Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013
HỌC THUYẾT CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
17:29
Hoàng Phong Nhã
No comments
Đảng cộng sản Việt nam ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở nước ta những năm 20 của thế kỉ XX. 82 năm xây dựng và trưởng thành Đảng ta lấy học thuyết Mác-Lênin về Đảng làm nguyên tắc trong xây dựng Đảng, nhân kỉ niệm 82 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam tôi xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc một số quan điểm của Mác, Ph.Ăngghen và Lênin về Đảng.
I.QUAN ĐIỂM CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Tính tất yếu của sự ra đời của Đảng cộng sản
Để thực thành công sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp công nhân ở mỗi nước phải xây dựng được ở mỗi nước một chính đảng vô sản. Chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là sản phẩm của kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân.
Vào những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX, với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa. Do đó, mâu thuẫn giữa nó với quan hệ sản xuất ngày càng gay gắt, được biểu hiện qua những cuộc khủng hoảng thừa có chu kỳ, đẩy hàng loạt công nhân vào tình trạng thất nghiệp. Giai cấp công nhân bị bóc lột, bị bần cùng hóa đã không ngừng đấu tranh để sống còn, tiêu biểu như: phong trào Hiến chương Anh (1838 – 1848), Khởi nghĩa của công nhân dệt ở Li – ông (Pháp, 1831, 1834), khởi nghĩa của công nhân dệt ở Xilêdi (Đức, 1844). Khi phân tích những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân cùng với sự nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển hoàn chỉnh, Mác và Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất yếu của bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản; đồng thời chỉ ra một lực lượng có khả năng thực hiện sứ mệnh đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng một xã hội mới – xã hội cộng sản, đó là giai cấp vô sản. Đó là điều mà Mác và Ăngghen đã khẳng định trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Từ việc xác định vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, hai ông đã đi đến xác định sự cần thiết phải thành lập Đảng cách mạng của giai cấp vô sản, một Đảng độc lập của giai cấp mình. Hai ông viết: “Giai cấp vô sản muốn đủ mạnh và có thể giành được thắng lợi trong thời cơ quyết định thì nó phải thành lập một đảng đặc biệt khác với tất cả các đảng khác và tự coi mình là đảng của giai cấp”1. Tại Hội nghị quốc tế (1871) họp ở Luân đôn, Mác và Ăngghen một lần nữa khẳng định: “giai cấp công nhân chỉ có thể hành động với tính cách giai cấp khi được tổ chức lại thành một chính đảng độc lập đối với tất cả các đảng phái cũ do các giai cấp hữu sản lập ra; sự tổ chức ấy của giai cấp công nhân thành chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và đạt tới mục tiêu cuối cùng của nó là xóa bỏ giai cấp”2. Điều đó có nghĩa là, để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử đó của mình, giai cấp công nhân ở mỗi nước phải xây dựng được một chính đảng vô sản.
2. Những tư tưởng cơ bản của C. Mác và Ph. Ăngghen về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng cơ bản về Đảng cộng sản. Tư tưởng về Đảng cộng sản của các ông được bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tư cách Là người đào huyệt chôn chủ nghĩa TBCN, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại thoát khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng XH CSCN văn minh. Theo quan điểm của Ănghen, nội dung sứ mệnh lịch sử là: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản Hiện đại".
Tư tưởng này cũng được Mác và Ăng ghen đề cập trong tuyên ngôn đảng cộng sản “Giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều một tất yếu như nhau” Hai ông chỉ ra rằng, sự đối kháng lợi ích giữa các giai cấp là nguồn gốc tạo nên mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu tranh của giai cấp công nhân đi từ thấp đến cao theo chiều hướng phát triển của lịch sử, lúc đầu cuộc đấu tranh biểu hiện ra là cuộc đấu tranh kinh tế, khi giai cấp công nhân trưởng thành thì cuộc đấu tranh đó phát triển thành cuộc đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đạt đến trình độ nhất định nào đó sẽ ra đời chính đảng của mình. Giai cấp vô sản chỉ đủ sức cải tạo cách mạng thế giới khi có một chính đảng được vũ trang bằng lí luận khoa học, tư tưởng nói trên đã được trình bày trong tuyên ngôn thành lập hội liên hiệp công nhân quốc tế (1864): “Công nhân đã có một trong những yếu tố thành công là số lượng. nhưng số lượng chỉ giải quyết được vấn đề khi quần chúng được tổ chức lại và được sự hiểu biết chỉ đạo”
Để cuộc đấu tranh kinh tế phát triển thành cuộc đấu tranh chính trị thì giai cấp công nhân phải hiểu rõ vai trò của mình khi tiếp thu Chỉ khi tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận thức mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng giai cấp mình, cả xã hội và giải phóng nhân loại.
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản. Năm 1848, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của liên đoàn những người cộng sản- chính đảng của giai cấp công nhân ra đời đã soi sáng con đường đấu tranh của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân thực sự trưởng thành, thực sự trở thành một lực lượng chính trị độc lập trên vũ đài chính trị thế giới. Liên đoàn những người cộng sản ra đời là sự kết hợp của cúa lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính đảng độc lập, tách khỏi các đảng khác và đảng nhận thức rõ đảng là đảng của giai cấp, đảng là một bộ phận lãnh đạo giai cấp, không phải toàn bộ giai cấp. Tháng 9 năm 1871, nghị quyết của hội nghị liên hiệp công nhân quốc tế do C.Mác và Ph. Ăng ghen soạn thảo đã khẳng định: “để chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân chỉ có thể hành động với tính cách giai cấp khi được tổ chức lại thành một chính đảng độc lập với tất cả các đảng phái cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, sự tổ chức ấy của giai cấp công nhân thành chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và đạt tới mục tiêu cuối cùng của nó là xóa bỏ giai cấp” 1. Như vậy, muốn giai cấp vô sản thoát khỏi sự chi phối và ảnh hưởng của các chính đảng cũ thì biện pháp tốt nhất là ở mỗi nước phải xây dựng một chính đảng của giai cấp vô sản. Tư tưởng này của hai ông đã được trải qua thực tiễn cách mạng của công xã Pari năm 1871 và trở thành động lực thúc đẩy công tác xây dựng đảng cộng sản ở các nước.
Mặt khác, ngay từ những ngày đầu của phong trào công nhân quốc tế, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kêu gọi “hãy thành lập ở khắp các thành phố và làng mạc các hội liên hiệp công nhân”2. Hai ông cũng chỉ rõ: tổ chức đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng trên cơ sở khoa học nghiêm túc, theo những quy luật và những nguyên tắc chung của đảng cộng sản, đồng thời có chú ý đặc điểm riêng của từng đảng. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc xây dựng đảng với khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại” trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” mà hai ông đã viết năm 1848.
Về tính chất giai cấp của đảng cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: Đảng cộng sản là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản, luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản và đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Phải có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp vô sản mới có thể giành được thắng lợi. Nhiệm vụ trước hết của đảng là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ giai cấp thống trị giành lấy chính quyền. Song, nói Đảng cộng sản và giai cấp vô sản có mối quan hệ chặt chẽ, mục đích và lợi ích của Đảng công sảng và giai cấp vô sản là thống nhất, điều đó không có nghĩa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là một. C. Mác và Ph. Ăngghen đã vạch rõ sự khác nhau giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là ở chỗ: “… Về thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất, bao giờ cũng cổ vũ tiến lên của các đảng công nhân ở tất cả các nước.
Về lý luận, họ có ưu thế hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ có một nhận thức sáng suốt về điều kiện, bước tiến và kết quả chung của phong trào vô sản”1. Mục đích và lợi ích của đảng cộng sản và lợi ích của toàn bộ giai cấp vô sản là thống nhất. Đảng cộng sản chẳng những là một bộ phận, mà còn là đội tiên phong của giai cấp vô sản, trong cuộc đấu tranh lợi ích của giai cấp công nhân luôn gắn chặt và vì lợi ích chung của phong trào, lợi ích của giai cấp vô sản không có lợi ích nào khác ngời lợi ích chung của phong trào: “tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản” (1[1]) Không có Đảng cộng sản thì cách mạng không thể thành công, sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân không thể được hoàn thành.
Thời kỳ C.Mác và Ph.ăngghen, do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ còn hạn chế, các Đảng Cộng sản chưa phát triển, nên hai ông chưa có điều kiện nghiên cứu, xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về xây dựng Đảng. Tuy vậy, trong khi nêu lên những quan điểm về Đảng của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.ăngghen cũng đã đặt cơ sở cho việc xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.ăngghen đã trình bày không những quan điểm lý luận chung, mà còn nêu rõ mục đích, nhiệm vụ của Đảng, những cơ sở lý luận chung của chiến lược và sách lược đấu tranh cách mạng. Đó là những tư tưởng quan trọng trong việc xây dựng chính Đảng của giai cấp công nhân.
Về mặt tư tưởng, hai ông đã xác định rõ lập trường quan điểm của giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, trong tuyên ngôn các ông viết: “ trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, các giai cấp khác đều suy tàn hoặc tiêu vong với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiêp”….. “tất cả các phong trào trong lịch sử từ trước đến nayđều do thiểu số thực hiện hoặc mưu lợi ích cho thiểu số. phong trào vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đại đa số, mựu lợi ích ccho tuyệt đại đa số”. các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng đã vạch trần tính chất tả khuynh, cơ hội của một bộ phận của giai cấp công nhân bấy giờ, theo các ông chủ nghĩa Mác- Lê nin kiên quyết chống lại các thứ ấy trong phong trào cách mạng bởi vì Nó cổ vũ một thứ chủ nghĩa mơ hồ, làm tê liệt tư tưởng và ý chí đấu tranh của công nhân, nó làm cho phong trào công nhân đi vào con đường sai lầm, chia rẽ, mất đoàn kết, đưa phong trào đến chỗ thất bại.Theo Ph.Ăngghen, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, dưới bất kỳ biểu hiện nào của nó đều là cuộc “ đấu tranh sống mái” và có tính lâu dài Ph.Ăngghen còn lưu ý rằng, bọn cơ hội chủ nghĩa núp dưới khẩu hiệu ủng hộ chủ nghĩa Mác, dùng phương pháp lén lút sửa đổi, cắt xén làm cho chủ nghĩa Mác bị xuyên tạc để thích ứng với lợi ích của chúng. Những người theo chủ nghĩa cơ hội mồm thì nói chủ nghĩa Mác, danh nghĩa là người đại biểu cho lợi ích của công nhân và nhân dân lao động nhưng thực tế là bảo vệ lợi ích của bọn bóc lột, làm ảnh hưởng đến toàn bộ giai cấp mình.
Về thành phần xã hội của Đảng, được C. Mác đặc biệt quan tâm, theo ông ngoài giai cấp vô sản công nghiệp thì những người đứng trên lập trường tư tưởng và bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản thì đều được gia nhập Đảng của giai cấp vô sản, những đại biểu của tư sản và dân chủ tư sản muốn gia nhập đảng cộng sản thì phải từ bỏ quan điểm lập trường của giai cấp mình đứng về lạp trường của giai cấp vô sản. Trong tuyên ngôn các ông còn phân biệt rất rõ thái độ của các thành phần giai cấp từ đó giai cấp công nhân có thể kết nạp hoặc liên minh với các giai cấp khác trong hành động cách mạng. Trong quá trình hoạt động của mình các ông cũng chỉ ra trong hoạt động thực tiễn và thực tiễn đảng của giai cấp công nhân phải hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Mặc dù lúc bấy giờ (ngay cả trong Tuyên ngôn), C.Mác và Ph.ăngghen chưa có một định nghĩa về tập trung dân chủ, nhưng những ý tưởng về việc phát huy bản chất dân chủ, việc bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong một tổ chức Đảng đã được hai ông thể hiện khá rõ như vấn đề bầu cử, như việc quy định các cơ quan cấp dưới phải phục tùng các cơ quan cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, đặt việc phát huy dân chủ trong mối liên hệ chặt chẽ với tôn trọng kỷ luật của Đảng, một kỷ luật bắt buộc đối với tất cả mọi đảng viên.
Ngoài các vấn đề trên, hai ông còn nêu ra tư tưởng về bản chất quốc tế của đản, bản chất này bắt nguồn từ bản chất quốc của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, công nhân muốn giải phong cho mình thì trước hết phải giải phóng cho toàn thể nhân loại bị áp bức. đó cũng là tư tưởng chủ chốt của trong cương lĩnh đầu tiên của giai cấp công nhân. Từ vân đế trên C.Mác và Ăng ghen đi đến yêu cầu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”.
Những quan điểm trên của C.Mác và Ph.ăngghen thực sự nói lên bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, chỉ rõ Đảng là một đội tiền phong về tổ chức về lí luận của giai cấp vô sản. Tổ chức ấy bao gồm những người ưu tú nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp, những người đại biểu trung thành nhất với lợi ích của giai cấp vô sản (đương nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa là tách rời lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc), điều mà ngay trong tuyên ngôn, hai ông cũng đã nói rõ điều đó. Rằng “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.
Trên đây là những luận điểm chủ yếu của C.Mác và Ph.ăngghen về vấn đề xây dựng Đảng. Dẫu chưa thể coi là thật sự hoàn chỉnh (ngay bản thân những người sáng lập ra nó khi đánh giá về toàn bộ học thuyết của mình cũng đã thừa nhận như vậy), nhưng về cơ bản nó đã có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ sự phát triển sau này của phong trào công nhân quốc tế và chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập hàng loạt Đảng Cộng sản ở nhiều nước trên thế giới.
II. HỌC THUYẾT ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA V.I.LÊNIN
Lê nin là người kế tục vĩ đại sự nghiệp của Mác và ăngghen, chiến đấu trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc - thời kỳ mà cách mạng vô sản đã trở thành trực tiếp - và trong hoàn cảnh cụ thể của nước Nga, V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển những quan điểm rất cơ bản của Chủ nghĩa Mác về Đảng Cộng sản. Sự ra đời của Đảng Bônsêvích Nga - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và việc thành lập Quốc tế III- Quốc tế cộng sản, là sự thể hiện trên thực tế tư tưởng sáng tạo của Lênin về Đảng Cộng sản, từ đó đặt nền tảng cho xây dựng chính đảng thực sự của giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
1. Đảng là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất của của giai cấp công nhân
Để lãnh đạo và giáo dục quần chúng nhân dân trước hết đảng phải là đội tiên phong cả trong lí luận và thực tiễn. Đảng mang bản chất giai cấp công nhân cách mạng triệt để nên đảng phải xứng đáng là đội tiên phong có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất, cách mạng nhất và khoa học nhất. “ Không được lẫn lộn đảng tức đội tiên phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp”.
Đảng là một bộ phận của giai cấp, nhưng phải phân biệt Đảng với toàn bộ giai cấp. Đảng là bộ phận của giai cấp nhưng đó là bộ phận tiên phong chính trị của giai cấp, có tổ chức chặt chẽ, là người tự giác đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và giao dục, động viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Cho nên "không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp". Lênin cũng đã kịch liệt phê phán phái “Kinh tế” và bọn Men – sê – vích ở Nga, vì chúng đã sùng bái tính tự phát của phong trào công nhân và nhân dân lao động trong việc xây dựng đảng nên đã xóa nhòa ranh giới giữa đảng và giai cấp. Theo Lênin, đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, tiên phong về mặt lý luận và thực tiễn.
Vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện trước hết trên lĩnh vực lí luận Lênin chỉ rõ: "Chỉ có đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong"1. Đảng viên phải là những người ưu tú nhất, giác ngộ lí tưởng cộng sản , có trình độ nhất định về chủ nghĩa Mác-Lê nin nắm được đường lối, chính sách của Đảng. Bên cạnh đó, đảng viên phải thấu hiểu lợi ích mục đích và nhiệm vụ của giai cấp mình và đảng mình, lợi ích của toàn đảng thống nhât với lợi ích của toàn thể giai cấp.
Vai trò tiên phong về lí luận đòi hỏi đảng phải trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết khoa học, tôn tròng quy luật khách quan để đề ra chính sách đúng đắn và tổ chức thực hiện các chính sách nói trên đến thắng lợi hoàn toàn.
Vai trò tiên phong của đảng không chỉ thể hiện trên lĩnh vực lí luận mà còn trên lính vực thực tiễn. Chủ nghĩa Mác cho rằng: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên. Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”1. Đảng viên phải gương mẫu thực hiện các chủ trương, chính sách của đảng. Đảng phải được tổ chức chặt chẽ để đảm bảo là đội ngũ thống nhất chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh.
Ngay từ những năm đầu thành lập đảng, Lê nin đã thấy vai trò quyết định của cuẩ tổ chức của Đảng cộng sản. Năm 1893, ông bắt tay ngay vào công tác xây dựng Đảng. song việc xây dựng tổ chức không phải vì con người mà đặt ra bộ máy, mà vì nội dung, nhiệm vụ quy định cơ cấu tổ chức đó. Lê nin chỉ rõ: “Cơ cấu của bất cứ một cơ quan nào cụng do nội dung hoạt động của cơ quan đó quyết định ”
Mặt khác, khi có chính quyền, Đảng cộng sản phải là người giữ vai trò lãnh đạo xã hội, là người duy nhất lãnh đạo hệ thống tổ chức của Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng thời là một bộ phận của hệ thống tổ chức đó. Theo V. I. Lê-nin, về nguyên tắc, Đảng Cộng sản giữ vai trò định hướng phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Về mặt chính trị thì Đảng lãnh đạo mọi mặt hoạt động của Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội bằng đường lối và các chính sách của mình. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là sai lầm về nguyên tắc, bởi nếu vậy sẽ thủ tiêu sức mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống của nó, đồng thời còn mở đường cho các phần tử cơ hội phản động cướp chính quyền. Vì vậy, phải không ngừng công tác thanh tra đảng, củng cố chặt chễ các tổ chức đảng kiên trì tiến hành hàng loạt các nguyên tắc của đangtr nhằm đảm bảo cho sức chiến đấu và lãnh đạo sự nghiệm cách mang đến thắng lợi.
2. Chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng
Người viết: "Không thể có một Đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào phương pháp đấu tranh và phương sách hành động của họ"1, và khẳng định: “Chỉ có lý luận của chủ nghĩa Mác cách mạng mới có thể dùng làm ngọn cờ cho phong trào giai cấp của công nhân được, và Đảng dân chủ - xã hội Nga phải quan tâm phải phát triển hơn nữa việc thực hành lý luận đó, đồng thời bảo vệ nó”2.
Chủ nghĩa Mác là một hệt thông lí luận khoa học và cách mạng về xu hướng phát triển của xã hội loại người; về quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa và về sự tất yêu diệt vong của chủ nghĩa tư bản; về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nó là sự tổng kết kinh nghiệm và tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy tích luỹ được trong lịch sử phát triển của các nước, đặc biệt là kinh nghiệm của phong trào công nhân ở các nước châu Âu. Chỉ có dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, đảng vô sản cách mạng mới thực hiện thành công cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng xã hội. Song, chúng ta không thể coi lý luận của chủ nghĩa Mác như một cái gì đã xong xuôi và bất khả xâm phạm. Trái lại, lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mới mà mọi người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa nếu không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống luôn vận động và phát triển. V. I. Lê-nin viết: "Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga, đặc biệt phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của C. Mác vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung còn việc áp dụng những nguyên lý đó thì, xét riêng từng nơi: ở Anh không giống ở Nga, ở Pháp không giống ở Đức và ở Đức không giống ở Nga"3. Ông còn nhấn mạnh rằng, trong công tác của mình, các nhà lý luận Nga phải lấy phương pháp quý báu của chủ nghĩa Mác làm cơ sở nghiên cứu thực tiễn ở Nga. Bản thân lý luận của C. Mác không phải là một công thức buộc mọi người phải theo, mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động, là ngọn cờ cho phong trào của giai cấp công nhân. Lênin đã chỉ rõ:"Những công thức này bất quá chỉ có thể vạch ra được những nhiệm vụ chung, nhất định phải biến đổi tuỳ theo tình hình kinh tế và chính trị cụ thể", và "Hiện nay thực tiễn là tất cả…, lý luận trở nên sinh động nhờ thực tiễn, được sửa chữa bằng thực tiễn, được kiểm tra lại trong thực tiễn"1.
Ngày nay, khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, CNXH thế giới lâm vào thoái trào, nhưng một số nước theo con đường XHCN vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành đổi mới, cải cách, giành được những thành tựu mới, quan trọng, tiếp tục trụ vững và phát triển. Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và cánh tả đang có nhiều nỗ lực vượt qua thử thách để dần từng bước khôi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường XHCN, phong trào cộng sản và cánh tả vẫn gặp nhiều khó khăn gay gắt, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm mọi cách xóa bỏ CNXH. Trong đó, chiến lược "diễn biến hòa bình" được coi là biện pháp hữu hiệu hàng đầu, với mục tiêu xóa bỏ đi hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân- Chủ nghĩa Mác- Lê nin. Chúng coi xóa bỏ được chủ nghĩa Mác- Lê nin la xóa bỏ được hệ thống chủ nghĩa xã hội còn lại. Trong bối cảnh nói trên, các đảng cánh tả, các đảng cộng sản không ngừng xây dựng và chính đốn đảng, hoàn hiện tổ chức để đáp ứng vai trò lãnh đạo của đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
3.Đảng là người lãnh đạo, đồng thời cũng là một bộ phận của hệ thống chính trị
Là đội tiên phong giác ngộ, có tổ chức của giai cấp công nhân, Đảng nằm trong hệ thống chính trị xã của xã hội xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng là lực lượng có đầy đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy tín xứng đáng lãnh đạo xã hội, “Đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị boc lột để giúp họ tổ chức đời sống của họ”(
Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng đối với toàn xã hội thể hiện ở chỗ, Đảng được vũ trang bằng lí luận tiên tiến, cách mạng, khoa học và luôn xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, để đề ra chương trì hành động phù hợp đưa cách mạng đến thành công.
Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị thông qua đường lối và các chính sách chung của Đảng. Thông qua các tổ chức đảng, cùng với các hoạt động của cán bộ và đảng viên của đảng hoạt động trong các cơ quan của bộ máy nhà nước và các tổ chức quần chúng những chủ trương, và chính sách của đảng được cụ thể hóa thành các chính sách, những định chế pháp lí trong thực tiễn.
Đảng lãnh đạo của đảng hệ thống chính trị, nhưng là bộ phận của của nó nên hoạt động của Đảng phải tuân theo khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Sự hoạt động của đảng phải gắn liền với sự phát huy hiệu lực quản lí của nhà nước và vai trò của các tổ chức quần chúng. Đảng phải phê phán thói chuyên quyền, độc đoán, không bao biện và làm thay các chức năng của nhà nước đặc biệt trong giai đoạn Đảng cầm quyền. đồng thời Đảng cũng phải đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn, chống mọi sự buông lỏng và vai trò lãnh đạo của Đảng
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng cộng sản.
Quá trình đấu tranh lâu dài của cách mạng trong những điều kiện lịch sử khác nhau, nguyên tắc tập trung dân chủ đã được các đảng cộng sản công nhận là nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng, là một trong những tiêu chí chủ yếu để xem xét, đánh giá một đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
Khái niệm “tập trung” và “dân chủ” là hai khai niệm có nội hàm riêng, song nguyên tắc “Tập trung dân chủ” hai khái niệm này không tách dời nhau, chúng kết hợp chặt chẽ và thống nhất biện chứng với nhau.
Tháng 3-1906, trong đề cương sách lược gửi đại hội đại biểu thống nhất của đảng dân chủ - xã hội nga, Lê nin đã nhấn mạng nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc thống nhất chung hiện nay. Tháng 11-1906, tại Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng dân chủ - xã hội Nga, V.I. Lênin đã trình bày "Cương lĩnh hành động" của Đảng và các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Người đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc: “Tất cả các tổ chức Đảng đều phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ"(19). Đây là, nguyên tắc tổ chức quan trọng bậc nhất trong công tác xây dựng Đảng kiểu mới. Nguyên tắc này đã được Các Mác và Ph.Ănghen nêu ra trong “Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản” (1847) và các văn kiện của “Hội liên hiệp công nhân quốc tế” (1864). Sau này, cùng với việc phát triển toàn diện nguyên tắc tập trung dân chủ, V. I. Lê nin có tính đến những kinh nghiệm của phong trào công nhân và những điều kiện lịch sử đã thay đổi. Người cho rằng: “Thực chất của nguyên tắc này, là sự kết hợp hữu cơ giữa chế độ tập trung với chế độ dân chủ triệt để vốn có trong bản chất chính trị -xã hội của giai cấp công nhân bắt nguồn từ những đòi hỏi của nền sản xuất đại công nghiệp"1. Đồng thời, V.I. Lênin khẳng định: nếu không có chế độ tập trung dân chủ thì Đảng không thể là một đội ngũ tiền phong chiến đấu, thống nhất và Đảng không tránh khỏi bị chia thành những bộ phận riêng lẻ, tản mạn, mang tính cục bộ, bản vị.
Nguyên tác tập trung dân chủ theo lê nin thể hiện ở một số diểm chính sau: thứ nhất, thực hiện kỉ luật chặt chẽ, thống nhất trong đảng, thiểu số phải phục tục đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tổ chức cấp dưới và toàn thể đảng viên phải chấp hành nghị quyết quyết của đảng, phục tùng sự lạnh lãnh đạo của ban chấp hành trung ương. Hai là, thự hiện dân chủ trên cơ sở đấu tranh tư tưởng trong đảng, đấu tranh là răng cường giáo dục chính trị cho giai cấp câng nhân và ngăn chặn mọi sai lệch về trư tưởng. lê nin chỉ rõ: “không sợ cuộc đấu tranh trong tư tưởng nội bộ, song tổ chức đảng thống nhất, phải thời lại có sự đấu tranh thuần túy về tư tưởng giữa các trào lưu dân chủ- xã hội khác nhau trong nội bộ tổ chức ấy”. Ba là, nguyên tắc tập trung dân chủ được cụ thể hóa ở những nội dung là: Đảng viên chính thức có quyền bầu, bại nhiệm , các cơ quan lãnh đạo các cấp, công việc của đảng phải do toàn thể đảng viên giải quyết một cách bình đảng giản tiếp hoặc gián tiếp….
Có thể nói, tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt và mọi hoạt động của Đảng; Nó thể hiện bản chất và sự sống còn của Đảng; còn là tiêu chí để phân biệt chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân - Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Người nói: "Cách mạng không thể phát triển được nếu không trải qua một thời kỳ mà mọi người cùng nhau thảo luận rộng rãi về tất cả mọi vấn đề". Vì thế, V.I. Lênin coi việc phủ nhận chế độ tập trung dân chủ là phủ nhận tính tổ chức và kỷ luật của Đảng, là rơi vào chủ nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức và xây dựng Đảng, không có khả năng vạch ra một cương lĩnh hành động thống nhất, không có sức mạnh để tổ chức thực hiện Cương lĩnh ấy, không đủ uy tín để giành được sự đồng tình của quần chúng trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, để xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thành công cuối cùng của mình.
V.I. Lênin cũng chỉ rõ mối liên hệ hữu cơ giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Mối liên hệ này, xác định lãnh đạo tập thể cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng: "Dầu sao và dầu trong trường hợp nào đi nữa, việc tập thể lãnh đạo cũng cần phải đi đôi với việc cá nhân phụ trách đã được quy định một cách rõ rệt cho từng người đối với một công tác nào đó được quy định một cách chính xác".
V. I. Lênin cũng xem việc tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những phong cách của người lãnh đạo. Đồng thời, V.I. Lê nin cũng nhấn mạnh: “Thảo luận thì thảo luận chung, nhưng trách nhiệm là của từng người"; " Chế độ tập thể lãnh đạo là cần thiết trong việc thảo luận các vấn đề cơ bản thì cũng cần có chế độ trách nhiệm cá nhân và cá nhân điều khiển để tránh hiện tượng trốn tránh trách nhiệm"1. Cũng về vấn đề này, Người dạy: "Lãnh đạo tập thể là điều cần thiết để giải quyết các công việc của Nhà nước công nông.
Nhưng mọi sự thái quá về lãnh đạo tập thể, mọi sự lệch lạc đưa đến tình trạng chậm chạp quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm, lấy cớ lãnh đạo tập thể, đó là một tai hại nguy hiểm nhất"1.
Trong hai nguyên tắc “ tập trung” và “dân chủ” thì nguyên tắc tập trung hóa là xu hướng của mọi tổ chức. vì vậy những người mác xít nhấn mạnh nhiều hơn đến vấn đề dân chủ hóa. Bởi vì, dân chủ là hạt nhân của việc xây dựng nề dân chủ xã hội chủ nghĩa, muốn thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thành công thì trước hết phải thực hiện dân chủ trong đảng, dân chủ trong đảng sẽ chống được tình trạng quan liêu trong hành động , đực biệt khi đảng đảng năm chính quyền, dân chủ trong đảng là cơ hội để toàn thể đảng viên đóng góp xây dựng đảng lớn mạnh.
5. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Lênin đã đề ra các nguyên tắc xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, trong đó đoàn kết thống nhất trong đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và sinh hoạt là nhân tố bảo đảm sự sống còn của Đảng cộng sản, hạt nhân của đoàn kết quốc tế. Theo Lênin, muốn đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi, Đảng cộng sản "phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối"2.Bởi vì, đó là nguồn gốc sức mạnh vô địch của Đảng. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là điều kiện để đoàn kết giai cấp công nhân, là mục tiêu hàng đầu của việc xây dựng và củng cố Đảng là nhằm xây dựng và củng cố sự thống nhất đội ngũ của đảng.
Đoàn kết thống nhất trong đảng bắt nguồn từ bản chất cách mạng của đảng. mà cơ của sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức chính trị là sự thống nhất về lợi ích kinh tế. Nói cách khác, sự thống nhất về lợi ích kinh tế là nhân tố quyết định sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự thống
nhất về lợi ích kinh tế và chính trị, tư tưởng được thể hiện một cách cô đọng ở sự thống nhất về chính trị – xã hội. V. I. Lênin cho rằng, sự thống nhất về chính trị và hành động là điều kiện quyết định hình thành bộ mặt chính trị - tư tưởng mới của Đảng cộng sản, mà nét tiêu biểu là lòng trung thành với chủ nghĩa Mác, tính tích cực chính trị của việc ủng hộ, nhất trí với Đảng cộng sản. Thực tiễn phong trào công nhân cho thấy, C. Mác và Ph. Ăng-ghen từng kiên trì đấu tranh cho sự đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cả về lý luận và thực tiễn, hai ông đã làm hết sức mình để thực hiện khẩu hiệu "Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại". Sang đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới, V. I. Lê-nin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng cộng sản. Người đưa ra khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Nhưng đoàn kết thống nhất trong đảng chỉ có thể là kết quả của sự hoạt động tích cực và tự giác và sự phấn đấu không mệt mỏi của các thành viên trong đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc xây dựng đảng, nó là cội nguồn sức mạng vô địch của Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn giai cấp. Trong tác phẩm Các công liên, Ăngghen chỉ rõ “không có lực lượng nào trên thế giới lại có thể đương dầu nổi một ngày với giai cấp công nhân anh được tổ chức thành một khối”. vì “sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên chủ nghĩa Mác, được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của việc tổ chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của giai cấp công nhân”. Đoàn kết trong Đảng luôn là tấm gương và là hạt nhân của đoàn kết giai cấp, đoàn kết nhân dân trong cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Kinh nghiệm của tất cả các cuộc cách mạng cho thấy rằng, “ trong tình hình sự thống nhất, lực lượng và ảnh hưởng của đội tiên phong cách mạng của giai cấp vô sản bị giảm sút dù chỉ một chút thì những dao động ấy không thể dẫn tới kết quả nào khác hơn là sự phục hồi lại chính quyền và chế độ tư hữu của bon tư bản và địa chủ” vì vậy, lê nin cho rằng hành động chia rẽ bè phái trong tổ chức là tội các lớn nhất đối với cách mạng.
Để xây dựng và củng cố khối đoàn kết trong đảng thì có nhiều biện pháp nhưng theo V. I. Lênin, trong các biện pháp để tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng cộng sản, nhất là khi có những đảng viên mắc phải sai lầm, khuyết điểm về phẩm chất đạo đức, tác phong, thì thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nhất, bởi nó có tác dụng phát hiện, giải quyết mâu thuẫn đối với từng cá nhân, từng tổ chức và cả hệ thống của Đảng. Người nhấn mạnh, thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Nếu đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chuẩn đoán một cách thẳng tay và tìm cách cứu chữa bệnh đó thì đảng đó không xứng đáng được người ta tôn trọng. Còn việc công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm và đưa ra biện pháp để sửa chữa sai lầm là dấu hiệu chứng tỏ Đảng rất nghiêm túc. Song, tự phê bình và phê bình phải có tính đảng, tính giáo dục và tính nguyên tắc cao, tự phê bình và phê bình là nhằm tăng cường sự thống nhất trong Đảng,nâng cao mối quan hệ chặt chẽ, máu thịt giữa đảng với quần chúng nhân dân, chứ không phải tạo ra bè phái để chia rẽ nội bộ Đảng; nhằm tăng cường giữ vững mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức đảng. Tự phê bình và phê bình là một nội dung thường xuyên trong sinh hoạt đảng.
Trong điều kiện có chính quyền, đảng phải kiên quyết ngăn chặn tình trạng hiện tượng trù dập, đàn áp người phê bìn, nể nang, thành tích chủ nghĩa, che giấu khuyết điểm, coi phê bình và tự phê bình là dịp để đả kích lẫn nhau đi đến chia rẽ bè phái trong đảng. phê bình chỉ hiệu quả trên cở sở phát huy dân chủ, công khai, có nguyên tắc trên tình đồng chí.
6. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết ngăn ngừa và đấu tranh chống bệnh quan liêu, xa rời quần chúng
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác: "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", V. I. Lênin khẳng định: Đảng cộng sản phải có hệ thống tổ chức sâu rộng từ trung ương đến địa phương, cơ sở để giữ vững và phát triển mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân. Công nhân, nông dân, và các lực lượng khác trong xã hội cần có Đảng lãnh đạo, tổ chức giáo dục, huấn luyện trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng xã hội khỏi sự áp bức bóc lột và nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng: "những người cộng sản chỉ như những hạt cát trong đại dương mênh mông". Bởi vậy, nếu họ không có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không thể trở thành hiện thực. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Nếu cho rằng chỉ riêng Đảng với sức mạnh của mình có thể xây dựng được xã hội mới, là phạm sai lầm nghiêm trọng. Lênin cho rằng việc cắt đứt liên hệ với quần chúng là một trong những tai họa lớn nhất đối với đảng, có khả năng bóp chết sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, khi nắm chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, nhưng cũng dễ nảy sinh nhiều "căn bệnh" (quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng… ) làm cho đảng viên thoái hoá biến chất, xa rời quần chúng. Đó là nguyên nhân căn bản làm cho Đảng suy yếu.
.7. Đảng làm tốt công tác phát triển và thanh Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò tiên phong ấy nếu trong đảng trước hết chỉ bao gồm những chiến sĩ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú cuả giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng là biện pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng của Đảng, là điều kiện vô cùng trọng yếu để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Ở mỗi thời kì cách mạng, đều không tránh khỏi có một số đảng viên cộng sản không giữ được vai trò tiên phong do hạn chế về trình độ nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn, không kiên định lập trường chính trị, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, tha hoá biến chất, quan liêu, tham nhũng, cơ hội, đặc quyền đặc lợi…đặc biệt là trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, thì phải bị khai trừ khỏi Đảng. V. I. Lênin yêu cầu "Cần đề ra một số biện pháp làm cho Đảng có thể gạt ra khỏi Đảng một cách dễ dàng hơn những đảng viên nào hoàn toàn không phải là đảng viên cộng sản" và Người kêu gọi: “Nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ tính vững chắc, tính kiên định, tính trong sạch của Đảng ta. Chúng ta phải cố gắng làm cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng viên ngày càng cao lên mãi”1.
Theo Lê nin, phát triển và thanh đảng cần phải quán triệt một số nguyên tăc sau:
Thứ nhất, phải coi trọng chất lượng Đảng viên. Sức mạng của Đảng “không phải được quyết định bởi số lượng Đảng viên, mà bởi uy tín to lớn vô song của cái bộ phận đảng viên ít ỏi mà người ta gọi là đội cận vệ kì cựu trong Đảng”1, trong những năm nội chiến, Lê nin chủ trương chỉ kết nạp vào đảng những người tự nguyện chiến đấu ở tiền tuyến, và những người lao động giỏi ở hậu phương.
Theo Lê nin, đảng viên phải là những người ưu tú nhất của phong trào công nhân và phong trào lao động xã hội khác. Tăng số lượng đảng viên nhưng phải chú trọng đến chất lượng đảng viên. Theo Lê nin “những đảng viên hữu danh vô thực thi cho chúng ta, chúng ta cũng không cần”2 chúng ta cần những người cộng sản chân chính, phát triển đảng viên không chỉ để quảng cáo, mà để nâng cao sức chiến đấu cho tổ chức đảng. Đảng viên ngoài ưu tú trong phong trào sản xuất, văn hóa xã hội, đảng viên phải là người đi đầu trong đoàn kết và tập hợp nhân dân.
Thứ hai, chống thành phần chủ nghĩa trong đảng. Thành phần giai cấp trong đảng bao giờ cũng là một vấn đề hết sức phức tạp. Theo chủ nghĩa Mác- Lê nin, Đảng cộng sản là của giai cấp công nhân, nên đảng phải thu nhận những người nào tiên tiến nhất trong phong trào công nhân. Nhưng phải hiểu đầy đủ về khái niệm thế nào là giai cấp công nhân,. Đồng thời, phải nhận thức rõ yếu tố quyết định giác ngộ giai cấp. Thành phần giai cấp không phải là yếu tố quyết định tính giai cấp của Đảng, yếu tố quyết định tính giai cấp trong Đảng là lập trường, quan điểm giai cấp của Đảng đó.
Thứ ba, Coi trọng dự bị Đảng viên. “Thời gian dự bị đảng viên là rất quan trọng”3 vì thời gian dự bị chính là thời gian đảng viên chứng tỏ phẩm chất của mình, tuyệt đối không được coi nó là một quy định đơn thuần mang tính hình thức.
Thứ tư, phải thực hiện thanh đảng. Cùng với việc kết nạp những đại biểu ưu tú vào đảng thì vấn đề thực xuyên thanh đảng là vấn đề trọng yếu để làm cho đảng trong sạch, vững mạnh.
Tháng 9-1921, V.I.Lê-nin viết bài báo "Về vấn đề thanh Đảng". Người chỉ ra rằng, thanh Đảng là vấn đề nghiêm túc, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng CNDCXH Nga. Muốn tiến hành thắng lợi, Đảng không có cách nào khác là phải dựa vào nhân dân, bằng kinh nghiệm của công nhân ngoài Đảng và dựa vào các tổ chức Xô viết. Theo V.I.Lê-nin, "Với sự nhạy cảm rất tài tình, quần chúng cần lao nắm được sự khác nhau giữa những người đảng viên cộng sản trung thực, tận tuỵ và những kẻ đang làm cho những người sinh sống bằng mồ hôi nước mắt của mình, những người không có chút đặc quyền đặc lợi, không có "đường thăng quan tiến chức" phải chán ghét”1.
Trong cuộc thanh Đảng do V.I.Lê-nin khởi xướng và lãnh đạo vào năm 1921, Đảng CNDCXH Nga đã đưa ra khỏi đảng 170.000 người, chiếm 25% tổng số đảng viên, giúp Đảng giữ vững được vai trò tiên phong trong lãnh đạo đất nước và đã vượt qua mọi khó khăn vào những năm đầu sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
V.I.Lê-nin khẳng định, thanh Đảng "sẽ làm cho Đảng trở thành một đội tiên phong của giai cấp vô sản vững mạnh hơn trước nhiều; nó sẽ làm cho Đảng trở thành đội tiên phong có liên hệ vững chắc hơn với giai cấp ấy, có khả năng hơn để đưa giai cấp ấy đi đến thắng lợi, giữa muôn vàn khó khăn và nguy hiểm"2.
Trong bài báo Bàn về cải tổ, V.I.Lê-nin viết từ tháng 11-1905, cũng đã khẳng định: “Nếu Đảng không khác gì quần chúng thì Đảng sẽ hoà tan trong quần chúng và Đảng không còn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp, mà đã tự hạ mình xuống thành cái đuôi của quần chúng”3.
Để nhiệm vụ thanh Đảng thực sự mang lại hiệu quả, V.I.Lê-nin cho rằng, Đảng phải biết sử dụng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó có một biện pháp rất quan trọng không thể thiếu được là phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng nhân dân, đồng thời phải có sự chỉ đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng.
8.Tính chất quốc tế của Đảng cộng sản.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. bản chất đó bắt nguồn từ tính chất thế giới của giai cấp công nhân.
Tính chất quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác- Lê nin về Đảng, ở đường lối đối nội, chính sách ngoại giao của quốc gia dân tộc.
Trên đây, là những quan điểm cơ bản về đảng kiểu mới của Lê nin. Học thuyết về đảng kiểu mới là sự đóng góp vào kho tàng lí luận của nhân loại, mặc dù đã trải qua hơn trăm năm nhưng nó vẫn là vấn đè có tính chất thời sự và ý nghĩa to lớn đối với các nước, các đảng cộng sản trong công cuộc đổi mới đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã thu được thắng lợi to lớn và toàn diện về mọi mặt. Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta cho thấy, mọi thành công hay thất bại đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Bất cứ nơi nào vận dụng các nguyên lí mác xít lê nin nít về đảng một cách giáo điều, vi phạm các nguyên tắc về đảng một cách giáo điều thì trước sau cũng vi phạm và sai lầm.
Hiện nay, các phần tử xét lại, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận giá trị học thuyết Mác- Lê nin về đảng, nghiên cứu học thuyết đó là cơ sở để chúng ta vận dụng sáng tạo học thuyết về đảng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong cuôc cuộc đổi mới hiện nay, việc quán triệt các nguyên tăc xây dựng đảng càng có ý nghĩa to lớn ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin về Đảng cộng sản. Nxb CTQG, Hà Nội 2007.
2. Giáo trình xây dựng đảng- Học viện chính tri hành chính quốc gia.
3. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa hoc. Nxb CTQG, Hn 2006.
4. V.I.Lênin, TT, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4
5. Bài báo vấn đề thanh đảng của V.I. Lê nin : “bài học quan trọng trong xây dựng và chỉnh đốn đảng”- Ths. Đàm Thiện Cầu- Trường chính trị Hoàng Đình Giong- Cao Bằng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét