TS. Vũ Công Giao
Nguồn: Nghiên cứu lập pháp,
đăng ngày 9/4/2012,
1. Khái quát về cơ quan nhân quyền quốc gia
Theo
định nghĩa giản dị của Liên hiệp quốc (LHQ), “cơ quan nhân quyền quốc
gia” (tiếng Anh: National Human Rights Institutions - NHRIs), hoặc
National Institutions for Protection and Promotion of Human Rights) là
“một cơ quan (body) được giao những chức năng cụ thể trong việc thúc đẩy
và bảo vệ nhân quyền”1.
Rất
nhiều người nhầm lẫn khi đồng nhất NHRIs với các tổ chức phi chính phủ
(NGO), thậm chí với các tổ chức đối lập với nhà nước. Thực chất, các
NHRIs là một thiết chế có tính chất của cơ quan nhà nước
(quasi-governmental agency), có chức năng tư vấn, hỗ trợ các nhà nước
trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền. Nó có một vị thế rất đặc biệt,
không giống với các NGO, đồng thời cũng không giống các cơ quan nhà nước
thông thường. Cụ thể, các NHRIs: (i) không
phải là một NGO (vì không hoàn toàn độc lập với chính phủ); (ii) không
phải là một cơ quan lập pháp (vì không có chức năng đại diện, không có
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật…); (iii) không phải là một cơ
quan tư pháp (vì không có chức năng tài phán); (iv) cũng
không hẳn là một cơ quan hành chính (trong một số trường hợp, NHRI được
đặt trong/dưới một cơ quan hành pháp, nhưng nó được hưởng mức độ độc
lập nhất định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và hoạt động).
Có
những động lực và sức ép từ cả bên trong và bên ngoài các quốc gia thúc
đẩy việc thành lập các NHRIs. Trên phương diện quốc tế, ngay từ khi
thành lập, LHQ đã quan tâm và có nhu cầu tiếp nhận sự trợ giúp của càng
nhiều càng tốt các chủ thể ở nhiều cấp độ (quốc tế, khu vực, quốc gia)
vào hoạt động bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền. Điều này dẫn tới việc vào năm
1946, Hội đồng Kinh tế-Xã hội của LHQ (ECOSOC) đã yêu cầu các quốc gia
thành viên thành lập các nhóm hoặc ủy ban nhân quyền để phối hợp hoạt
động với Ủy ban nhân quyền LHQ (nay đã được thay thế bởi Hội đồng Nhân
quyền LHQ). Ở cấp độ quốc gia, các nhà nước đóng vai trò kép - vừa là
chủ thể có nghĩa vụ chính trong việc bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền, vừa là
thủ phạm chính của các vi phạm nhân quyền - vì vậy, cần một cơ quan tư
vấn có tính độc lập tương đối để góp ý và trợ giúp. Các NHRIs được thiết
lập để đóng vai trò đó. Những cơ quan đặc biệt này giúp cân bằng giữa
hai thái cực: sự quá hữu (bảo thủ, trì trệ…) của các cơ quan nhà nước và
sự quá tả (cực đoan, một chiều…) của các NGO trong lĩnh vực nhân quyền.
Trên
thực tế, không có một mô hình chung về NHRIs cho các quốc gia. Mỗi nước
có những mô hình NHRIs khác nhau (về tên gọi, cơ cấu tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ…); tuy nhiên, các NHRIs thông thường được thiết lập theo
ba hình thức chủ yếu đó là: (i) Cơ quan thanh tra Quốc hội (Ombudsman);
Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Human Rights Commission/Committee);
(iii) Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể (Specialized
Institutions).
Các
Ủy ban nhân quyền quốc gia thông thường thuộc nhánh hành pháp, do Chính
phủ thành lập nhưng có tính độc lập tương đối với các cơ quan hành pháp
khác và có thể có nhiệm vụ báo cáo thường kỳ với cơ quan lập pháp. Ủy
viên của các ủy ban nhân quyền quốc gia có thể có chuyên môn khác nhau,
tuy nhiên đều phải có uy tín, kinh nghiệm, được bầu ra trên cơ sở tính
đến tính đại diện cho vùng, miền, nhóm người, đảng phái… của quốc gia.
Các
Cơ quan Thanh tra Quốc hội thông thường thuộc nhánh lập pháp, được Nghị
viện thành lập nhưng có tính độc lập tương đối với Nghị viện. Về bản
chất, Thanh tra Quốc hội không phải là cơ quan giám sát nhánh hành pháp,
mà chỉ đóng vai trò là cơ quan trung gian giữa các cá nhân và các chính
phủ (giống các ủy ban nhân quyền) trong các vấn đề nhân quyền. Chức
năng chính của Cơ quan Thanh tra Quốc hội là bảo vệ sự công bằng và tính
pháp lý trong hoạt động hành chính công (bao gồm nhưng rộng hơn việc
bảo vệ quyền con người). Cơ quan Thanh tra Quốc hội có thể là một cá
nhân hoặc một nhóm cá nhân (văn phòng/cơ quan thanh tra Quốc hội). Mặc
dù các Cơ quan Thanh tra Quốc hội trên thế giới không hoàn toàn giống
nhau về cách thức tổ chức nhưng khá đồng nhất về chức năng, nhiệm vụ và
thủ tục hoạt động.
Ngoài
hai dạng phổ biến kể trên, ở một số nước còn thành lập các cơ quan
chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể hoặc quyền của một số nhóm
xã hội nhất định, cụ thể như các ủy ban quốc gia về người thiểu số,
người bản địa, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người lao động di trú…
Mặc
dù tồn tại dưới nhiều hình thức, song các NHRIs đều tuân thủ những
nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhân quyền quốc
gia (các Nguyên tắc Pa-ri). Các Nguyên tắc Pa-ri là một văn kiện quốc
tế có tính khuyến nghị (không có hiệu lực ràng buộc về pháp lý), được
Đại hội đồng LHQ thông qua theo Nghị quyết 48/134 ngày 20/12/1993 tại
thủ đô nước Pháp, trong đó xác định một tập hợp những nguyên tắc nền
tảng cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các NHRIs trên thế
giới2. Văn kiện này đề cập đến các vấn đề: thẩm quyền và
trách nhiệm của NHRIs; cơ cấu tổ chức và những bảo đảm về tính độc lập
và đa nguyên của NHRIs; những cách thức hoạt động của NHRIs; các nguyên
tắc bổ sung liên quan đến vị thế của NHRIs có thẩm quyền xử lý những
khiếu nại vi phạm nhân quyền.
Về
thẩm quyền, theo các Nguyên tắc Pa-ri, các NHRIs phải được pháp luật
quốc gia giao quyền và nhiệm vụ thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền càng rộng
càng tốt. Về chức năng, các NHRIs đóng vai trò: tư vấn (theo yêu cầu)
cho Chính phủ, Nghị viện và các cơ quan nhà nước khác về các vấn đề lập
pháp, hành pháp, tư pháp và thực tiễn liên quan đến bảo vệ và thúc đẩy
nhân quyền; soạn thảo và cung cấp cho các cơ quan kể trên báo cáo về
tình hình nhân quyền quốc gia (khái quát và trên những vấn đề cụ thể);
thúc đẩy việc bảo đảm sự hài hòa của pháp luật và thực tiễn quốc gia với
các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền; vận động nhà nước tham gia các
điều ước quốc tế về nhân quyền; hỗ trợ xây dựng các báo cáo quốc gia về
nhân quyền trình các cơ quan LHQ; hợp tác với các cơ quan nhân quyền của
LHQ và các cơ quan, tổ chức quốc gia hoạt động trên lĩnh vực nhân
quyền; hỗ trợ xây dựng các chương trình nghiên cứu, giảng dạy nhân quyền
ở quốc gia; phổ biến kiến thức, thông tin về nhân quyền.
Về
thành phần, các NHRIs thường bao gồm đại diện của nhiều tầng lớp, nhóm
lợi ích trong xã hội, ví dụ như các NGOs hoạt động trên lĩnh vực nhân
quyền và chống phân biệt đối xử, bao gồm các tổ chức công đoàn; các tổ
chức nghề nghiệp (luật sư, nhà báo, bác sĩ..); các cơ sở học thuật
(trường đại học, viện nghiên cứu…); các chuyên gia có uy tín; thành viên
của các Nghị viện; chuyên viên của các cơ quan chính phủ...
Tính
độc lập (tương đối) là yếu tố không thể thiếu của các NHRIs. Theo các
Nguyên tắc Pa-ri, các NHRIs cần phải có tính độc lập với các cơ quan nhà
nước khác; mức độ độc lập càng cao càng tốt. Có nhiều yếu tố bảo đảm
cho tính độc lập của NHRIs, trong đó bao gồm: được cung cấp trụ sở,
trang thiết bị làm việc; được nhận tài trợ để thực hiện những hoạt động
thích hợp; việc thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ được quy
định trong luật.
Các
NHRIs thường hoạt động theo những phương thức sau: xem xét giải quyết
mọi vấn đề thuộc thẩm quyền, bất kể do chủ thể nào đề xuất; tiếp xúc với
bất kỳ ai, thu thập bất kỳ thông tin, tài liệu nào cần thiết để giải
quyết các tình huống thuộc thẩm quyền; trực tiếp hồi đáp ý kiến công
chúng hoặc thông qua bất kỳ cơ quan thông tin đại chúng nào; họp định kỳ
hoặc bất kỳ các thành viên đương nhiệm khi cần thiết; thành lập các
nhóm công tác khi cần thiết; duy trì quan hệ tham vấn với các cơ quan
khác có chức năng thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; phát triển quan hệ với
các NGOs hoạt động trên lĩnh vực nhân quyền.
Không
phải tất cả, song khá nhiều NHRIs được giao cả thẩm quyền tiếp nhận và
xử lý những khiếu nại, tố cáo về vi phạm nhân quyền. Những NHRIs có thẩm
quyền này sẽ được: tiếp nhận bất kỳ khiếu nại, tố cáo nào gửi tới, hoặc
chuyển tiếp chúng đến các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định pháp
luật; giải quyết các khiếu nại bằng biện pháp hòa giải, bao gồm việc
đưa ra những quyết định có tính ràng buộc, trên cơ sở giữ kín thông tin
về người khiếu nại; thông báo cho chủ thể khiếu nại các quyền của họ,
các giải pháp đền bù có thể và hỗ trợ họ đạt được các giải pháp đó; đưa
ra khuyến nghị với bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào về bất kỳ vấn đề nào
liên quan đến lập pháp, hành pháp và thực tiễn về nhân quyền.
2. Thực trạng các cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới
Khảo
sát của Văn phòng Cao ủy LHQ về nhân quyền (OHCHR) với 61 NHRIs trên
thế giới (công bố vào tháng 7/2009) cho thấy thực trạng của các cơ quan
này như sau3:
Về thời gian thành lập: Xét chung, phần lớn các NHRIs trên thế giới mới được thành lập từ sau thập kỷ 1990 (xem biểu 1).
Dạng tổ chức:
Đa số NHRIs được thành lập dưới dạng Ủy ban nhân quyền quốc gia (58%),
tỷ lệ thành lập dưới hình thức Thanh tra Quốc hội cũng khá cao (30%),
chỉ có một tỷ lệ nhỏ được thành lập dưới dạng thức khác (7%) hoặc theo
cách thức hỗn hợp (5%) (xem biểu 2):
Thẩm quyền:
58/61 NHRIs được khảo sát có thẩm quyền trên toàn lãnh thổ; 4/61 chỉ có
thẩm quyền giới hạn ở một số khu vực; hầu như tất cả có thẩm quyền với
mọi cá nhân, bất kể vị thế công dân; 4/61 có thẩm quyền vượt ra khỏi
quốc gia (extra-territorial jurisdiction) để bảo vệ công dân ở nước
ngoài; 40% không phải là NHRIs duy nhất ở quốc gia đó (có thêm các NHRIs
thuộc những hình thức khác, hoặc ở cấp địa phương…).
Thành phần ủy viên:
Ở các khu vực khác nhau thành phần các ủy viên của NHRIs ít nhiều khác
nhau. Tuy nhiên, xét chung ở tất cả các khu vực, ủy viên của các NHRIs
bao gồm (tính từ trái sang phải trong biểu dưới đây): đại diện của các
NGO trong nước; đại diện của các tổ chức công đoàn; các chuyên gia pháp
luật; các chuyên gia y tế; các nhà nghiên cứu; các đại biểu Quốc hội;
đại diện của các cơ quan chính phủ. Trong số các đối tượng này, xét
chung ở tất cả các khu vực, tỷ lệ thành viên cao nhất thuộc về các
chuyên gia pháp luật và các nhà nghiên cứu (xem biểu 3).
Việc đề cử thành viên các NHRIs:
Ở các khu vực khác nhau, việc đề cử người tham gia các NHRIs ít nhiều
có sự khác nhau. Tuy nhiên, xét chung ở tất cả các khu vực, việc này
thường do một số cơ quan sau đây thực hiện (tính từ trái sang phải trong
biểu dưới đây): người đứng đầu nhà nước; Quốc hội; Tòa án; các tổ chức
xã hội dân sự; tự ứng cử. Ngoài ra, trong một số trường hợp, thành viên
của các NHRIs còn được đề cử theo cách khác (xem biểu 4).
Nhiệm kỳ của các thành viên NHRIs:
Ở các quốc gia khác nhau, nhiệm kỳ hoạt động của các ủy viên NHRIs ít
nhiều khác nhau. Tuy nhiên, xét chung, nhiệm kỳ được xác định trong
khoảng 2-7 năm, trong đó các nhiệm kỳ 5, 3 và 4 năm mang tính phổ biến
nhất (xem biểu 5).
Số lượng cán bộ giúp việc:
Ở các quốc gia khác nhau, số lượng cán bộ giúp việc trong NHRIs ít
nhiều khác nhau. Khoảng cách giữa các quốc gia trong vấn đề này là khá
lớn (từ khoảng 20 đến hơn 200 cán bộ), tuy nhiên, phổ biến nhất là dưới
50 cán bộ (xem biểu 6).
Về tự chủ và tính độc lập trong hoạt động và nguồn tài chính:
Về hoạt động, 70% trong số 61 NHRIs được khảo sát rất tự chủ về hoạt
động, 40% chịu sự quản lý của một cơ quan hành chính, trong đó 20% bị cơ
quan hành chính chi phối. Về tài chính, gần 50% thiếu kinh phí hoạt
động. Đa số nhận hỗ trợ kinh phí qua một cơ quan Chính phủ và bị cơ quan
này chi phối việc sử dụng nguồn kinh phí được cấp. Đánh giá về tính độc
lập nói chung, có 45/61 (74%) được xếp loại độc lập cao (very), 10/61
(16%) khá độc lập (moderate); 4/61 có mức độ độc lập hạn chế (limited).
Về khả năng tiếp cận của công chúng:
Nhìn chung, công chúng có thể tiếp cận với các NHRIs thông qua nhiều
cách thức khác nhau, cụ thể như qua điện thoại (phone), thư tín (post),
thư điện tử (email), trang web (website). Ở các khu vực khác nhau, khả
năng tiếp cận của công chúng theo từng loại hình đã nêu có sự khác nhau.
Tuy nhiên, xét chung, khả năng tiếp cận các NHRIs ở châu Âu là cao nhất
(trên tất cả các loại hình, mức đánh giá đều là cao hoặc rất cao, chỉ
có một tỷ lệ nhỏ là trung bình). Ở châu Mỹ xếp thứ hai (chỉ riêng việc
tiếp cận thông qua email với một số NHRIs ở khu vực bị đánh giá thấp,
còn lại đều được xếp loại cao và rất cao). Các NHRIs ở châu Phi và châu
Á-Thái Bình Dương rõ ràng tụt hậu hơn so với ở hai châu lục đề cập
trước, vì ở tất cả các loại hình đều tồn tại một tỷ lệ bị đánh giá thấp
và rất thấp (xem biểu 7).
Về chức năng: Bảng thống kê dưới đây cho thấy chức năng của 61 NHRIs được khảo sát:
Chức năng
|
Theo yêu cầu của nhà chức trách liên quan
|
Theo sáng kiến của NHRIs
|
Theo cả hai hình thức
|
Đưa
ra những khuyến nghị với Nghị viện, Chính phủ và các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khác về các vấn đề nhân quyền liên quan đến:
|
Bất kỳ quy định pháp luật hay quyết định hành chính nào
|
10 (16.3%)
|
22 (36%)
|
37 (60.6%)
|
Các quy định, quyết định của các cơ quan tư pháp
|
5 (8.1%)
|
22 (36%)
|
25 (40.9%)
|
Các đạo luật và dự thảo luật
|
4 (6.6%)
|
21 (34.4%)
|
34 (55.7%)
|
Việc thông qua một văn bản pháp luật mới
|
4 (6.6%)
|
21 (34.4%)
|
34 (55.7%)
|
Việc sửa đổi một văn bản pháp luật đang có hiệu lực
|
3 (5%)
|
26 (42.6%)
|
31 (50.8%)
|
Việc đưa ra hoặc thay đổi các biện pháp hành chính đang có hiệu lực
|
3 (5%)
|
25 (40.9%)
|
28 (45.9%)
|
Báo cáo về tình hình nhân quyền của quốc gia hoặc về các vấn đề cụ thể khác
|
0 (0%)
|
27 (44.2%)
|
31 (50.8%)
|
Báo cáo về những vi phạm nhân quyền mà cơ quan sẽ thụ lý giải quyết
|
2 (3.3%)
|
31 (50.8%)
|
25 (40.9%)
|
Công bố những quan điểm, khuyến nghị và báo cáo
|
0
|
35 (57.3%)
|
25 (40.9%)
|
Thúc đẩy và vận động để:
|
Làm hài hòa pháp luật và thực tiễn quốc gia với các văn kiện quốc tế về nhân quyền mà quốc gia là thành viên
|
1 (1.6%)
|
31 (50.8%)
|
23 (37.7%)
|
Thực hiện các khuyến nghị của các cơ chế quốc tế về nhân quyền mà quốc gia tham gia
|
2 (3.3%)
|
34 (55.7%)
|
23 (37.7%)
|
Tham gia các văn kiện quốc tế mới về nhân quyền
|
1 (1.6%)
|
32 (52.4%)
|
24 (39.3%)
|
Đóng góp vào việc xây dựng báo cáo định kỳ tổng thể về nhân quyền của quốc gia
|
10 (16.3%)
|
24 (39.3%)
|
23 (37.7%)
|
Nêu quan điểm về các báo cáo nhân quyền của quốc gia trước các cơ quan liên quan của LHQ
|
2 (3.3%)
|
30 (48.3%)
|
22 (36.1%)
|
Hợp tác với các cơ quan LHQ và các cơ chế khu vực, các NHRIs ở những quốc gia khác
|
1 (1.6%)
|
37 (60.6%)
|
20 (32.7%)
|
Hỗ trợ thiết lập và thực hiện các chương trình giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền
|
1 (1.6%)
|
29 (47.5%)
|
29 (47.5%)
|
Thực
hiện các hoạt động nâng cao nhận thức của công chúng về nhân quyền, đặc
biệt là việc phổ biến thông tin và các sáng kiến giáo dục, phối hợp với
các cơ quan báo chí
|
0 (0%)
|
37 (60.6%)
|
23 (37.7%)
|
Thẩm quyền tiếp nhận và xử lý các khiếu nại, tố cáo vi phạm nhân quyền:
Trong số 61 NHRIs được khảo sát, có 47 (77%) được giao thẩm quyền này
liên quan đến mọi quyền, 8 (13,1%) có quyền tiếp nhận, xử lý khiếu nại,
tố cáo về một số quyền cụ thể. Số còn lại (6 cơ quan, chiếm 9,8%) không
được giao thẩm quyền này. Điều đáng nói là khu vực châu Phi tỏ ra tiến
bộ nhất trên khía cạnh này, khi có 100% NHRIs được khảo sát được giao
thẩm quyền với mức cao nhất (với mọi quyền con người) (xem biểu 8).
Vai trò trong giáo dục nhân quyền:
Các NHRIs trên khắp thế giới đều đóng vai trò quan trọng trong giáo dục
nhân quyền ở quốc gia, khi tham gia vào việc xây dựng chương trình giáo
dục nhân quyền ở mọi cấp độ, từ cấp độ tiểu học (primary school), trung
học (higher degree), đại học (university) đến sau đại học
(post-graduate), tuy mức độ tham gia ở mỗi khu vực có sự khác nhau (xem
biểu 9).
Vai
trò trong việc xây dựng Báo cáo định kỳ toàn thể về quyền con người của
các quốc gia gửi Hội đồng Nhân quyền LHQ (UPR- Universal Periodic
Report):
UPR là văn kiện đặc biệt quan trọng để đánh giá tình hình thực thi các
tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền của các nước trên thế giới. Các NHRIs
trên khắp thế giới đều đóng vai trò quan trọng trong việc soạn thảo báo
cáo này, từ việc tham gia soạn thảo, đóng góp ý kiến vào dự thảo, cung
cấp thông tin cho các cơ quan có trách nhiệm soạn thảo, tham gia các
phiên họp của ban soạn thảo, nêu quan điểm về báo cáo trong buổi xem xét
báo cáo của Hội đồng Nhân quyền LHQ, phổ biến báo cáo cho công chúng và
tham gia thực hiện hoặc giám sát thực hiện những khuyến nghị của Hội
đồng Nhân quyền LHQ sau khi quốc gia bảo vệ báo cáo. Mặc dù vậy, mức độ
tham gia của các NHRIs vào tiến trình này ở mỗi khu vực có sự khác nhau
(xem biểu 10).
2. Vị trí của NHRIs trong Hiến pháp các nước trên thế giới
Cũng
theo khảo sát của OHCHR, có 33% số NHRIs hiện hành trên thế giới được
thành lập bởi một quy định trong Hiến pháp, 31% bởi quy định trong luật.
Số được thành lập bởi nghị định hoặc một văn bản pháp luật khác chiếm
21%, còn lại (15%) được thành lập bởi nhiều dạng văn bản (hình thức hỗn
hợp) (xem biểu 11).

Một nghiên cứu khác gần đây (Dự án Hiến pháp so sánh - Comparative Constitutions Project - CCP)4,
cho phép nhìn nhận rõ hơn về vị trí của NHRIs trong Hiến pháp các nước
trên thế giới. Theo kết quả khảo sát của CCP, ở thời điểm năm 2000, xét
chung ở các khu vực, có không quá 20% số Hiến pháp quy định việc thành
lập Ủy ban nhân quyền quốc gia (xem biểu 12 trang sau). Trong khi đó,
cũng ở thời điểm này, có đến hơn 30% số Hiến pháp ở nhiều khu vực quy
định việc thành lập Cơ quan Thanh tra Quốc hội (xem biểu 13 trang sau).
Tổng hợp cả hai loại hình (chưa tính các dạng khác), có thể ước tính có
khoảng 50% số Hiến pháp hiện hành trên thế giới quy định về việc thành
lập cơ quan nhân quyền quốc gia (cao hơn so với nghiên cứu của OHCHR đề
cập ở trên)5.
3. Những gợi ý cho Việt Nam
Nếu
xét đúng theo các tiêu chí được đề cập ở trên, Việt Nam hiện chưa có cơ
quan nào có thể coi là NHRIs. Cụ thể, Việt Nam chưa có Ủy ban nhân
quyền cũng như bất cứ thiết chế nào có thể coi là Thanh tra Quốc hội như
ở nhiều nước khác. Các Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay cũng chưa
từng quy định về NHRIs.
Có
quan điểm cho rằng, một số cơ quan ở Việt Nam trên thực tế có thể coi
là các cơ quan nhân quyền đặc biệt (một dạng của NHRIs - như đã đề cập ở
trên), bao gồm: Ủy ban Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em (nay đã giải
thể, sáp nhập vào Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế); Ủy ban
vì sự tiến bộ của phụ nữ; Ủy ban Dân tộc (của Chính phủ); Hội đồng Dân
tộc (của Quốc hội)… Ở đây, mặc dù các cơ quan này có chức năng thực hiện
một số hoạt động theo kiểu NHRIs ở các nước, nhưng không thể được coi
là các NHRIs thực sự, vì không phù hợp với các Nguyên tắc Pa-ri ở nhiều
điểm cốt lõi, bao gồm tính độc lập và chức năng, nhiệm vụ.
Nguyên
nhân chính khiến Việt Nam chưa có NHRIs có lẽ là do hiểu biết không
chính xác về cơ chế này. Ở Việt Nam, các NHRIs thường bị coi là một dạng
NGO, thậm chí một hình thức tổ chức đối lập với chính quyền. Một số yếu
tố khác có thể là nguyên nhân của tình trạng này, trong đó bao gồm cả
việc thiếu chuyên gia làm việc cho các NHRIs, thiếu hiểu biết về vị trí,
vai trò, cơ chế tổ chức và hoạt động của các NHRIs nên chưa biết thành
lập và vận hành chúng như thế nào…
Một
câu hỏi đặt ra là Việt Nam có nên thành lập NHRIs không? Từ những phân
tích ở trên về NHRIs và tình hình thực tiễn trong nước, khu vực và quốc
tế, có thể thấy, việc thành lập một hoặc một số cơ quan có chức năng của
NHRIs hiện là cần thiết ở nước ta, vì những lý do sau:
Thứ nhất,
thúc đẩy, bảo vệ nhân quyền hiện vừa là một nghĩa vụ quốc tế, vừa là
một yêu cầu khách quan để bảo đảm sự tồn tại của các chính thể trên thế
giới. Để thực hiện việc này, cần phải có cơ chế và bộ máy phù hợp. Thực
tiễn trên thế giới cho thấy các NHRIs là một cấu phần không thể thiếu
trong cơ chế, bộ máy đó.
Thứ hai,
cũng như các nước khác, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phải giải
quyết ngày càng nhiều hơn các vấn đề về nhân quyền ở tất cả các cấp độ,
quốc gia, khu vực và quốc tế, đòi hỏi phải sớm hoàn thiện cơ chế, bộ máy
hiện có về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền mà hiện đang thiếu một cấu
phần cơ bản là các NHRIs.
Thứ ba,
với vị thế đặc biệt của nó, NHRIs là cơ quan hữu ích giúp nhà nước giải
quyết những yêu cầu khách quan, chủ quan kể trên, vì thiết chế này có
thể: (i) cung cấp những tư vấn và trợ giúp độc lập, khách quan, có tính
xây dựng cho nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền; (ii) đáp
ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, làm tăng uy tín của nhà nước trên trường
quốc tế; (iii) là đầu mối cung cấp thông tin khách quan, tin cậy cho
cộng đồng quốc tế về tình hình nhân quyền ở Việt Nam; (iv) làm trung
gian giúp giảm thiểu và hóa giải những bất đồng giữa chính phủ - xã hội
dân sự, chính phủ - tổ chức quốc tế trong vấn đề nhân quyền.
Việc
thành lập NHRIs của Việt Nam theo dạng thức nào đòi hỏi phải có thêm
những nghiên cứu chuyên sâu; tuy nhiên, có ba dạng thức có thể xem xét
(xếp theo thứ tự ưu tiên), đó là: (i) thành lập dưới dạng Cơ quan Thanh
tra Quốc hội; (ii) thành lập dưới dạng một Ủy ban nhân quyền; (iii) khôi
phục và/hoặc cải tổ một số ủy ban của Quốc hội và cơ quan của Chính phủ
(đã nêu ở trên) theo hướng để trở thành các cơ quan nhân quyền đặc
biệt. Đối với lựa chọn thứ hai (Ủy ban nhân quyền) có thể đặt dưới sự
quản lý của Quốc hội và Chính phủ, tuy nhiên, từ những đặc điểm, tính
chất của NHRIs như đã đề cập và phân tích trong bài viết này, việc đặt
dưới quyền Quốc hội tỏ ra phù hợp hơn6.
Điều
cuối cùng đó là việc thành lập NHRIs nên được quy định trong Hiến pháp.
Đó là bởi vị thế hiến định giúp khẳng định và tăng cường vị trí, vai
trò của thiết chế quan trọng này trong đời sống chính trị, xã hội của
đất nước. Đây cũng là một yêu cầu, gợi ý mới cho việc sửa đổi Hiến pháp
hiện hành năm 1992.
(1)
Xem United Nations, National Institutions for the Promotion and
Protection of Human Rights, Factsheet 19, tại
http://www.ohchr.org/Documents/Publications/FactSheet19en.pdf.
(2 Xem toàn văn văn kiện này (tiếng Anh) tại http://www2.ohchr.org/english/law/parisprinciples.htm.
(3)
OHCHR, Survey on NHRIs: Report on the Findings and Recommendation of a
Questionnaire Addressed to NHRIs Worldwide, Geneve, July 2009.
(4)
CCP khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã được ban hành trên thế
giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau Chiến tranh thế
giới II. Số liệu khảo sát ở mục này cập nhật đến ngày 22/5/2008. Xem dữ
liệu của CCP tại http://www.constitutionmaking.org/reports.html.
(5)
Điều này có thể là do nghiên cứu của OHCHR là nghiên cứu chọn mẫu nhằm
đa mục tiêu, với số lượng mẫu chọn ít hơn nhiều so với nghiên cứu của
CCP.
(6)
Việc nêu ra ba lựa chọn ở trên không hàm ý giới hạn về số lượng. Việt
Nam có thể thành lập nhiều hơn một NHRIs theo các dạng kể trên nếu có
các điều kiện khách quan, chủ quan phù hợp (trên thế giới đã có một số
quốc gia có hơn một NHRIs).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét