Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013
Chủ quyền quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế...
20:14
Hoàng Phong Nhã
1 comment
Chủ quyền quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế và vấn đề chủ quyền
quốc gia của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (TRẦN
THĂNG LONG).
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 4 /2003
CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TRẦN THĂNG LONG
ThS. Giảng viên Khoa Luật Quốc tế trường ĐH Luật TP. HCM
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Các quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng vượt qua biên giới quốc gia và vươn tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong bối cảnh đó, mở cửa, hội nhập, tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế đối với mỗi quốc gia trở thành một đòi hỏi tất yếu. Một mặt, Việt Nam có cơ hội để phát triển kinh tế trong một môi trường pháp lý bình đẳng với một hệ thống luật lệ hoàn chỉnh, mặt khác, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Bài viết đề cập đến vấn đề chủ quyền quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế và những tác động, ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà cụ thể là tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế quốc tế.
I. CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Chủ quyền quốc gia và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay, quan điểm chung của các nước trên thế giới khẳng định toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế khách quan. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần là tiến hành các quan hệ giao dịch song phương mà phải bằng những hình thức cao hơn là hội nhập vào các tổ chức và liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến vấn đề xem xét lại khái niệm chủ quyền quốc gia. Về vấn đề này ở Việt Nam và các nước trên thế giới có những quan điểm khác nhau.
* Quan điểm hội nhập kinh tế trong toàn cầu hóa làm xói mòn chủ quyền quốc gia:
Có quan điểm cho rằng, toàn cầu hóa kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đối với chủ quyền quốc gia. Toàn cầu hóa đang làm lung lay cả những quan niệm truyền thống về nhà nước, vai trò chức năng của nhà nước và chủ quyền quốc gia, chủ quyền kinh tế của mỗi nước 1 và kết quả là dẫn đến sự tiêu vong của nhà nước – dân tộc (nation – state) truyền thống. Điều đó được lý giải ở việc nhìn nhận với sự phát triển ngày càng cao của xu thế toàn cầu hóa, tính độc lập của các quốc gia bị mất dần, nhiều quyền lực của nhà nước bị xói mòn và chuyển vào tay các thực thể khác, đồng thời nhiều vấn đề hiện vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các nhà nước đơn lẻ như vấn đề môi trường sinh thái, các luồng di chuyển vốn, các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia... Có quan điểm còn nêu ra vấn đề “Trong tương lai gần, các thể chế toàn cầu, các khối kinh tế, các công ty xuyên quốc gia sẽ phát triển mạnh mẽ và trong tương lai xa chúng sẽ quyết định các quan hệ kinh tế quốc tế” và “các công ty xuyên quốc gia dưới sự bảo trợ của WTO và OECD có khả năng đứng trên các chính phủ và trở thành một “chính phủ siêu cấp”, ít chịu ràng buộc và dần dần làm lu mờ chủ quyền của các quốc gia”2
* Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế là sự thực hiện chủ quyền quốc gia:
Có một số quan điểm lại nhìn nhận chủ quyền quốc gia trong toàn cầu hóa kinh tế một cách tích cực hơn. Quan điểm này cho rằng, những tác động của toàn cầu hóa đối với chủ quyền quốc gia là khách quan và không tránh khỏi. Do vậy, các quốc gia cần phải xem lại vấn đề chủ quyền quốc gia hay nói cách khác, san sẻ, hòa hợp chủ quyền với những quốc gia khác để cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan đến lợi ích của chính quốc gia mình. Điều đó cũng có nghĩa là quan điểm về chủ quyền đã thay đổi và việc thông qua những thiết chế, hình thức hợp tác quốc tế, cũng chính là sự thực hiện chủ quyền quốc gia.
Những người ủng hộ các quan điểm này lập luận, sự thay đổi, tác động đối với chủ quyền quốc gia thể hiện chủ yếu ở việc lựa chọn và quyết định các chính sách kinh tế – xã hội của quốc gia. Với sự chủ động hội nhập, các chính phủ không hề từ bỏ hoặc giảm bớt quyền lực nhà nước của mình, thậm chí về một số mặt quyền lực này, nhất là khả năng thực thi quyền lực, còn được củng cố và mở rộng hơn nhờ có sự hợp tác quốc tế và kết quả của “quá trình học hỏi” 3Quan điểm này được minh chứng thông qua mô hình liên minh Châu Âu (EU). Cho đến nay, các nước thành viên Liên minh Châu Âu (EU) đã chuyển hầu hết quyền định đoạt các chính sách về thuế quan, tài chính, tiền tệ cho Ủy ban Châu Âu và quan điểm của các thành viên Liên minh Châu Âu khi chấp nhận sửa đổi Hiến pháp và pháp luật của mình để phê chuẩn Hiệp ước Maasstricht đều cho rằng đó là sự chuyển giao chủ quyền một cách tự nguyện cho một thiết chế chung nhằm đem lại quyền lợi nhiều hơn cho chính mình.
* Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế góp phần củng cố chủ quyền quốc gia:
Có quan điểm đi xa hơn khi cho rằng, chính hội nhập, qua hội nhập mà củng cố được chủ quyền quốc gia. Cơ sở của lập luận này là trong thế giới ngày nay, không hội nhập thì sớm muộn sẽ lệ thuộc vào nền kinh tế nước lớn này hay nước lớn khác. Song khi đã hội nhập, trở thành thành viên của tổ chức quốc tế thì một mặt, có khả năng tranh thủ được các lợi thế của sự hợp tác; mặt khác có cơ hội đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vũng chủ quyền, góp phần vào cải cách các quy định của luật chơi hiện hành 4
Theo quan điểm của tác giả, hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và việc hội nhập khu vực, thế giới là một nhu cầu khách quan của các quốc gia. Hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự thực hiện chủ quyền quốc gia. Do đó, với việc hội nhập kinh tế mà biểu hiện đặc trưng của nó là gia nhập vào các tổ chức, liên kết kinh tế có những tác động tích cực đối với chủ quyền quốc gia, nói một cách khác, chủ quyền quốc gia có thể được củng cố và đảm bảo hơn. Đặc biệt điều này hết sức có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển.
Thứ nhất, tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép quốc gia sử dụng những cơ sở pháp lý cần thiết như chế độ tối huệ quốc (MFN); đối xử quốc gia (NT); cơ chế giải quyết tranh chấp... để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Việc Vòng đàm phán Urugoay đạt được thành công trong việc thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp mới của WTO đã cho phép các mối quan hệ trong thương mại quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế rất nhiều những hành động đơn phương, độc đoán của những cường quốc về thương mại, cho phép nhanh chóng tháo gỡ những bế tắc vốn thường xảy ra và khó giải quyết trước đây.
Mới đây, lần đầu tiên một nước nghèo có thể áp dụng trừng phạt đối với nước giàu. Đó là việc WTO cho phép Ecuador áp đặt lệnh trừng phạt hàng năm trị giá 201,6 triệu USD đối với EU do việc phân biệt đối xử trong chính sách nhập khẩu chuối. Sự kiện này là sự khích lệ đối với các nước đang phát triển trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình trước các nước phát triển 5 Có thể thấy rằng, các quan hệ đa phương không chỉ giới hạn ở các quan hệ lợi ích kinh tế, thương mại trực tiếp, cụ thể mà còn có các lợi ích khác như liên kết các nước đang phát triển cùng nhau đấu tranh bảo vệ lợi ích chung trên các diễn đàn quốc tế, chống lại việc áp đặt không công bằng, không bình đẳng của các nước phát triển 6.
Thứ hai, tất cả các tổ chức và liên kết kinh tế quốc tế đều có những ưu đãi và miễn giảm dành cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Những ưu đãi và miễn giảm đó thể hiện ở lịch trình thực hiện cam kết kéo dài hơn, mức độ thực hiện cam kết thấp hơn... Do đó các nước đang phát triển có cơ hội chuẩn bị mọi mặt, xây dựng, củng cố các ngành kinh tế mũi nhọn, có được những chuẩn bị cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ thành viên đầy đủ sau khi hết thời hạn ưu đãi. Chẳng hạn, theo Hiệp định GATT, các nước đang phát triển có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu được coi là hợp pháp nhằm bảo vệ một ngành công nghiệp nội địa bị tổn thương hữu hình do việc nhập khẩu đó, hoặc thậm chí nếu có một sự đe dọa gây tổn thương hữu hình.
Thứ ba, tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế, các quốc gia cần điều chỉnh lại cơ chế kinh tế, sắp xếp, bố trí lại ngành, lĩnh vực kinh tế, sắp xếp, đẩy mạnh các cải cách hành chính, chống tiêu cực, tham nhũng... qua đó tăng cường vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Hiện nay, WTO là một tổ chức với những quy định và “luật chơi” chặt chẽ, kiểm soát thương mại toàn cầu. Các Hiệp định của WTO đòi hỏi không ngừng nâng cao tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc tế. Các nước thành viên WTO, nhất là các nước đang phát triển qua việc xây dựng và tăng cường các chính sách và thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình sẽ tăng cường sự ổn định trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng xuất lao động của toàn bộ nền kinh tế.
2. Vấn đề chủ quyền của các quốc gia khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế
Phần này sẽ chỉ tập trung phân tích những ảnh hưởng, tác động đối với chủ quyền quốc gia đối với các thành viên liên kết kinh tế và tổ chức kinh tế quốc tế. Những ảnh hưởng, tác động đó có thể thể hiện ở những nội dung sau:
Nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của thiết chế. Với tư cách thành viên của các tổ chức, liên kết kinh tế (gọi chung là các thiết chế kinh tế quốc tế), các quốc gia trước hết phải tuân thủ những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế kinh tế đó. Ví dụ như thủ tục thông qua các quyết định, áp dụng trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp phải tuân thủ những quyết định do các cơ quan đó thông qua; chấp nhận sự tài phán trong những lĩnh vực mà các cơ quan đó có thẩm quyền... Các thiết chế kinh tế quốc tế đều có những cơ chế để giám sát quá trình thực hiện và tuân thủ những quy định của mình. Các quốc gia thành viên một mặt phải tuân thủ những quy định của thể chế, đồng thời phải chịu sự giám sát, theo dõi việc thực thi những quy định đó thông qua những cơ chế đặc biệt. Chẳng hạn, WTO có cơ chế duyệt chính sách (TPRM) nhằm đảm bảo các thành viên thực thi đúng những nguyên tắc và quy định của WTO. Đồng thời các Hội đồng chuyên biệt về thương mại, dịch vụ và sở hữu trí tuệ sẽ theo dõi việc thực thi các cam kết trong khuôn khổ các Hiệp định GATT, GATS và TRIMS và có báo cáo lên Đại hội đồng WTO về mọi vấn đề liên quan đến việc thực thi các Hiệp định nói trên 7
Trong hoạch định chính sách kinh tế. Các quốc gia sẽ không còn giữ quyền tối cao trong việc hoạch định các chính sách kinh tế, thương mại của mình như trước đây mà phải căn cứ vào chính sách kinh tế chung của những thiết chế kinh tế mà mình là thành viên. Các quốc gia sẽ không thể tự mình quyết định các vấn đề về chính sách kinh tế của quốc gia mà phải căn cứ vào các chính sách kinh tế của thiết chế mà mình tham gia. Mỗi quốc gia có quyền tự do quyết định các chính sách cụ thể, nhưng rõ ràng không thể tuyệt đối, không giới hạn như trước đây. Điều này dẫn đến chủ quyền quốc gia bị hạn chế trong việc hoạch định chính sách, quyết định cơ chế kinh tế thể hiện trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp của quốc gia – những yếu tố của chủ quyền đối nội. Các quốc gia cũng bắt buộc phải xây dựng lịch trình hội nhập tích cực để có thể tham gia vào các thiết chế kinh tế đó. Lịch trình mà các quốc gia đưa ra không những phải căn cứ vào điều kiện thực tế của quốc gia, quan điểm chính sách và định hướng của quốc gia mình mà phải căn cứ vào khả năng thực hiện các cam kết, những thỏa thuận đạt được trong việc thực hiện các cam kết với các thành viên khác và những điều kiện cụ thể áp dụng cho từng loại thành viên...
Trong điều chỉnh pháp luật quốc gia. Điều chỉnh pháp luật là một nghĩa vụ mà tất cả các quốc gia thành viên phải thực hiện nhằm tạo ra sự hòa hợp giữa pháp luật trong nước với hệ thống những luật lệ, quy định của các thiết chế kinh tế đó. Các thiết chế kinh tế đều yêu cầu các quốc gia thành viên phải có những điều chỉnh thích hợp các quy định, luật lệ quốc gia cho phù hợp, tiến hành những cải cách, đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới cách thức quản lý và điều hành nền kinh tế. Điều đó tác động trực tiếp đến việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mỗi nhà nước vốn thể hiện khá rõ nét chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực kinh tế. WTO, APEC đều có yêu cầu các quốc gia thành viên phải là những quốc gia có nền kinh tế thị trường và bắt buộc phải tiến hành những cải cách về kinh tế để chứng minh là một nền kinh tế thị trường. Trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức Thương mại thế giới, các quốc gia đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc... phải trả lời hàng ngàn câu hỏi liên quan đến cơ chế kinh tế, hệ thống pháp lý và những đảm bảo cho việc tuân thủ các luật lệ và quy định của WTO, đồng thời các thành viên mới phải chứng minh việc đã tiến hành những thay đổi cần thiết về hệ thống pháp luật và chính sách thương mại phù hợp với những chuẩn mực của WTO. Từ đó, nghĩa vụ của các quốc gia là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chú trọng đến những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của các thiết chế, ví dụ sở hữu trí tuệ, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông và các biện pháp khắc phục rủi ro...
Các quốc gia tham gia vào các thiết chế kinh tế có nghĩa vụ từng bước mở cửa thị trường cho sự lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư ở những lĩnh vực tương đối nhạy cảm hoặc những lĩnh vực vốn trước đây hoàn toàn thuộc chủ quyền quốc gia như mua sắm công, nông nghiệp... Ví dụ, nông nghiệp đây là một lĩnh vực đã được chính phủ trợ cấp và bảo hộ ở mức cao độ thì những thay đổi đối với chính sách nông nghiệp do tác động của các chính sách kinh tế mà các thiết chế kinh tế đặt ra là một vấn đề hết sức đáng quan tâm, đặc biệt với chính sách về nông nghiệp trong khuôn khổ WTO.
Đồng thời, nghĩa vụ thành viên của các thiết chế kinh tế quốc tế bắt buộc các quốc gia phải tiến hành các cải cách. Trong đó cải cách hành chính và cải cách cơ chế điều hành với mục tiêu làm cho các chính sách và pháp luật trở nên minh bạch, rõ ràng hơn, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của thiết chế về không phân biệt đối xử. Ví dụ, một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là pháp luật ngày càng minh bạch và có thể tiên liệu được. Do đó, cơ chế ban hành pháp luật phải công khai, minh bạch và có sự tham gia của nhân dân. Thủ tục thông qua và áp dụng quyết định của các cơ quan công quyền phải rõ ràng, đúng đắn và khách quan. Do vậy, cải cách hành chính và các thủ tục là một đòi hỏi quan trọng mà tất cả các thành viên phải tuân thủ triệt để.
Trong thực thi chính sách. Các chính sách của quốc gia từ đây sẽ phải phù hợp với những chính sách chung của các thiết chế. Ví dụ các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thuế... Điều này sẽ tác động đến phạm vi thẩm quyền của Chính phủ trong lĩnh vực hành pháp. Các quyết định của chính phủ phải căn cứ vào những nghĩa vụ, nguyên tắc chung của thiết chế, ví dụ như quyết định áp dụng những biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư phải lưu ý đến đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia nhằm tránh sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hoặc không thể dành cho các doanh nghiệp của quốc gia mình các trợ cấp hoặc giúp đỡ nào trái với những cam kết quốc tế. Quốc gia cũng sẽ từ bỏ những chính sách của mình mà trước đây vốn thể hiện đặc trưng của chủ quyền về kinh tế như từ bỏ chính sách về trợ cấp, trợ giá, ưu đãi hoặc đãi ngộ đặc biệt đối với công dân và pháp nhân nước mình, các chính sách hạn chế xuất, nhập khẩu; các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như các rào cản thương mại hoặc các chính sách độc quyền và ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Từ trước đến nay, quyền thu thuế là một trong những đặc trưng cơ bản nhất cho nhà nước 8đồng thời thuế cũng chính là một công cụ điều tiết nền kinh tế và tạo ra nguồn thu ngân sách quan trọng của quốc gia. Từ trước đến nay, các quốc gia giữ quyền tối cao trong việc quy định và thực hiện việc thu các loại thuế, bao gồm việc ban hành các đạo luật thuế, các loại thuế và ấn định mức thuế, đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu. Tham gia vào các thiết chế kinh tế, các quốc gia có nghĩa vụ điều chỉnh chính sách thuế của mình thông qua việc xóa bỏ từng bước các hàng rào quan thuế và phi quan thuế. Các thiết chế kinh tế hiện nay như ASEAN – AFTA, APEC và WTO đều đặt ra mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tiến tới gỡ bỏ mọi hình thức cản trở trao đổi hàng hóa giữa các nước với nhau. Do đó, một trong những việc làm trước mắt của quốc gia khi tham gia vào các thiết chế kinh tế là cam kết về cắt giảm thuế quan.
Trong thực hiện chính sách đối ngoại. Việc ký kết điều ước quốc tế phải phù hợp với những nguyên tắc và quy định của mỗi thiết chế. Ví dụ nguyên tắc MFN sẽ được quán triệt trong tất cả các điều ước quốc tế ký kết với nước ngoài. Ví dụ Việt Nam sẽ phải tham gia một số điều ước quốc tế trong lộ trình gia nhập WTO liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tiến trình gia nhập vào WTO bắt buộc các quốc gia phải tiến hành hàng loạt các cuộc tiếp xúc song phương cũng như đa phương với các thành viên của WTO, để đạt được sự ủng hộ từ phía các nước thành viên mà đặc biệt là những nước lớn có ảnh hưởng như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu... các quốc gia xin gia nhập phải chủ động đưa ra những “nhượng bộ” cần thiết. Bản thân quy định của WTO cũng bắt buộc các thành viên mới phải chấp nhận những Hiệp định đa phương đã đạt được tại các Vòng đàm phán, thậm chí phải tham gia những thỏa thuận không có tính bắt buộc như Hiệp định về Mua sắm chính phủ là một ví dụ.
Tóm lại, hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới về vấn đề hội nhập kinh tế và tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế, có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Tuy nhiên, người viết cho rằng, việc các quốc gia tham gia vào các thiết chế kinh tế và tuân thủ những quy định do các thiết chế đặt ra nên được coi là sự thực hiện chủ quyền của quốc gia. Quan điểm này giống như quan điểm mà Tổ chức quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra đó là “một thỏa thuận quốc tế cần được coi là một sự thực hiện chủ quyền quốc gia hơn là sự hạn chế chủ quyền quốc gia”. Cần thấy rằng, sự tự do hóa thương mại và đầu tư là một phần trong chiến lược tổng thể mà mỗi quốc gia cần phải thực hiện để tăng cường khả năng cạnh tranh và tăng thu nhập quốc dân, để từ đó làm cho quốc gia trở nên ít bị thương tổn hơn đối với những tác động kinh tế từ bên ngoài. Quyết định tham gia vào các thiết chế kinh tế như WTO là một quyết định đúng đắn để có được nhiều hơn sự an ninh, bền vững và thịnh vượng mà chính các quy định của những thiết chế đó đem lại cho mỗi quốc gia 9.
II. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM
1. Quan điểm và chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra trong những thập niên cuối của thế kỷ XX và bối cảnh thế giới đầu thế kỷ XXI đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) đã đánh giá và xác định rõ chủ trương, nguyên tắc của Việt Nam trong việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 nêu rõ quan điểm phát triển là “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nhấn mạnh “hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Tiếp đó, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW về Hội nhập kinh tế quốc tế xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, trong đó hội nhập kinh tế được xác định là “sự nghiệp của toàn dân”.
2. Tác động của việc gia nhập tổ chức – liên kết kinh tế quốc tế đối với chủ quyền quốc gia của Việt Nam
Trước hết, tham gia vào các thiết chế kinh tế, sự tác động đối với chủ quyền quốc gia cũng sẽ theo chiều hướng tích cực, nói cách khác chủ quyền quốc gia sẽ được củng cố và khẳng định.
Thứ nhất, chủ quyền quốc gia sẽ được củng cố và bảo đảm hơn. Tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép Việt Nam sử dụng những cơ sở pháp lý cần thiết như quy chế tối huệ quốc (MFN); đối xử quốc gia (NT); cơ chế giải quyết tranh chấp... để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Đối với các tổ chức khu vực, Việt Nam có điều kiện khai thác thêm những lợi thế riêng của mỗi khối phát triển quan hệ thương mại, thu hút đầu tư, trước mắt là hạn chế tác động của chính sách phân biệt đối xử của một số nước10. Không những thế, tham gia vào các thiết chế kinh tế khu vực chính là những bước chuẩn bị cần thiết để tham gia có hiệu quả vào thiết chế kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn, AFTA có thể coi là một “sân tập” đối với Việt Nam trong quá trình tự do hóa và giúp tiến xa hơn trên con đường đi đến các cải cách theo hướng thị trường 11
Thứ hai, tham gia hội nhập, Việt Nam có thể tranh thủ và khai thác những quy chế, điều kiện ưu đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển để vừa đảm bảo hội nhập có hiệu quả, vừa bảo hộ hợp lý và phát triển vững chắc các ngành sản xuất 12. Chẳng hạn, tham gia WTO, Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP). Trong các lộ trình mở cửa, hội nhập, Việt Nam có quyền chủ động trong việc quyết định lộ trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, xây dựng phương án mở cửa, phối hợp các lộ trình hội nhập toàn cầu và khu vực, có chiến lược chủ động gia nhập, sửa đổi, chuẩn bị về mặt pháp luật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuẩn bị cán bộ, nhân lực... qua đó giúp chúng ta có điều kiện xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đảm bảo tuân thủ các quy định của các thể chế kinh tế quốc tế vừa đảm bảo chủ quyền quốc gia, khẳng định vị thế của Việt Nam trên thế giới. Do đó, việc gia nhập vào các thể chế kinh tế quốc tế, nếu có chiến lược tổng thể, khoa học và lộ trình thích hợp sẽ là cơ sở khẳng định và đảm bảo chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế, Việt Nam sẽ phải tiến hành điều chỉnh lại cơ chế kinh tế, sắp xếp, bố trí lại ngành, lĩnh vực kinh tế, sắp xếp cải cách hành chính, chống tiêu cực... điều đó làm tăng cường hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước. Với việc chuyển từ quản lý vi mô sang quản lý vĩ mô, trao toàn quyền quản lý sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, nhà nước không còn can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhà nước đỡ gánh nặng và tập trung vào thực hiện chức năng xã hội. Các Hiệp định của WTO không ngừng nâng cao tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc tế. Do vậy, các nước thành viên WTO đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam sẽ có điều kiện xây dựng và tăng cường các chính sách và thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tăng cường sự ổn định trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng xuất lao động của toàn bộ nền kinh tế 13
Thứ tư, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà cụ thể là WTO, Việt Nam có được vị trí và tiếng nói trong đàm phán đa phương về các vấn đề thương mại và những vấn đề liên quan khác như có thể vay tiền từ các tổ chức tín dụng quốc tế, dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, tức là Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia bình đẳng vào quá trình hình thành luật pháp quốc tế sao cho đảm bảo được quyền lợi của nước mình. Đồng thời qua đó nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, việc tham gia các thiết chế kinh tế quốc tế nói trên đặt ra các nghĩa vụ mà Việt Nam phải thực hiện, điều đó dẫn đến chủ quyền quốc gia có một số thay đổi. Cụ thể trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mở và hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan của toàn cầu hóa. Đây cũng chính là điều kiện và là yêu cầu bắt buộc của tất cả các thiết chế kinh tế quốc tế hiện nay như WTO, APEC, ASEAN... Do đó, việc hoạch định chính sách kinh tế của Việt Nam luôn phải vận hành theo các nguyên tắc mới và cuối cùng là đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của WTO. Việt Nam sẽ phải tiến hành điều chỉnh chính sách, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Đồng thời, trong hoạch định và điều hành chính sách, chúng ta không thể chủ quan, tuỳ tiện mà phải tính đến các cam kết và nghĩa vụ thành viên. Hơn nữa, việc thực hiện những cam kết thỏa thuận của Việt Nam phải gắn với các lộ trình và thời gian biểu quy định và không thể tuỳ tiện, trì hoãn, thoái thác… Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng những lộ trình gia nhập và thực hiện các cam kết phù hợp và tương ứng với từng thiết chế kinh tế. Việc xác định các lộ trình và tiến độ thực hiện một mặt là cơ sở để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào những thiết chế đó, quyết định sự thành công của cả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác đó cũng là những điều kiện bắt buộc đặt ra đối với Việt Nam. Chẳng hạn, Việt Nam có thể tận dụng những ưu đãi về quy chế nước đang phát triển để kéo dài lịch trình tự do hóa thương mại nhưng không thể trì hoãn hoặc kéo dài hơn tham gia cho phép thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế quan hoặc dỡ bỏ các rào cản thương mại.
Thứ hai, thực hiện mục tiêu chung của các thể chế kinh tế, Việt Nam sẽ cam kết mở cửa thị trường nội địa: thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư tiến tới thực hiện tự do hóa, thương mại hóa trên nền tảng những nguyên tắc chung của thương mại quốc tế. Đồng thời, Việt Nam phải tiến hành xây dựng pháp luật căn cứ trên cơ sở những nguyên tắc, nền tảng của các tổ chức, liên kết kinh tế; luật chống độc quyền, luật cạnh tranh, chống bán phá giá...Ví dụ: trong tất cả các cam kết quốc tế của Việt Nam sẽ phải thực hiện có đề cập đến việc áp dụng hai nguyên tắc MFN và NT trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ và đầu tư. Vừa qua, ngày 25/5/2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng hai quy chế này và phù hợp với những yêu cầu đặt ra trong tiến trình gia nhập WTO và thực hiện các cam kết trong AFTA, APEC. Luật Hải quan cũng được ban hành và đi vào thực hiện từ ngày 01/01/2002 trên cơ sở thống nhất với những cam kết và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực này.
Thứ ba, Việt Nam cần có và từng bước hình thành những thiết chế mới hoặc hoàn thiện các thiết chế trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế như đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp; hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ... Đi đôi với vấn đề này, Việt Nam cần thực hiện các cải cách về thủ tục hành chính, cơ chế. Nguyên tắc chủ đạo của WTO và APEC cũng như ASEAN là minh bạch hóa chính sách và pháp luật, chính sách và pháp luật phải rõ ràng và có thể thấy trước được. Do vậy, Việt Nam phải có những nỗ lực cần thiết trong việc cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt về thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, công bố chính sách, pháp luật công khai...
Thứ tư, phù hợp với những nguyên tắc của các thể chế kinh tế, Việt Nam phải tiến hành những điều chỉnh chính sách và pháp luật về thuế, bảo hộ, trợ cấp... cắt giảm, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hàng rào phi quan thuế. Với những khó khăn về lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, việc xóa bỏ các hình thức trợ cấp sẽ dẫn đến việc một số doanh nghiệp trong nước bị thiệt hại, một số lĩnh vực vốn trước đây được bảo hộ sẽ bị thua thiệt và có nguy cơ sụp đổ. Việt Nam cần điều chỉnh chính sách và vai trò kinh tế của nhà nước: chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước, chính sách thuế, quản lý tài chính, định hướng nền kinh tế, điều tiết các vấn đề xã hội do tác động của sự mở cửa, tự do hóa...
Thứ năm, tham gia các thể chế kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải chấp nhận những tiêu chuẩn, quy tắc mới. Ví dụ trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, phải chấp nhận sự phán xét của các cơ quan trọng tài quốc tế hoặc cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết các tranh chấp với các đối tác nước ngoài mà không phải thông qua phán quyết cuối cùng của các cơ quan tài phán Việt Nam. Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN/AFTA, Việt Nam sẽ cam kết áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế hải quan, các mẫu khai báo CEFT chung và áp dụng thủ tục xuất và nhập khẩu chung cũng như thiết lập các “hành lang xanh” (green lanes) – cửa giải quyết thủ tục hải quan dành riêng cho các sản phẩm được nhập khẩu theo chương trình CEFT tại hải quan cửa khẩu; áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường. Để tiến tới gia nhập WTO cũng như thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương, Việt Nam phải áp dụng cách tính thuế được quy định tại Điều 7 Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định về thi hành Điều 7 của GATT về định giá hải quan (Hiệp định ACV). Đây cũng chính là đòi hỏi của các thành viên WTO yêu cầu Việt Nam phải áp dụng ngay tại phiên họp thứ nhất của Ban Công tác WTO về Việt Nam ngày 27 – 28/7/1998 14 Trong khuôn khổ Hiệp định đầu tư ASEAN, Việt Nam hàng năm phải thông báo ngay lập tức cho Hội đồng AIA về bất kỳ thay đổi hoặc sửa đổi bổ sung các luật, quy định và văn bản hành chính có ảnh hưởng đáng kể đến các nhà đầu tư và các cam kết về đầu tư giữa các thành viên (trừ những thông tin bí mật)
Thứ sáu, một nghĩa vụ của thành viên các thể chế kinh tế quốc tế hiện nay đó là chấp nhận sự giám sát, thực hiện chế độ theo dõi, báo cáo thông tin cho những cơ quan lập ra có chức năng theo dõi tình hình thực hiện ở từng quốc gia. Ví dụ, WTO có ba Hội đồng về 3 lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội đồng về Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Đồng thời, các thành viên của những Hiệp định nói trên cũng có quyền yêu cầu các thành viên khác cung cấp thông tin có liên quan đến việc thực hiện Hiệp định này 15. Thêm vào đó, cơ chế duyệt chính sách của WTO yêu cầu các quốc gia phải tiến hành rà soát chính sách thương mại định kỳ đồng thời bản thân Ban Thư ký cũng tiến hành rà soát trên cơ sở thông tin do các thành viên khác cung cấp 16. Đây là những vấn đề mà Việt Nam phải lưu ý khi tham gia WTO trong tương lai.
Thứ bảy, trong chính sách đối ngoại, phù hợp với thủ tục gia nhập WTO, Việt Nam phải đạt được những thương lượng riêng rẽ với các nước thành viên WTO thông qua các Hiệp định thương mại song phương, trong đó các quốc gia thành viên (chủ yếu là những nước phát triển như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu) có quyền đưa ra những đỏi hỏi về các cam kết cũng như nhượng bộ nhằm đổi lấy sự đồng ý của những nước này. Do đó, Việt Nam cũng như các quốc gia muốn gia nhập phải trả “phí hội viên” bằng những nhượng bộ về thuế, các cam kết về trợ cấp nông nghiệp và thương mại dịch vụ để đổi lấy quyền được hưởng những lợi ích của tự do hóa đã đạt được tại các vòng đàm phán đa phương trước đây. Chính vì vậy, việc ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ có thể coi là một bước tiến quan trọng trên lộ trình Việt Nam gia nhập WTO 18.
Mặt khác, việc chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định trong ký kết, phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế song phương và đa phương phù hợp với những nguyên tắc và quy định của các thể chế kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng sẽ phải xem xét bãi bỏ những bảo lưu trước đây không còn phù hợp với những cam kết quốc tế và được yêu cầu tham gia những điều ước quốc tế. Ví dụ: Hiệp định Marakesh thành lập WTO yêu cầu các quốc gia thành viên phải chấp nhận và tham gia tất cả các hiệp định đa phương mà các thành viên WTO đã đạt được tại Vòng đàm phán Urugoay và có thể bị yêu cầu phải tham gia những Hiệp định mặc dù WTO không bắt buộc điều đó như Hiệp định về mua sắm Chính phủ 19.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
Hiện nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang phát triển mạnh trên thế giới. Những mối quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng ra khỏi phạm vi của từng quốc gia riêng biệt và vươn tới nhiều lĩnh vực, không còn hạn chế trong thương mại hàng hóa mà lan toả sang các lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, môi trường. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất rõ vấn đề này và trong tất cả các văn kiện đều nhấn mạnh đến việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đồng thời chỉ rõ “hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Vấn đề đặt ra là phải có quan niệm đúng đắn về khái niệm chủ quyền quốc gia trước xu thế mới và làm thế nào để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
1- Cần có sự nhìn nhận mới về chủ quyền quốc gia, coi việc tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế sự thay đổi chủ quyền quốc gia là tất yếu và cần thiết cũng chính là sự thực hiện chủ quyền quốc gia. Hội nhập quốc tế được biểu hiện ở việc gia nhập vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Tham gia vào các thể chế đó, phạm vi tác động của chủ quyền quốc gia sẽ thu hẹp lại, thay vào đó tất cả các quốc gia sẽ phải tuân thủ một “luật chơi chung”, trên một “sân chơi chung” mà tất cả các quốc gia đều có thể tìm thấy lợi ích của mình ở trong đó. Như vậy, tham gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực, việc tuân thủ những nguyên tắc và quy định của chúng, các quốc gia nên nhìn nhận đây là sự thực hiện chủ quyền mà không phải mất đi chủ quyền. Chủ quyền quốc gia trong toàn cầu hóa kinh tế đã có sự vận động, phát triển đồng thời xuất hiện những loại hình mới của chủ quyền quốc gia, những cách nhìn mới về nội dung của khái niệm chủ quyền quốc gia.
2- Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Hiện nay, vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm bảo đảm tự chủ về chính trị. Những yêu cầu đặt ra đối với vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là:
Thứ nhất, chủ động trong việc hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương trên cơ sở tuân thủ những cam kết và nghĩa vụ quốc tế. Thứ hai, có thực lực kinh tế đủ mạnh. Để làm được điều đó, cần xác định những ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với khả năng và điều kiện về chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước. Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Thứ ba, có hệ thống pháp luật mạnh, hoàn thiện nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế một cách có hiệu quả
3- Xây dựng lộ trình gia nhập tổng thể gắn với những điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, phù hợp với những thể chế kinh tế khác nhau và tính đến những ưu đãi, miễn giảm mà Việt Nam được hưởng, lưu ý đến tính toán về lâu dài khi Việt Nam không còn được hưởng những ưu đãi đó nữa. Trong vấn đề này có ba nội dung:
Thứ nhất, cần phải xây dựng được một lộ trình gia nhập phù hợp, thống nhất nhằm bảo đảm sự nhất quán chung trong quản lý, chỉ đạo và thực hiện. Các thể chể kinh tế mà Việt Nam tham gia mặc dù đều xây dựng trên cơ sở nền tảng là hệ thống những quy tắc, luật lệ của WTO. Tuy nhiên mỗi thể chế lại có những đặc điểm riêng và những mức độ và thời hạn không giống nhau. Do vậy, khi xây dựng lộ trình cần có sự tính toán chính xác và phù hợp, đồng thời tận dụng tối đa những ưu đãi, lợi thế mà Việt Nam được hưởng một cách có lợi nhất
Thứ hai, hiện nay trong tất cả các thể chế kinh tế mà Việt Nam tham gia đều có những ưu đãi, miễn giảm mà Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác được hưởng. Tuy nhiên, về lâu dài, Việt Nam sẽ phải tuân thủ một cách đầy đủ và hoàn toàn các nghĩa vụ sau khi hết thời hạn ưu đãi. Do đó, cần phải có tính toán chiến lược về lâu dài, khoa học để có thể tiếp tục đứng vững và phát triển.
Thứ ba, trong các lộ trình cần xác định cái đích cuối cùng là gia nhập WTO. Do đó, trong hoạch định chính sách cần tính toán về lâu dài những vấn đề khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO.
4- Có lộ trình hợp lý, khoa học cho việc hoàn thiện, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với những quy định của các thiết chế kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việc thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế cần phải được thực hiện với một lộ trình hợp lý, khoa học, gắn với lộ trình gia nhập vào các thiết chế kinh tế và phải được thực hiện với sự cân nhắc, thận trong nhằm tránh những xáo trộn, biến động trong xã hội nói chung và hệ thống pháp luật nói riêng. Lộ trình này cũng phải gắn với quá trình chuyển đổi chức năng quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước và thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết cần tập trung sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật ở những lĩnh vực cần thiết mà Việt Nam sẽ hội nhập mà chủ yếu là gắn với những cam kết của Việt Nam trong phạm vi khu vực và từng bước điều chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
5- Cần nghiên cứu, đánh giá những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam về mọi mặt trong điều kiện thực tế của Việt Nam, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và những đặc điểm riêng của Việt Nam. Việc nghiên cứu, đánh giá toàn diện những lợi thế và thách thức đó cần thiết phải đặt trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển với một nền kinh tế chuyển đổi và trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt Việt Nam cần phải tham khảo, học tập kinh nghiệm của những nước có điều kiện, hoàn cảnh tương tự nhưng một mặt phải gắn với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của Việt Nam để từ đó có chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý nhằm tận dụng, phát huy tối đa lợi thế và khắc phục, hạn chế những thách thức đặt ra trong tiến trình hội nhập và tham gia vào các thiết chế kinh tế quốc tế.
6- Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Để đảm bảo mục tiêu và định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì thành phần kinh tế nhà nước phải đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nhà nước ta cần phải tạo ra môi trường thuận lợi về luật pháp và kinh tế để cho mọi tổ chức kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là một công cụ vĩ mô để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế 20. Do đó, cần đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
7- Tăng cường đối ngoại, đặc biệt hợp tác các nước khu vực, các nước đang phát triển, tận dụng các diễn đàn để tạo dựng vị thế, đấu tranh hợp pháp bảo vệ quyền lợi của nhà nước, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài và các đoàn đàm phán của Việt Nam cần tận dụng các diễn đàn quốc tế và khu vực tại APEC, ASEAN và các diễn đàn quốc tế khác để đấu tranh ngoại giao bảo vệ quyền lợi của nhà nước. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi, đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
1 Xem Nguyễn Thúy Anh, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản năm 2001.
2 Nguyễn Hoàng Giáp-Mai Hoàng Anh, Chủ quyền quốc gia- dân tộc trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 3/1999.
3 Bộ Ngoại giao-Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa – vấn đề và giải pháp, NXB CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 220.
4 Nguyễn Văn Dân, Những vấn đề của toàn cầu hóa kinh tế, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 539.
5 Duy Thao, Chủ quyền kinh tế của các nước đang phát triển trong toàn cầu hóa, Tạp chí Cộng sản, số 9 (5/2000), tr. 61- 64.
6 Vũ Khoan, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc tháng 10/2001.
7 Bộ Ngoại giao-Vụ hợp tác kinh tế đa phương, WTO, tr. 69.
8 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB CAND, Hà Nội, 1998, tr. 50.
9 Globalization and international economic integration, UNDP Project on Viet Nam’s economic integration, Ha Noi, 2001, tr. 12.
10 Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 206.
11 Globalization and international economic integration, UNDP Project on Viet Nam’s economic integration, Ha Noi, 2001, tr. 355.
12 Hồng Lam, Hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, Tạp chí Cộng sản, số 11 (6/1998), tr. 9.
13 Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), NXB CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 460.
14 Bộ Ngoại giao- Bộ phận Hội nhập, Tài liệu tham khảo cho lớp tập huấn cho các bộ các tỉnh/thành phía Nam về Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam WTO, APEC, AFTA/AIA, TP. Hồ Chí Minh ngày 11-23/3/1999, tr. 54.
15 Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (1999), Tổ chức Thương mại thế giới WTO, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 238.
16 Uy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2002), Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nộ, tr. 47.
Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (1999), Tổ chức Thương mại thế giới WTO, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 463.
18 Bộ Tư pháp (2001), Dự án VIE/98/01 “Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam – giai đoạn II” – Đề tài đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích đưa ra kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật liên quan để thực hiện hiệu quả Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 17.
19 Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 400.
20 Nguyễn Tấn Dũng (2002), “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng Xã hội chủ nghĩa”, Nhân dân, số ngày 13/9/2002
Nguon: Tap Chi Khoa Hoc Phap Ly - DH.Luat TP.HCM
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 4 /2003
CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TRẦN THĂNG LONG
ThS. Giảng viên Khoa Luật Quốc tế trường ĐH Luật TP. HCM
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Các quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng vượt qua biên giới quốc gia và vươn tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong bối cảnh đó, mở cửa, hội nhập, tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế đối với mỗi quốc gia trở thành một đòi hỏi tất yếu. Một mặt, Việt Nam có cơ hội để phát triển kinh tế trong một môi trường pháp lý bình đẳng với một hệ thống luật lệ hoàn chỉnh, mặt khác, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Bài viết đề cập đến vấn đề chủ quyền quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế và những tác động, ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà cụ thể là tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế quốc tế.
I. CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Chủ quyền quốc gia và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay, quan điểm chung của các nước trên thế giới khẳng định toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế khách quan. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần là tiến hành các quan hệ giao dịch song phương mà phải bằng những hình thức cao hơn là hội nhập vào các tổ chức và liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến vấn đề xem xét lại khái niệm chủ quyền quốc gia. Về vấn đề này ở Việt Nam và các nước trên thế giới có những quan điểm khác nhau.
* Quan điểm hội nhập kinh tế trong toàn cầu hóa làm xói mòn chủ quyền quốc gia:
Có quan điểm cho rằng, toàn cầu hóa kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đối với chủ quyền quốc gia. Toàn cầu hóa đang làm lung lay cả những quan niệm truyền thống về nhà nước, vai trò chức năng của nhà nước và chủ quyền quốc gia, chủ quyền kinh tế của mỗi nước 1 và kết quả là dẫn đến sự tiêu vong của nhà nước – dân tộc (nation – state) truyền thống. Điều đó được lý giải ở việc nhìn nhận với sự phát triển ngày càng cao của xu thế toàn cầu hóa, tính độc lập của các quốc gia bị mất dần, nhiều quyền lực của nhà nước bị xói mòn và chuyển vào tay các thực thể khác, đồng thời nhiều vấn đề hiện vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các nhà nước đơn lẻ như vấn đề môi trường sinh thái, các luồng di chuyển vốn, các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia... Có quan điểm còn nêu ra vấn đề “Trong tương lai gần, các thể chế toàn cầu, các khối kinh tế, các công ty xuyên quốc gia sẽ phát triển mạnh mẽ và trong tương lai xa chúng sẽ quyết định các quan hệ kinh tế quốc tế” và “các công ty xuyên quốc gia dưới sự bảo trợ của WTO và OECD có khả năng đứng trên các chính phủ và trở thành một “chính phủ siêu cấp”, ít chịu ràng buộc và dần dần làm lu mờ chủ quyền của các quốc gia”2
* Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế là sự thực hiện chủ quyền quốc gia:
Có một số quan điểm lại nhìn nhận chủ quyền quốc gia trong toàn cầu hóa kinh tế một cách tích cực hơn. Quan điểm này cho rằng, những tác động của toàn cầu hóa đối với chủ quyền quốc gia là khách quan và không tránh khỏi. Do vậy, các quốc gia cần phải xem lại vấn đề chủ quyền quốc gia hay nói cách khác, san sẻ, hòa hợp chủ quyền với những quốc gia khác để cùng nhau giải quyết những vấn đề có liên quan đến lợi ích của chính quốc gia mình. Điều đó cũng có nghĩa là quan điểm về chủ quyền đã thay đổi và việc thông qua những thiết chế, hình thức hợp tác quốc tế, cũng chính là sự thực hiện chủ quyền quốc gia.
Những người ủng hộ các quan điểm này lập luận, sự thay đổi, tác động đối với chủ quyền quốc gia thể hiện chủ yếu ở việc lựa chọn và quyết định các chính sách kinh tế – xã hội của quốc gia. Với sự chủ động hội nhập, các chính phủ không hề từ bỏ hoặc giảm bớt quyền lực nhà nước của mình, thậm chí về một số mặt quyền lực này, nhất là khả năng thực thi quyền lực, còn được củng cố và mở rộng hơn nhờ có sự hợp tác quốc tế và kết quả của “quá trình học hỏi” 3Quan điểm này được minh chứng thông qua mô hình liên minh Châu Âu (EU). Cho đến nay, các nước thành viên Liên minh Châu Âu (EU) đã chuyển hầu hết quyền định đoạt các chính sách về thuế quan, tài chính, tiền tệ cho Ủy ban Châu Âu và quan điểm của các thành viên Liên minh Châu Âu khi chấp nhận sửa đổi Hiến pháp và pháp luật của mình để phê chuẩn Hiệp ước Maasstricht đều cho rằng đó là sự chuyển giao chủ quyền một cách tự nguyện cho một thiết chế chung nhằm đem lại quyền lợi nhiều hơn cho chính mình.
* Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế góp phần củng cố chủ quyền quốc gia:
Có quan điểm đi xa hơn khi cho rằng, chính hội nhập, qua hội nhập mà củng cố được chủ quyền quốc gia. Cơ sở của lập luận này là trong thế giới ngày nay, không hội nhập thì sớm muộn sẽ lệ thuộc vào nền kinh tế nước lớn này hay nước lớn khác. Song khi đã hội nhập, trở thành thành viên của tổ chức quốc tế thì một mặt, có khả năng tranh thủ được các lợi thế của sự hợp tác; mặt khác có cơ hội đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vũng chủ quyền, góp phần vào cải cách các quy định của luật chơi hiện hành 4
Theo quan điểm của tác giả, hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và việc hội nhập khu vực, thế giới là một nhu cầu khách quan của các quốc gia. Hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự thực hiện chủ quyền quốc gia. Do đó, với việc hội nhập kinh tế mà biểu hiện đặc trưng của nó là gia nhập vào các tổ chức, liên kết kinh tế có những tác động tích cực đối với chủ quyền quốc gia, nói một cách khác, chủ quyền quốc gia có thể được củng cố và đảm bảo hơn. Đặc biệt điều này hết sức có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển.
Thứ nhất, tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép quốc gia sử dụng những cơ sở pháp lý cần thiết như chế độ tối huệ quốc (MFN); đối xử quốc gia (NT); cơ chế giải quyết tranh chấp... để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Việc Vòng đàm phán Urugoay đạt được thành công trong việc thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp mới của WTO đã cho phép các mối quan hệ trong thương mại quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế rất nhiều những hành động đơn phương, độc đoán của những cường quốc về thương mại, cho phép nhanh chóng tháo gỡ những bế tắc vốn thường xảy ra và khó giải quyết trước đây.
Mới đây, lần đầu tiên một nước nghèo có thể áp dụng trừng phạt đối với nước giàu. Đó là việc WTO cho phép Ecuador áp đặt lệnh trừng phạt hàng năm trị giá 201,6 triệu USD đối với EU do việc phân biệt đối xử trong chính sách nhập khẩu chuối. Sự kiện này là sự khích lệ đối với các nước đang phát triển trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình trước các nước phát triển 5 Có thể thấy rằng, các quan hệ đa phương không chỉ giới hạn ở các quan hệ lợi ích kinh tế, thương mại trực tiếp, cụ thể mà còn có các lợi ích khác như liên kết các nước đang phát triển cùng nhau đấu tranh bảo vệ lợi ích chung trên các diễn đàn quốc tế, chống lại việc áp đặt không công bằng, không bình đẳng của các nước phát triển 6.
Thứ hai, tất cả các tổ chức và liên kết kinh tế quốc tế đều có những ưu đãi và miễn giảm dành cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Những ưu đãi và miễn giảm đó thể hiện ở lịch trình thực hiện cam kết kéo dài hơn, mức độ thực hiện cam kết thấp hơn... Do đó các nước đang phát triển có cơ hội chuẩn bị mọi mặt, xây dựng, củng cố các ngành kinh tế mũi nhọn, có được những chuẩn bị cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ thành viên đầy đủ sau khi hết thời hạn ưu đãi. Chẳng hạn, theo Hiệp định GATT, các nước đang phát triển có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu được coi là hợp pháp nhằm bảo vệ một ngành công nghiệp nội địa bị tổn thương hữu hình do việc nhập khẩu đó, hoặc thậm chí nếu có một sự đe dọa gây tổn thương hữu hình.
Thứ ba, tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế, các quốc gia cần điều chỉnh lại cơ chế kinh tế, sắp xếp, bố trí lại ngành, lĩnh vực kinh tế, sắp xếp, đẩy mạnh các cải cách hành chính, chống tiêu cực, tham nhũng... qua đó tăng cường vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Hiện nay, WTO là một tổ chức với những quy định và “luật chơi” chặt chẽ, kiểm soát thương mại toàn cầu. Các Hiệp định của WTO đòi hỏi không ngừng nâng cao tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc tế. Các nước thành viên WTO, nhất là các nước đang phát triển qua việc xây dựng và tăng cường các chính sách và thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình sẽ tăng cường sự ổn định trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng xuất lao động của toàn bộ nền kinh tế.
2. Vấn đề chủ quyền của các quốc gia khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế
Phần này sẽ chỉ tập trung phân tích những ảnh hưởng, tác động đối với chủ quyền quốc gia đối với các thành viên liên kết kinh tế và tổ chức kinh tế quốc tế. Những ảnh hưởng, tác động đó có thể thể hiện ở những nội dung sau:
Nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của thiết chế. Với tư cách thành viên của các tổ chức, liên kết kinh tế (gọi chung là các thiết chế kinh tế quốc tế), các quốc gia trước hết phải tuân thủ những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế kinh tế đó. Ví dụ như thủ tục thông qua các quyết định, áp dụng trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp phải tuân thủ những quyết định do các cơ quan đó thông qua; chấp nhận sự tài phán trong những lĩnh vực mà các cơ quan đó có thẩm quyền... Các thiết chế kinh tế quốc tế đều có những cơ chế để giám sát quá trình thực hiện và tuân thủ những quy định của mình. Các quốc gia thành viên một mặt phải tuân thủ những quy định của thể chế, đồng thời phải chịu sự giám sát, theo dõi việc thực thi những quy định đó thông qua những cơ chế đặc biệt. Chẳng hạn, WTO có cơ chế duyệt chính sách (TPRM) nhằm đảm bảo các thành viên thực thi đúng những nguyên tắc và quy định của WTO. Đồng thời các Hội đồng chuyên biệt về thương mại, dịch vụ và sở hữu trí tuệ sẽ theo dõi việc thực thi các cam kết trong khuôn khổ các Hiệp định GATT, GATS và TRIMS và có báo cáo lên Đại hội đồng WTO về mọi vấn đề liên quan đến việc thực thi các Hiệp định nói trên 7
Trong hoạch định chính sách kinh tế. Các quốc gia sẽ không còn giữ quyền tối cao trong việc hoạch định các chính sách kinh tế, thương mại của mình như trước đây mà phải căn cứ vào chính sách kinh tế chung của những thiết chế kinh tế mà mình là thành viên. Các quốc gia sẽ không thể tự mình quyết định các vấn đề về chính sách kinh tế của quốc gia mà phải căn cứ vào các chính sách kinh tế của thiết chế mà mình tham gia. Mỗi quốc gia có quyền tự do quyết định các chính sách cụ thể, nhưng rõ ràng không thể tuyệt đối, không giới hạn như trước đây. Điều này dẫn đến chủ quyền quốc gia bị hạn chế trong việc hoạch định chính sách, quyết định cơ chế kinh tế thể hiện trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp của quốc gia – những yếu tố của chủ quyền đối nội. Các quốc gia cũng bắt buộc phải xây dựng lịch trình hội nhập tích cực để có thể tham gia vào các thiết chế kinh tế đó. Lịch trình mà các quốc gia đưa ra không những phải căn cứ vào điều kiện thực tế của quốc gia, quan điểm chính sách và định hướng của quốc gia mình mà phải căn cứ vào khả năng thực hiện các cam kết, những thỏa thuận đạt được trong việc thực hiện các cam kết với các thành viên khác và những điều kiện cụ thể áp dụng cho từng loại thành viên...
Trong điều chỉnh pháp luật quốc gia. Điều chỉnh pháp luật là một nghĩa vụ mà tất cả các quốc gia thành viên phải thực hiện nhằm tạo ra sự hòa hợp giữa pháp luật trong nước với hệ thống những luật lệ, quy định của các thiết chế kinh tế đó. Các thiết chế kinh tế đều yêu cầu các quốc gia thành viên phải có những điều chỉnh thích hợp các quy định, luật lệ quốc gia cho phù hợp, tiến hành những cải cách, đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới cách thức quản lý và điều hành nền kinh tế. Điều đó tác động trực tiếp đến việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mỗi nhà nước vốn thể hiện khá rõ nét chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực kinh tế. WTO, APEC đều có yêu cầu các quốc gia thành viên phải là những quốc gia có nền kinh tế thị trường và bắt buộc phải tiến hành những cải cách về kinh tế để chứng minh là một nền kinh tế thị trường. Trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức Thương mại thế giới, các quốc gia đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc... phải trả lời hàng ngàn câu hỏi liên quan đến cơ chế kinh tế, hệ thống pháp lý và những đảm bảo cho việc tuân thủ các luật lệ và quy định của WTO, đồng thời các thành viên mới phải chứng minh việc đã tiến hành những thay đổi cần thiết về hệ thống pháp luật và chính sách thương mại phù hợp với những chuẩn mực của WTO. Từ đó, nghĩa vụ của các quốc gia là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chú trọng đến những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của các thiết chế, ví dụ sở hữu trí tuệ, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông và các biện pháp khắc phục rủi ro...
Các quốc gia tham gia vào các thiết chế kinh tế có nghĩa vụ từng bước mở cửa thị trường cho sự lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư ở những lĩnh vực tương đối nhạy cảm hoặc những lĩnh vực vốn trước đây hoàn toàn thuộc chủ quyền quốc gia như mua sắm công, nông nghiệp... Ví dụ, nông nghiệp đây là một lĩnh vực đã được chính phủ trợ cấp và bảo hộ ở mức cao độ thì những thay đổi đối với chính sách nông nghiệp do tác động của các chính sách kinh tế mà các thiết chế kinh tế đặt ra là một vấn đề hết sức đáng quan tâm, đặc biệt với chính sách về nông nghiệp trong khuôn khổ WTO.
Đồng thời, nghĩa vụ thành viên của các thiết chế kinh tế quốc tế bắt buộc các quốc gia phải tiến hành các cải cách. Trong đó cải cách hành chính và cải cách cơ chế điều hành với mục tiêu làm cho các chính sách và pháp luật trở nên minh bạch, rõ ràng hơn, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của thiết chế về không phân biệt đối xử. Ví dụ, một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là pháp luật ngày càng minh bạch và có thể tiên liệu được. Do đó, cơ chế ban hành pháp luật phải công khai, minh bạch và có sự tham gia của nhân dân. Thủ tục thông qua và áp dụng quyết định của các cơ quan công quyền phải rõ ràng, đúng đắn và khách quan. Do vậy, cải cách hành chính và các thủ tục là một đòi hỏi quan trọng mà tất cả các thành viên phải tuân thủ triệt để.
Trong thực thi chính sách. Các chính sách của quốc gia từ đây sẽ phải phù hợp với những chính sách chung của các thiết chế. Ví dụ các chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thuế... Điều này sẽ tác động đến phạm vi thẩm quyền của Chính phủ trong lĩnh vực hành pháp. Các quyết định của chính phủ phải căn cứ vào những nghĩa vụ, nguyên tắc chung của thiết chế, ví dụ như quyết định áp dụng những biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư phải lưu ý đến đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia nhằm tránh sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hoặc không thể dành cho các doanh nghiệp của quốc gia mình các trợ cấp hoặc giúp đỡ nào trái với những cam kết quốc tế. Quốc gia cũng sẽ từ bỏ những chính sách của mình mà trước đây vốn thể hiện đặc trưng của chủ quyền về kinh tế như từ bỏ chính sách về trợ cấp, trợ giá, ưu đãi hoặc đãi ngộ đặc biệt đối với công dân và pháp nhân nước mình, các chính sách hạn chế xuất, nhập khẩu; các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như các rào cản thương mại hoặc các chính sách độc quyền và ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Từ trước đến nay, quyền thu thuế là một trong những đặc trưng cơ bản nhất cho nhà nước 8đồng thời thuế cũng chính là một công cụ điều tiết nền kinh tế và tạo ra nguồn thu ngân sách quan trọng của quốc gia. Từ trước đến nay, các quốc gia giữ quyền tối cao trong việc quy định và thực hiện việc thu các loại thuế, bao gồm việc ban hành các đạo luật thuế, các loại thuế và ấn định mức thuế, đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu. Tham gia vào các thiết chế kinh tế, các quốc gia có nghĩa vụ điều chỉnh chính sách thuế của mình thông qua việc xóa bỏ từng bước các hàng rào quan thuế và phi quan thuế. Các thiết chế kinh tế hiện nay như ASEAN – AFTA, APEC và WTO đều đặt ra mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tiến tới gỡ bỏ mọi hình thức cản trở trao đổi hàng hóa giữa các nước với nhau. Do đó, một trong những việc làm trước mắt của quốc gia khi tham gia vào các thiết chế kinh tế là cam kết về cắt giảm thuế quan.
Trong thực hiện chính sách đối ngoại. Việc ký kết điều ước quốc tế phải phù hợp với những nguyên tắc và quy định của mỗi thiết chế. Ví dụ nguyên tắc MFN sẽ được quán triệt trong tất cả các điều ước quốc tế ký kết với nước ngoài. Ví dụ Việt Nam sẽ phải tham gia một số điều ước quốc tế trong lộ trình gia nhập WTO liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tiến trình gia nhập vào WTO bắt buộc các quốc gia phải tiến hành hàng loạt các cuộc tiếp xúc song phương cũng như đa phương với các thành viên của WTO, để đạt được sự ủng hộ từ phía các nước thành viên mà đặc biệt là những nước lớn có ảnh hưởng như Mỹ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu... các quốc gia xin gia nhập phải chủ động đưa ra những “nhượng bộ” cần thiết. Bản thân quy định của WTO cũng bắt buộc các thành viên mới phải chấp nhận những Hiệp định đa phương đã đạt được tại các Vòng đàm phán, thậm chí phải tham gia những thỏa thuận không có tính bắt buộc như Hiệp định về Mua sắm chính phủ là một ví dụ.
Tóm lại, hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới về vấn đề hội nhập kinh tế và tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế, có nhiều quan điểm trái ngược nhau. Tuy nhiên, người viết cho rằng, việc các quốc gia tham gia vào các thiết chế kinh tế và tuân thủ những quy định do các thiết chế đặt ra nên được coi là sự thực hiện chủ quyền của quốc gia. Quan điểm này giống như quan điểm mà Tổ chức quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra đó là “một thỏa thuận quốc tế cần được coi là một sự thực hiện chủ quyền quốc gia hơn là sự hạn chế chủ quyền quốc gia”. Cần thấy rằng, sự tự do hóa thương mại và đầu tư là một phần trong chiến lược tổng thể mà mỗi quốc gia cần phải thực hiện để tăng cường khả năng cạnh tranh và tăng thu nhập quốc dân, để từ đó làm cho quốc gia trở nên ít bị thương tổn hơn đối với những tác động kinh tế từ bên ngoài. Quyết định tham gia vào các thiết chế kinh tế như WTO là một quyết định đúng đắn để có được nhiều hơn sự an ninh, bền vững và thịnh vượng mà chính các quy định của những thiết chế đó đem lại cho mỗi quốc gia 9.
II. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM
1. Quan điểm và chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra trong những thập niên cuối của thế kỷ XX và bối cảnh thế giới đầu thế kỷ XXI đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) đã đánh giá và xác định rõ chủ trương, nguyên tắc của Việt Nam trong việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 nêu rõ quan điểm phát triển là “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nhấn mạnh “hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Tiếp đó, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW về Hội nhập kinh tế quốc tế xác định rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, trong đó hội nhập kinh tế được xác định là “sự nghiệp của toàn dân”.
2. Tác động của việc gia nhập tổ chức – liên kết kinh tế quốc tế đối với chủ quyền quốc gia của Việt Nam
Trước hết, tham gia vào các thiết chế kinh tế, sự tác động đối với chủ quyền quốc gia cũng sẽ theo chiều hướng tích cực, nói cách khác chủ quyền quốc gia sẽ được củng cố và khẳng định.
Thứ nhất, chủ quyền quốc gia sẽ được củng cố và bảo đảm hơn. Tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép Việt Nam sử dụng những cơ sở pháp lý cần thiết như quy chế tối huệ quốc (MFN); đối xử quốc gia (NT); cơ chế giải quyết tranh chấp... để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Đối với các tổ chức khu vực, Việt Nam có điều kiện khai thác thêm những lợi thế riêng của mỗi khối phát triển quan hệ thương mại, thu hút đầu tư, trước mắt là hạn chế tác động của chính sách phân biệt đối xử của một số nước10. Không những thế, tham gia vào các thiết chế kinh tế khu vực chính là những bước chuẩn bị cần thiết để tham gia có hiệu quả vào thiết chế kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn, AFTA có thể coi là một “sân tập” đối với Việt Nam trong quá trình tự do hóa và giúp tiến xa hơn trên con đường đi đến các cải cách theo hướng thị trường 11
Thứ hai, tham gia hội nhập, Việt Nam có thể tranh thủ và khai thác những quy chế, điều kiện ưu đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển để vừa đảm bảo hội nhập có hiệu quả, vừa bảo hộ hợp lý và phát triển vững chắc các ngành sản xuất 12. Chẳng hạn, tham gia WTO, Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP). Trong các lộ trình mở cửa, hội nhập, Việt Nam có quyền chủ động trong việc quyết định lộ trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, xây dựng phương án mở cửa, phối hợp các lộ trình hội nhập toàn cầu và khu vực, có chiến lược chủ động gia nhập, sửa đổi, chuẩn bị về mặt pháp luật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuẩn bị cán bộ, nhân lực... qua đó giúp chúng ta có điều kiện xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đảm bảo tuân thủ các quy định của các thể chế kinh tế quốc tế vừa đảm bảo chủ quyền quốc gia, khẳng định vị thế của Việt Nam trên thế giới. Do đó, việc gia nhập vào các thể chế kinh tế quốc tế, nếu có chiến lược tổng thể, khoa học và lộ trình thích hợp sẽ là cơ sở khẳng định và đảm bảo chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế, Việt Nam sẽ phải tiến hành điều chỉnh lại cơ chế kinh tế, sắp xếp, bố trí lại ngành, lĩnh vực kinh tế, sắp xếp cải cách hành chính, chống tiêu cực... điều đó làm tăng cường hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước. Với việc chuyển từ quản lý vi mô sang quản lý vĩ mô, trao toàn quyền quản lý sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, nhà nước không còn can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhà nước đỡ gánh nặng và tập trung vào thực hiện chức năng xã hội. Các Hiệp định của WTO không ngừng nâng cao tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc tế. Do vậy, các nước thành viên WTO đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam sẽ có điều kiện xây dựng và tăng cường các chính sách và thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tăng cường sự ổn định trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng xuất lao động của toàn bộ nền kinh tế 13
Thứ tư, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà cụ thể là WTO, Việt Nam có được vị trí và tiếng nói trong đàm phán đa phương về các vấn đề thương mại và những vấn đề liên quan khác như có thể vay tiền từ các tổ chức tín dụng quốc tế, dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, tức là Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia bình đẳng vào quá trình hình thành luật pháp quốc tế sao cho đảm bảo được quyền lợi của nước mình. Đồng thời qua đó nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, việc tham gia các thiết chế kinh tế quốc tế nói trên đặt ra các nghĩa vụ mà Việt Nam phải thực hiện, điều đó dẫn đến chủ quyền quốc gia có một số thay đổi. Cụ thể trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mở và hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan của toàn cầu hóa. Đây cũng chính là điều kiện và là yêu cầu bắt buộc của tất cả các thiết chế kinh tế quốc tế hiện nay như WTO, APEC, ASEAN... Do đó, việc hoạch định chính sách kinh tế của Việt Nam luôn phải vận hành theo các nguyên tắc mới và cuối cùng là đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của WTO. Việt Nam sẽ phải tiến hành điều chỉnh chính sách, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Đồng thời, trong hoạch định và điều hành chính sách, chúng ta không thể chủ quan, tuỳ tiện mà phải tính đến các cam kết và nghĩa vụ thành viên. Hơn nữa, việc thực hiện những cam kết thỏa thuận của Việt Nam phải gắn với các lộ trình và thời gian biểu quy định và không thể tuỳ tiện, trì hoãn, thoái thác… Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng những lộ trình gia nhập và thực hiện các cam kết phù hợp và tương ứng với từng thiết chế kinh tế. Việc xác định các lộ trình và tiến độ thực hiện một mặt là cơ sở để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào những thiết chế đó, quyết định sự thành công của cả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác đó cũng là những điều kiện bắt buộc đặt ra đối với Việt Nam. Chẳng hạn, Việt Nam có thể tận dụng những ưu đãi về quy chế nước đang phát triển để kéo dài lịch trình tự do hóa thương mại nhưng không thể trì hoãn hoặc kéo dài hơn tham gia cho phép thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế quan hoặc dỡ bỏ các rào cản thương mại.
Thứ hai, thực hiện mục tiêu chung của các thể chế kinh tế, Việt Nam sẽ cam kết mở cửa thị trường nội địa: thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư tiến tới thực hiện tự do hóa, thương mại hóa trên nền tảng những nguyên tắc chung của thương mại quốc tế. Đồng thời, Việt Nam phải tiến hành xây dựng pháp luật căn cứ trên cơ sở những nguyên tắc, nền tảng của các tổ chức, liên kết kinh tế; luật chống độc quyền, luật cạnh tranh, chống bán phá giá...Ví dụ: trong tất cả các cam kết quốc tế của Việt Nam sẽ phải thực hiện có đề cập đến việc áp dụng hai nguyên tắc MFN và NT trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ và đầu tư. Vừa qua, ngày 25/5/2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng hai quy chế này và phù hợp với những yêu cầu đặt ra trong tiến trình gia nhập WTO và thực hiện các cam kết trong AFTA, APEC. Luật Hải quan cũng được ban hành và đi vào thực hiện từ ngày 01/01/2002 trên cơ sở thống nhất với những cam kết và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực này.
Thứ ba, Việt Nam cần có và từng bước hình thành những thiết chế mới hoặc hoàn thiện các thiết chế trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế như đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp; hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ... Đi đôi với vấn đề này, Việt Nam cần thực hiện các cải cách về thủ tục hành chính, cơ chế. Nguyên tắc chủ đạo của WTO và APEC cũng như ASEAN là minh bạch hóa chính sách và pháp luật, chính sách và pháp luật phải rõ ràng và có thể thấy trước được. Do vậy, Việt Nam phải có những nỗ lực cần thiết trong việc cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt về thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, công bố chính sách, pháp luật công khai...
Thứ tư, phù hợp với những nguyên tắc của các thể chế kinh tế, Việt Nam phải tiến hành những điều chỉnh chính sách và pháp luật về thuế, bảo hộ, trợ cấp... cắt giảm, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hàng rào phi quan thuế. Với những khó khăn về lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, việc xóa bỏ các hình thức trợ cấp sẽ dẫn đến việc một số doanh nghiệp trong nước bị thiệt hại, một số lĩnh vực vốn trước đây được bảo hộ sẽ bị thua thiệt và có nguy cơ sụp đổ. Việt Nam cần điều chỉnh chính sách và vai trò kinh tế của nhà nước: chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước, chính sách thuế, quản lý tài chính, định hướng nền kinh tế, điều tiết các vấn đề xã hội do tác động của sự mở cửa, tự do hóa...
Thứ năm, tham gia các thể chế kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải chấp nhận những tiêu chuẩn, quy tắc mới. Ví dụ trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, phải chấp nhận sự phán xét của các cơ quan trọng tài quốc tế hoặc cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết các tranh chấp với các đối tác nước ngoài mà không phải thông qua phán quyết cuối cùng của các cơ quan tài phán Việt Nam. Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN/AFTA, Việt Nam sẽ cam kết áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế hải quan, các mẫu khai báo CEFT chung và áp dụng thủ tục xuất và nhập khẩu chung cũng như thiết lập các “hành lang xanh” (green lanes) – cửa giải quyết thủ tục hải quan dành riêng cho các sản phẩm được nhập khẩu theo chương trình CEFT tại hải quan cửa khẩu; áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường. Để tiến tới gia nhập WTO cũng như thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương, Việt Nam phải áp dụng cách tính thuế được quy định tại Điều 7 Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định về thi hành Điều 7 của GATT về định giá hải quan (Hiệp định ACV). Đây cũng chính là đòi hỏi của các thành viên WTO yêu cầu Việt Nam phải áp dụng ngay tại phiên họp thứ nhất của Ban Công tác WTO về Việt Nam ngày 27 – 28/7/1998 14 Trong khuôn khổ Hiệp định đầu tư ASEAN, Việt Nam hàng năm phải thông báo ngay lập tức cho Hội đồng AIA về bất kỳ thay đổi hoặc sửa đổi bổ sung các luật, quy định và văn bản hành chính có ảnh hưởng đáng kể đến các nhà đầu tư và các cam kết về đầu tư giữa các thành viên (trừ những thông tin bí mật)
Thứ sáu, một nghĩa vụ của thành viên các thể chế kinh tế quốc tế hiện nay đó là chấp nhận sự giám sát, thực hiện chế độ theo dõi, báo cáo thông tin cho những cơ quan lập ra có chức năng theo dõi tình hình thực hiện ở từng quốc gia. Ví dụ, WTO có ba Hội đồng về 3 lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội đồng về Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Đồng thời, các thành viên của những Hiệp định nói trên cũng có quyền yêu cầu các thành viên khác cung cấp thông tin có liên quan đến việc thực hiện Hiệp định này 15. Thêm vào đó, cơ chế duyệt chính sách của WTO yêu cầu các quốc gia phải tiến hành rà soát chính sách thương mại định kỳ đồng thời bản thân Ban Thư ký cũng tiến hành rà soát trên cơ sở thông tin do các thành viên khác cung cấp 16. Đây là những vấn đề mà Việt Nam phải lưu ý khi tham gia WTO trong tương lai.
Thứ bảy, trong chính sách đối ngoại, phù hợp với thủ tục gia nhập WTO, Việt Nam phải đạt được những thương lượng riêng rẽ với các nước thành viên WTO thông qua các Hiệp định thương mại song phương, trong đó các quốc gia thành viên (chủ yếu là những nước phát triển như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu) có quyền đưa ra những đỏi hỏi về các cam kết cũng như nhượng bộ nhằm đổi lấy sự đồng ý của những nước này. Do đó, Việt Nam cũng như các quốc gia muốn gia nhập phải trả “phí hội viên” bằng những nhượng bộ về thuế, các cam kết về trợ cấp nông nghiệp và thương mại dịch vụ để đổi lấy quyền được hưởng những lợi ích của tự do hóa đã đạt được tại các vòng đàm phán đa phương trước đây. Chính vì vậy, việc ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ có thể coi là một bước tiến quan trọng trên lộ trình Việt Nam gia nhập WTO 18.
Mặt khác, việc chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định trong ký kết, phê chuẩn, gia nhập điều ước quốc tế song phương và đa phương phù hợp với những nguyên tắc và quy định của các thể chế kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng sẽ phải xem xét bãi bỏ những bảo lưu trước đây không còn phù hợp với những cam kết quốc tế và được yêu cầu tham gia những điều ước quốc tế. Ví dụ: Hiệp định Marakesh thành lập WTO yêu cầu các quốc gia thành viên phải chấp nhận và tham gia tất cả các hiệp định đa phương mà các thành viên WTO đã đạt được tại Vòng đàm phán Urugoay và có thể bị yêu cầu phải tham gia những Hiệp định mặc dù WTO không bắt buộc điều đó như Hiệp định về mua sắm Chính phủ 19.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
Hiện nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang phát triển mạnh trên thế giới. Những mối quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng ra khỏi phạm vi của từng quốc gia riêng biệt và vươn tới nhiều lĩnh vực, không còn hạn chế trong thương mại hàng hóa mà lan toả sang các lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, môi trường. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất rõ vấn đề này và trong tất cả các văn kiện đều nhấn mạnh đến việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đồng thời chỉ rõ “hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Vấn đề đặt ra là phải có quan niệm đúng đắn về khái niệm chủ quyền quốc gia trước xu thế mới và làm thế nào để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
1- Cần có sự nhìn nhận mới về chủ quyền quốc gia, coi việc tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế sự thay đổi chủ quyền quốc gia là tất yếu và cần thiết cũng chính là sự thực hiện chủ quyền quốc gia. Hội nhập quốc tế được biểu hiện ở việc gia nhập vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Tham gia vào các thể chế đó, phạm vi tác động của chủ quyền quốc gia sẽ thu hẹp lại, thay vào đó tất cả các quốc gia sẽ phải tuân thủ một “luật chơi chung”, trên một “sân chơi chung” mà tất cả các quốc gia đều có thể tìm thấy lợi ích của mình ở trong đó. Như vậy, tham gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực, việc tuân thủ những nguyên tắc và quy định của chúng, các quốc gia nên nhìn nhận đây là sự thực hiện chủ quyền mà không phải mất đi chủ quyền. Chủ quyền quốc gia trong toàn cầu hóa kinh tế đã có sự vận động, phát triển đồng thời xuất hiện những loại hình mới của chủ quyền quốc gia, những cách nhìn mới về nội dung của khái niệm chủ quyền quốc gia.
2- Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Hiện nay, vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm bảo đảm tự chủ về chính trị. Những yêu cầu đặt ra đối với vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là:
Thứ nhất, chủ động trong việc hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương trên cơ sở tuân thủ những cam kết và nghĩa vụ quốc tế. Thứ hai, có thực lực kinh tế đủ mạnh. Để làm được điều đó, cần xác định những ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với khả năng và điều kiện về chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của đất nước. Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Thứ ba, có hệ thống pháp luật mạnh, hoàn thiện nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế một cách có hiệu quả
3- Xây dựng lộ trình gia nhập tổng thể gắn với những điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, phù hợp với những thể chế kinh tế khác nhau và tính đến những ưu đãi, miễn giảm mà Việt Nam được hưởng, lưu ý đến tính toán về lâu dài khi Việt Nam không còn được hưởng những ưu đãi đó nữa. Trong vấn đề này có ba nội dung:
Thứ nhất, cần phải xây dựng được một lộ trình gia nhập phù hợp, thống nhất nhằm bảo đảm sự nhất quán chung trong quản lý, chỉ đạo và thực hiện. Các thể chể kinh tế mà Việt Nam tham gia mặc dù đều xây dựng trên cơ sở nền tảng là hệ thống những quy tắc, luật lệ của WTO. Tuy nhiên mỗi thể chế lại có những đặc điểm riêng và những mức độ và thời hạn không giống nhau. Do vậy, khi xây dựng lộ trình cần có sự tính toán chính xác và phù hợp, đồng thời tận dụng tối đa những ưu đãi, lợi thế mà Việt Nam được hưởng một cách có lợi nhất
Thứ hai, hiện nay trong tất cả các thể chế kinh tế mà Việt Nam tham gia đều có những ưu đãi, miễn giảm mà Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác được hưởng. Tuy nhiên, về lâu dài, Việt Nam sẽ phải tuân thủ một cách đầy đủ và hoàn toàn các nghĩa vụ sau khi hết thời hạn ưu đãi. Do đó, cần phải có tính toán chiến lược về lâu dài, khoa học để có thể tiếp tục đứng vững và phát triển.
Thứ ba, trong các lộ trình cần xác định cái đích cuối cùng là gia nhập WTO. Do đó, trong hoạch định chính sách cần tính toán về lâu dài những vấn đề khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO.
4- Có lộ trình hợp lý, khoa học cho việc hoàn thiện, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với những quy định của các thiết chế kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việc thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế cần phải được thực hiện với một lộ trình hợp lý, khoa học, gắn với lộ trình gia nhập vào các thiết chế kinh tế và phải được thực hiện với sự cân nhắc, thận trong nhằm tránh những xáo trộn, biến động trong xã hội nói chung và hệ thống pháp luật nói riêng. Lộ trình này cũng phải gắn với quá trình chuyển đổi chức năng quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước và thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết cần tập trung sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật ở những lĩnh vực cần thiết mà Việt Nam sẽ hội nhập mà chủ yếu là gắn với những cam kết của Việt Nam trong phạm vi khu vực và từng bước điều chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.
5- Cần nghiên cứu, đánh giá những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam về mọi mặt trong điều kiện thực tế của Việt Nam, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và những đặc điểm riêng của Việt Nam. Việc nghiên cứu, đánh giá toàn diện những lợi thế và thách thức đó cần thiết phải đặt trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển với một nền kinh tế chuyển đổi và trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt Việt Nam cần phải tham khảo, học tập kinh nghiệm của những nước có điều kiện, hoàn cảnh tương tự nhưng một mặt phải gắn với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của Việt Nam để từ đó có chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý nhằm tận dụng, phát huy tối đa lợi thế và khắc phục, hạn chế những thách thức đặt ra trong tiến trình hội nhập và tham gia vào các thiết chế kinh tế quốc tế.
6- Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Để đảm bảo mục tiêu và định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì thành phần kinh tế nhà nước phải đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nhà nước ta cần phải tạo ra môi trường thuận lợi về luật pháp và kinh tế để cho mọi tổ chức kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là một công cụ vĩ mô để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế 20. Do đó, cần đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
7- Tăng cường đối ngoại, đặc biệt hợp tác các nước khu vực, các nước đang phát triển, tận dụng các diễn đàn để tạo dựng vị thế, đấu tranh hợp pháp bảo vệ quyền lợi của nhà nước, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài và các đoàn đàm phán của Việt Nam cần tận dụng các diễn đàn quốc tế và khu vực tại APEC, ASEAN và các diễn đàn quốc tế khác để đấu tranh ngoại giao bảo vệ quyền lợi của nhà nước. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi, đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
1 Xem Nguyễn Thúy Anh, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản năm 2001.
2 Nguyễn Hoàng Giáp-Mai Hoàng Anh, Chủ quyền quốc gia- dân tộc trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 3/1999.
3 Bộ Ngoại giao-Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa – vấn đề và giải pháp, NXB CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 220.
4 Nguyễn Văn Dân, Những vấn đề của toàn cầu hóa kinh tế, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 539.
5 Duy Thao, Chủ quyền kinh tế của các nước đang phát triển trong toàn cầu hóa, Tạp chí Cộng sản, số 9 (5/2000), tr. 61- 64.
6 Vũ Khoan, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc tháng 10/2001.
7 Bộ Ngoại giao-Vụ hợp tác kinh tế đa phương, WTO, tr. 69.
8 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB CAND, Hà Nội, 1998, tr. 50.
9 Globalization and international economic integration, UNDP Project on Viet Nam’s economic integration, Ha Noi, 2001, tr. 12.
10 Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 206.
11 Globalization and international economic integration, UNDP Project on Viet Nam’s economic integration, Ha Noi, 2001, tr. 355.
12 Hồng Lam, Hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, Tạp chí Cộng sản, số 11 (6/1998), tr. 9.
13 Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), NXB CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 460.
14 Bộ Ngoại giao- Bộ phận Hội nhập, Tài liệu tham khảo cho lớp tập huấn cho các bộ các tỉnh/thành phía Nam về Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam WTO, APEC, AFTA/AIA, TP. Hồ Chí Minh ngày 11-23/3/1999, tr. 54.
15 Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (1999), Tổ chức Thương mại thế giới WTO, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 238.
16 Uy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2002), Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nộ, tr. 47.
Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (1999), Tổ chức Thương mại thế giới WTO, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 463.
18 Bộ Tư pháp (2001), Dự án VIE/98/01 “Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam – giai đoạn II” – Đề tài đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích đưa ra kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật liên quan để thực hiện hiệu quả Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 17.
19 Bộ Ngoại giao-Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 400.
20 Nguyễn Tấn Dũng (2002), “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng Xã hội chủ nghĩa”, Nhân dân, số ngày 13/9/2002
Nguon: Tap Chi Khoa Hoc Phap Ly - DH.Luat TP.HCM
1 nhận xét:
Xu Hướng gia nhập kinh tế toàn cầu WTO là biện pháp nhanh nhất giúp Việt Nam thoát khỏi kinh tế lạc hậu .
Việt Nam phải nhanh chóng lợi dụng tình thế đang có lợi trong nền kinh tế toàn cầu hoá trong lúc này . Đồng thời tận dụng tối đa các quyền ưu đãi MFN , NT .
Thay đổi chính sách , luật lệ là một điều cấp bách . Tạo thuận lợi cho toàn dân ra khơi .
Xây dựng chiến lược ngắn và dài hạn là việc làm cần quan tâm .
Phải dẹp lối nguỵ biện " vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra" vì đảng đã TỰ THA HOÁ dân tộc trong học thuyết Marx-Lenin rồi .Trong khi BẢN SẮC VIỆT LÀ HUY ĐỘNG SỨC SÁNG TẠO VÀ TINH HOA CỦA TÀI NĂNG VIỆT. Có như vậy đất nước mới thật sự phát triển .Người Việt chúng ta biết làm thế nào để không đánh mất mình .
Đăng nhận xét