiện
cho việc mở rộng không gian nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, bởi
thông qua tự do hành động, con người sẽ có điều kiện làm phong phú kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm văn hóa của mình, và do đó, có thể xúc tiến
những cái mới về nhận thức và tự điều chỉnh nhận thức của mình. Đây
chính là mối liên hệ hữu cơ giữa hai thành tố cơ bản nhất của tự do.
Mối quan hệ giữa tự do và phát triển
Chúng
ta đã trăn trở rất nhiều trước vấn đề tại sao trong lịch sử cận đại và
hiện đại phương Đông lại chậm phát triển hơn phương Tây. Để trả lời cho
câu hỏi ấy, chúng ta đã tốn rất nhiều công sức và nhiệt huyết mà vẫn
chưa tìm ra lời giải thích xác đáng. Phần lớn tài nguyên của nhân loại
nằm ở phương Đông, nhưng phương Tây là cả chiến thắng trong hầu hết các
cuộc chạy đua đến sự phát triển. Trong khi đó, ngụy biện với chính mình,
phương Đông đắm chìm và tự cổ vũ mình trong những giá trị Châu Á đến
khi nhận ra những giá trị ấy cũng chỉ là một dạng tài nguyên chứ không
thể và không phải là sự phát triển thực. Vậy đâu là căn nguyên và lời
giải của hiện tượng này?
Các phân tích về tự do cho thấy rằng
chính sự thiếu tự do ở phương Đông là nguyên nhân sâu xa nhất gây nên
tình trạng chậm phát triển, và do đó, nhận thức lại tự do, ý nghĩa và
vai trò của nó đối với đời sống cũng như công nhận tự do như quyền và sở
hữu tự nhiên của con người chính là giải pháp triệt để để phương Đông
tiếp cận sự phát triển.
Chúng tôi tán đồng luận điểm của Amartya
Sen, một trong những nhà kinh tế học đoạt giải Nobel, khi ông cho rằng
“Phát triển như là tự do”. Sở dĩ có thể nói như vậy là bởi cấu trúc tự
do, nói chung, gồm có tự do kinh tế, tự do chính trị và tự do tinh thần.
Tự do kinh tế chính là nguyên khí của nền kinh tế thị trường – giải
pháp duy nhất để phát triển kinh tế. Tự do chính trị chính là điều kiện
tiên quyết để xây dựng một nhà nước dân chủ – phương thức quản lý ưu
việt cho phép phát triển con người một cách toàn diện. Tự do tinh thần,
tức không lệ thuộc vào nhận thức của người khác, chính là nguyên khí của
khoa học nhận thức, nó chính là yếu tố quan trọng nhất tạo ra sự sáng
tạo và sự đa dạng của khoa học nhận thức, tức sự đa dạng về mặt tinh
thần.
Mối quan hệ giữa tự do và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất cũng là một khía cạnh quan trọng trong các
phân tích về tự do. Cần lưu ý rằng trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất không chỉ thể hiện ở sự hiện đại của tư liệu sản xuất mà quan
trọng hơn là ở sự tiến bộ của nhận thức. Tự do đánh thức các năng lực
phát triển, đó là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh
rằng, sự phát triển của trình độ lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò
đáng kể vào việc mở rộng không gian tự do của con người. Nói cách khác,
lực lượng sản xuất phát triển đến đâu thì không gian tự do sẽ mở rộng
đến đó, và do đó, có thể kết luận giữa hai cặp phạm trù này luôn có một
sự dịch chuyển song song và tương ứng.
Phải khẳng định rằng tự do bao giờ cũng
là điểm xuất phát của sự phát triển và không thể có sự phát triển nào đi
trước tự do. Sự phân biệt rành mạch hai khái niệm tự do và bản lĩnh tự
do sẽ giúp nhà cầm quyền nhận ra nỗi sợ về sự mất ổn định do sự thiếu
kinh nghiệm tự do của người dân tạo ra là một nỗi sợ hoàn toàn vô lý bởi
kinh nghiệm tự do, hay bản lĩnh tự do chỉ hình thành khi người dân có
tự do và có quyền sử dụng và khai thác nó trong đời sống của mình. Đó
cũng chính là một trong những ý nghĩa căn bản của các phân tích về tự
do.
Bên cạnh đó, tự do còn là hạt nhân của
mọi cuộc cải cách, trong đó có bốn cuộc cải cách quan trọng nhất, đó là
cải cách chính trị, cải cách kinh tế, cải cách văn hóa và cải cách giáo
dục. Tự do kinh tế đi trước để con người nếm được các thành quả sự phát
triển. Chừng nào cảm nhận được vị ngọt, tức các thành quả thu được từ tự
do kinh tế, con người sẽ nhận thức được giá trị của tự do chính trị. Tự
do chính trị chính là nhu cầu đòi hỏi thể chế khẳng định các quyền tự
do. Tuy nhiên, con người còn là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nói
cách khác, con người chính là sản phẩm của văn hóa. Do vậy, nếu không có
tự do văn hóa, con người sẽ không thể ra khỏi quá khứ và không tìm được
yếu tố bảo trợ tinh thần cho tự do kinh tế và tự do chính trị. Mặt
khác, thiếu yếu tố bảo trợ tinh thần là tự do văn hóa, tự do kinh tế và
tự chính trị sẽ tạo ra trạng thái phát triển không ổn định vì luôn bị
níu kéo bởi sự lạc hậu về mặt văn hóa. Cải cách giáo dục là tiền đề của
việc xây dựng một lực lượng tiên tiến hùng hậu của xã hội, đủ năng lực
để duy trì và nâng cao chất lượng của sự phát triển. Tựu trung lại, bốn
cuộc cải cách này với hạt nhân là tự do đều nhằm tiếp cận trạng thái
phát triển bền vững. Phát triển bền vững không thuần túy là sự phát
triển ổn định và liên tục mà còn là sự ổn định của các nguồn phát triển.
Nếu cải cách kinh tế tạo ra được sức mạnh hữu hình của sự phát triển
thì tự do về chính trị và tự do về văn hóa sẽ tạo ra tính ổn định của
các nguồn của sự phát triển, hay nói cách khác chính là tạo ra phạm trù
phát triển bền vững. Đó chính là một trong những điểm mấu chốt quan hệ
giữa tự do và phát triển.
Mối quan hệ giữa tự do và dân chủ
Ở phương Tây, người ta cho rằng, tự do là
một quyền tự nhiên, là không gian vốn có của mỗi con người, và do đó,
Nhà nước dân chủ là kết quả của sự nhượng bớt một phần tự do cá nhân cho
chính phủ để nhà nước có vốn liếng điều hành xã hội. Từ đó, có thể
khẳng định, sự tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ
như một hình thức góp vốn chính là bản chất khế ước xã hội. Điều hành
đất nước bằng pháp luật, hay các khế ước xã hội chính là điểm ưu việt
của phương thức quản lý theo mô hình dân chủ.
Russeau viết “Với khế ước xã hội, con
người mất đi cái tự do thiên nhiên và hạn chế cái quyền được làm những
điều muốn làm mà làm được; nhưng mặt khác, con người thu lại quyền tự do
dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có”. Cũng trong phần này,
ông viết “làm theo kích thích của dục vọng là nô lệ, mà tuân theo các
quy tắc mà mình đặt ra là tự do”. Như vậy, bản chất của tự do là gì và
đâu là giá trị cao quý của nó? Có thể khẳng định ngay rằng, bản chất của
tự do chính là việc tuân theo các quy tắc của nhận thức của mình chứ
không lệ thuộc vào nhận thức của người khác. Do đó, giá trị cao quý của
tự do chính là đảm bảo và trao trả một cách nguyên vẹn không gian sống
của con người và tạo điều kiện cho hành vi của mỗi con người phản ánh
một cách trung thực gương mặt của nhận thức của mình. Câu hỏi được đặt
ra: Hình thái nhà nước nào đảm bảo được tính ổn định hay giá trị bền
vững của tự do công dân? Lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại
đã chứng minh rằng chế độ chính trị tiên tiến có thể đảm bảo quyền tự do
công dân chính là chế độ dân chủ. Khi bàn đến tự do, người ta mới nói
dân chủ là tất yếu, tức là xã hội không thể tiếp tục duy trì tình trạng
độc tài.
Nền dân chủ được hình thành trên cơ sở
các quyền tự do được thể chế hóa, nói cách khác, tự do chính là nguyên
liệu quan trọng nhất để xây dựng nền dân chủ. Có thể nói, sở dĩ nền dân
chủ ngày càng phát triển và chứng minh vai trò của nó trong việc xúc
tiến sự phát triển và tiến bộ xã hội là bởi nó đã nhận thức đúng đắn về
tự do thể hiện ở việc xây dựng các khế ước xã hội. Khế ước xã hội không
phải là những mệnh lệnh mà là những thỏa thuận của con người trên cơ sở
nhận thức về tự do và tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân để xác
lập trạng thái phát triển hài hòa và cân đối.
Trên cơ sở đó, cần phải đi đến nhận thức
rằng, không có một môi trường nào có thể hỗ trợ sự phát triển của con
người tích cực bằng một môi trường đảm bảo tự do cá nhân thông qua sự tự
nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân, tức một nhà nước dân chủ.
Một
khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa tự do và dân chủ là, tự do là thứ
tài sản tự nhiên vô giá nhất của con người và xã hội được cấu thành từ
sự góp vốn của con người, ở đây, vốn được hiểu là một phần tự do cá
nhân. Vì vậy, bản chất của nhà nước là một khế ước, mà ở đó, con người
tự nguyện góp một phần tự do. Gia đình là một đơn vị xã hội mà mỗi
người, ngoài quan hệ huyết thống, còn tự nguyện góp một phần tự do. Do
đó, chế độ độc tài là chế độ chiếm đoạt vốn liếng tự nhiên của đời sống
con người tự do. Đó chính là bản chất của sự tham nhũng tinh thần, tức
chiếm đoạt tự do của người khác thay vì sử dụng sự tự nguyện chuyển
nhượng tự do của họ một cách minh bạch. Đó cũng chính là hạn chế của các
nhà nước phi dân chủ. Các phân tích về tự do phải chỉ ra ai chiếm dụng
vốn liếng của con người và phải giúp con người đi tới nhận thức rất quan
trọng, đó là trạng thái không có tự do của nhiều người sẽ tạo ra quyền
tự do tuyệt đối của một hay một số con người. Luận điểm này đã được
khẳng định từ thời kỳ Khai sáng – thời kỳ của những tên tuổi vĩ đại như
Voltaire, Didro, Montesquieu hay Russeau.
Hết thảy con người khi sinh ra đều bình
đẳng, và được tự nhiên ban cho những quyền không thể phủ nhận, trong đó
có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những
quyền này, các nhà nước được hình thành trên cơ sở sự đồng thuận của các
thành viên trong một xã hội. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tự do là một
khái niệm rất nhân văn, nó gắn liền với cái Tự nhiên (nói chung) và con
người (nói riêng).
Tự do còn là một phạm trù văn hóa, nói
khác đi, văn hóa chính là không gian tinh thần của tự do. Ý nghĩa và
hành vi của con người “lội bộ” trong một cánh đồng mênh mông các đối
tượng hình thành từ quá khứ, hay các ý niệm, khái niệm và nhận thức về
văn hóa. Do đó, chính văn hóa mới có khả năng điều chỉnh hành vi và ý
nghĩ của con người. Văn hóa điều chỉnh tự do cá nhân trở thành tự do
cộng đồng tức là nó xây dựng các khái niệm sơ khai của khế ước xã hội,
mọi khế ước xã hội đều xây dựng trên kinh nghiệm văn hóa chứ không phải
kinh nghiệm pháp lý.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét