Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013
Thế kỷ 21 - Karl Marx đã chết?
13:33
Hoàng Phong Nhã
No comments
Cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21,
lịch sử nhân loại đã diễn ra với nhiều biến cố bất ngờ, từ sự sụp đổ của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đến sự thoái trào
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Nhân đó, đã có nhiều công trình, bài
viết tuyên bố về cái chết của triết học Marx , chủ nghĩa Marx và chủ
nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của Marx . Song, thực tiễn lịch
sử đã cho thấy, với bản chất cách mạng và khoa học, triết học Marx , chủ
nghĩa Marx và chủ nghĩa cộng sản dựa trên các học thuyết của K. Marx
không những không chết, mà còn trường tồn với nhân loại ở thê kỷ XXI.
Rằng, những di sản lý luận của K. Marxđã trở thành tài sản chung của cả
nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã từng là đề tài của những cuốn sách, bài báo mà
trong đó, các tác giả của chúng đều có một cái đích chung là "chứng
minh" về cái chết của chủ nghĩa Marx , về cái chết của chủ nghĩa cộng
sản dựa trên các học thuyết của K. Marx. Nổi bật trong số các cuốn sách
loại đó phải nói đến cuốn Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối
cùng của Francis Fukuyama xuất bản tại New york năm 1992.
Theo sự so sánh của Jacques Derida - nhà
triết học người Pháp, một trong những nhà triết học phương Tây nổi
tiếng thế giới ở thế kỷ XX, trong cuốn Những bóng ma của Marx (Spectres
de Marx), thì lúc đó, ở phương Tây, "người ta mua cuốn sách này như một
bà nội trợ xô vào mua đường và dầu, khi có những tin đồn đầu tiên về
chiến tranh". Bên cạnh nhiều đánh giá khác của Jacques Derida về cuốn
sách trên của Francis Fukuyama, thì những đánh giá sau đây của ông quả
thật rất đáng lưu ý: "Nếu một luận thuyết kiểu như luận thuyết của
Fukuyama đóng một cách có hiệu quả vai trò gây mơ hồ và vai trò phủ nhận
sầu thảm gấp đôi mà người ta chờ đợi ở nó, thì nó đã làm một trò lừa
gạt một cách khôn khéo đối với một số người này và thô bạo đối với một
số người khác". Hoặc: "Phải thừa nhận là quyển sách này mang sắc thái
tinh vi hơn, đôi khi để lửng, thậm chí đến mức mập mờ...". Nói cách
khác, người ta không thể không nghi ngờ về tính khách quan và tính khoa
học của cuốn sách trên của Fukuyama. Không ai có thể phủ nhận một sự
thật là Liên Xô và khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ chủ nghĩa xã
hội đã bị một tổn thất hết sức nặng nề. Nhưng từ sự sụp đổ đó mà rút ra
kết luận rằng, học thuyết của K. Marxđã chết, triết họK. Marxđã chết,
chủ nghĩa cộng sản đã chết thì thật là một sự vui mừng quá sớm, là một
sai lầm, nếu không muốn nói là do những động cơ không trong sáng, hay
nặng hơn, là do sự thù ghét cay độc đối với K. Marx và các học thuyết
của ông. Hãy khoan nói đến ở đây những nguyên nhân gây ra sự sụp đổ đó
của Liên Xô và các nước Đông Âu với tính cách một mô hình, một kiểu chủ
nghĩa xã hội đã được người đời sau thiết kế theo sự hiểu biết, sự giả
định, một sự mong muốn chủ quan của mình nhưng lại mệnh danh, hoặc tưởng
rằng, đã làm theo đúng chỉ dẫn của K. Marx, là xuất phát từ K. Marx, là
trung thành tuyệt đối với C Marx , bởi những nguyên nhân gây nên sự sụp
đổ ấy thì có rất nhiều và cần phải được mổ xẻ trong một dịp khác.
Trong dịp Kỷ niệm 190 năm Ngày sinh K.
Marx(05/05/1818 - 05/05/2008), chúng ta hãy chỉ đề cập một cách hết sức
vắn tắt đến các học thuyết cơ bản của K. Marx, chẳng hạn như quan niệm
duy vật về lịch sử hay học thuyết về giá trị thặng dư, chứ chưa nói đến
rất nhiều những tư tưởng vượt thời đại khác của ông đã hợp thành chủ
nghĩa mang tên ông, để có một cái nhìn thật sự khách quan, thật sự khoa
học, thật sự tôn trọng K. Marx.
Trước hết, chúng ta hãy nhớ lại một luận
điểm nổi tiếng mà người tiền bối vĩ đại của K. Marx đã đưa ra trong
lĩnh vực triết học, người đã được K. Marx cải tạo theo lối duy vật, đã
kế thừa và vượt qua. Đó chính là luận điểm được Hê-ghen trình bày trong
Những bài giảng về lịch sử triết học của ông. Hê ghen viết: "Triết học
hiện đại là kết quả của tất cả những nguyên lý có từ trước đó, như vậy,
không có một hệ thống nào bị lật đổ, không phải nguyên lý của triết học
đó bị lật đổ mà chỉ có sự giả định rằng, nguyên lý đó là định nghĩa
tuyệt đối cuối cùng bị lật đổ mà thôi".
Câu nói đó của Hê ghen hoàn toàn có thể
vận dụng vào trường hợp của K. Marx. Điều đó có nghĩa là, một học
thuyết, một hệ thống triết học hay một học thuyết xã hội nào đó, nếu là
kết quả của sự tổng kết khoa học về lịch sử, là sự đúc rút từ các nguyên
lý khoa học có từ trước đó mà không bị tuyệt đối hoá đến mức giáo điều,
không bị làm cho khô cứng đi thì không bao giờ nó mất hết các giá trị,
không bao giờ bị sụp đổ hoàn toàn. Điều đó cũng rất dễ hiểu. Không có
một lý thuyết nào là tuyệt đối đúng cho mọi thời đại, trong mọi điều
kiện lịch sử, bởi chân lý là một quá trình, chân lý nằm trong quá trình
và việc đạt đến chân lý cũng là một quá trình. Các tư tưởng, các học
thuyết của K. Marx về triết học, về xã hội, về kinh tế, về con người, về
khoa học và kỹ thuật, v.v. vốn là kết quả của một sự nghiên cứu, phê
phán, tiếp thu, vượt bỏ những thiên tài trước ông, tính từ thời Cổ đại
cho đến tận L.Phoiơbắc, của sự khái quát lý luận và tổng kết thực tiễn
cực kỳ sôi động thế giới lúc bấy giờ, và trên hết là sự sáng tạo tuyệt
vời của một bộ óc thiên tài, của một trong những vĩ nhân vĩ đại nhất, có
ảnh hưởng to lớn nhất trong mọi thời đại của nhân loại, như một cuộc
thăm dò dư luận phương Tây cuối thế kỷ XX đã cho thấy. Những tiền đề
xuất phát để K. Marxrút ra các kết luận lý luận "không phải là những
tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề hiện thực
mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi... Những tiền
đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần tuý.
Do vậy, những tư tưởng và những học thuyết của K. Marxhoàn toàn và tuyệt
nhiên không phải là những "ảo tưởng chủ quan", không phải là "duy ý
chí" như những người phê phán K. Marx đã cố tình gán ghép.
Chúng ta đều biết rằng, do không thỏa
mãn với các cách giải thích khác nhau của những người đi trước mình về
lịch sử xã hội loài người, nên K. Marx đã kiên trì đi tìm và đã tìm ra
"những điều bí ẩn của lịch sử", "chủ thể của lịch sử và chìa khóa của
lịch sử đích thực". Với K. Marx, cái thúc đẩy sự vận động của lịch sử
không phải là sức mạnh siêu tự nhiên, cũng không phải là những tư tưởng
hay ý chí của con người, của các vĩ nhân, mà chính là sản xuất vật chất,
là những lợi ích vật chất, còn chính quần chúng nhân dân mới là những
người sáng tạo chân chính ra lịch sử của mình.
Quan điểm mang tính chất nền tảng đó có
quan hệ chặt chẽ với quan niệm về sự phát triển của lực lượng sản xuất
và vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của
mọi hình thái xã hội từ trước cho đến nay. Với C Marx , không những các
hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là một quá trình lịch sử - tự
nhiên, mà sự thay thế các hình thái đó cũng là một quá trình lịch sử -
tự nhiên. Điều đó có nghĩa rằng, khi đã là một quá trình lịch sử - tự
nhiên thì con người hoàn toàn có thể khám phá được, có thể nhận thức
được, có thể nắm được và vận dụng được các quy luật vận động của nó. Và,
K. Marxđã chứng minh điều đó một cách tài tình, vừa khoa học, vừa hết
sức thuyết phục trong nhiều công trình, đặc biệt là trong bộ Tư bản -
một công trình của suốt cả cuộc đời C Marx , rằng hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa, sớm hay muộn, tất yếu sẽ bị thay thế bằng một
phương thức sản xuất tiên tiến hơn, phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa, bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội sẽ đến một lúc
không còn có thể chứa đựng trong các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
nữa. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử.
Tuy nhiên, khi khẳng định như vậy, K.
Marxkhông hề xác định thời điểm cụ thể về sự thay thế đó hay về thời
điểm diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đáng tiếc là những người lãnh đạo
và các nhà lý luận đi sau K. Marx, do quá say sưa với thắng lợi và sự
lớn mạnh một thời của chủ nghĩa xã hội trên quy mô thế giới, dường như
muốn thúc đẩy nhanh "cái chết" đó của chủ nghĩa tư bản nên đã không đủ
tỉnh táo để thấy rằng chính K. Marx, ngay trong Lời tựa viết cho lần
xuất bản đầu tiên tập I bộ Tư bản, đã nhận ra rằng, xã hội tư bản "hoàn
toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có khả
năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi". Rõ ràng, một xã
hội, cũng như một cơ thể sống, khi còn có khả năng biến đổi và đang
trong quá trình biến đổi thì có nghĩa là cơ thể đó còn có khả năng thích
nghi, nó chưa thể chết ngay. Về điều này, K. Marx cũng đã từng nói
rằng, "không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những
lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát
triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng
không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của
những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên,
nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể
giải quyết được vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản
thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất để giải quyết
nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong quá trình hình
thành".
Lịch sử nhân loại thế kỷ XX và hiện nay
đã hoàn toàn xác nhận những chỉ dẫn hết sức tinh tường đó của K. Marx.
Hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện đại vẫn đang còn sức sống, đang thể hiện
sức mạnh thực sự của nó ở những mặt nhất định và đang chi phối khá mạnh
nền chính trị và kinh tế thế giới, chứ chưa phải đã đến lúc lịch sử của
nó kết thúc. Hệ thống đó vẫn đang có khả năng thích nghi, tự điều chỉnh
và tiếp tục phát triển. Không thể không thấy điều đó. Vậy, liệu có thể
từ đó mà rút ra kết luận rằng, chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng, là bất tử,
là tương lai duy nhất của nhân loại hay không? Không. Hoàn toàn không
thể! Mọi sự biện hộ theo kiểu đó đều không có cơ sở. Chủ nghĩa tư bản
toàn cầu hoá hiện nay mà K. Marx đã từng dự báo về sự ra đời của nó, với
sức mạnh của nó và với cả những mâu thuẫn nội tại mà tự thân nó không
thể nào giải quyết được, là bước chuẩn bị cho sự thay thế nó trong tương
lai, tức là các điều kiện chuẩn bị cho sự thay thế đó đang trong quá
trình hình thành ở ngay trong chính bản thân nó. Lịch sử không bao giờ
ngừng lại, không bao giờ ngưng đọng. Biện chứng của lịch sử chính là như
vậy và sẽ mãi mãi là như vậy. Những bí mật làm giàu của các nhà tư bản
và sự bần cùng của người lao động cũng đã từng là một bí mật của lịch sử
đã được chính K. Marx khám phá ra nhờ học thuyết về giá trị thặng dư.
Việc phát hiện ra học thuyết này là "công lao lịch sử vĩ đại nhất lao
động của Marx . Nó chiếu sáng rực rỡ lên những lĩnh vực kinh tế mà trước
kia những nhà xã hội chủ nghĩa cũng mò mẫm trong bóng tôi không kém gì
những nhà kinh tế học tư sản. Chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ ngày
có giải đáp đó, và nó là điểm trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học".
Ngày nay, nhân loại đang từng bước tiến
vào kinh tế tri thức, tri thức đang chuyển hoá "thành lực lượng sản xuất
trực tiếp như K. Marx đã từng tiên đoán. Sự kiện nhân loại bước vào
kinh tế tri thức này lại cũng là lý do để cho một số người, cả ở nước ta
lẫn nước ngoài, ngộ nhận rằng, kinh tế tư bản và các nhà tư bản đã thay
đổi về bản chất, không còn bóc lột người lao động, không tìm kiếm giá
trị thặng dư như khi K. Marx viết bộ Tư bản nữa. Theo họ, sức lao động
của con người ngày nay chủ yếu đã được chuyển sang cho các máy móc cực
kỳ tinh vi với hiệu suất rất cao. Tỷ lệ giá trị của lao động sống không
thể so với giá trị do máy móc làm ra, do đó, theo họ, máy móc hiện đại
mới là cái sản xuất ra giá trị thặng dư, nghĩa là nhà tư bản bây giờ chỉ
còn bóc lột máy móc chứ không phải bóc lột công nhân!
Thật ra, như K. Marx đã từng nói: "...
Những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của
con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem
nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải
mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào
đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Nhận xét đó của K.
Marx vẫn rất đúng trong điều kiện hiện nay. Máy móc, dù có hiện đại đến
đâu chăng nữa, cũng vẫn không thể thiếu được sức lao động của con người.
Hơn thế nữa, máy móc càng hiện đại, càng tạo ra nhiều sản phẩm hơn, các
sản phẩm càng có hàm lượng từ thức nhiều hơn thì lại càng đòi hỏi chất
lượng lao động cao hơn, tri thức nhiều hơn, do đó, càng không thể thiếu
được công nhân tri thức. Nghĩa là, sản xuất, dù hiện đại đến đâu, cũng
không thể thiếu được sức lao động của con người, của người công nhân,
của kỹ sư, của nhà khoa học, tức là không thể thiếu được lao động sống.
Vậy, nhà tư bản lấy lợi nhuận ở đâu, có chiếm đoạt giá trị thặng dư ở
đây không? Chắc chắn không khó để trả lời. Chính K. Marx đã chỉ rõ rằng,
sự sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của sản xuất tư
bản chủ nghĩa, không có lợi nhuận thì không một nhà tư bản nào chịu bỏ
vốn để sản xuất, kinh doanh, mà nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái
sinh và được biến đổi của giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó
đã xoá hết những nguồn gốc của nó". Dường như có người đã không biết,
hoặc đã cố tình quên đi sự luận chứng rất quan trọng và khoa học này của
K. Marx về mối quan hệ giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Rõ ràng là,
trong thời đại hiện nay, hình thức bóc lột có thay đổi, đã trở nên khó
nhận biết hơn, tinh vi hơn và khác hơn so với thời của K. Marx, nhưng
bản chất bóc lột của tư bản thì không khác. Đó chính là nguồn gốc, là
nguyên nhân dẫn đến hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa
những nước giàu và những nước nghèo hiện nay trên thế giới, kể cả ở các
nước tư bản phát triển nhất, đang ngày một doãng ra với tốc độ ngày càng
nhanh hơn.
Từ hai vấn đề quan trọng trên, có thể
nói rằng, những học thuyết quan trọng của K. Marxkhông hề lỗi thời, nếu
chúng không bị tuyệt đối hoá, nếu như nghiên cứu và vận dụng chúng theo
tinh thần biện chứng chứ không phải một cách giáo điều, xơ cứng. Điều
này không chỉ chúng ta nói và tin, mà ngay cả nhiều nhà triết học phương
Tây nổi tiếng cũng tin như vậy. Và, chắc lòng tin đó của họ không thể
coi là xuất phát từ hệ tư tưởng, mà chính là từ những sự trải nghiệm, sự
phân tích thực tiễn và sự tổng kết lý luận của chính họ. Jacques
Derida, trong Những bóng ma của Marx đã dẫn ra ở trên, khi thừa nhận
rằng, "tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ muốn, họ biết hay
là không, đều là những người kế thừa của Marx và chủ nghĩa Marx với một
mức độ nhất định", đã khẳng định: "Luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu
không đọc đi đọc lại và tranh luận những tác phẩm của Marx ... Đó sẽ
càng ngày càng là một sai lầm, một sự thiếu trách nhiệm về mặt lý luận,
triết học và chính trị... Sẽ không có tương lai khi không có trách nhiệm
đó. Không có nếu không có K. Marx không có tương lai mà lại không có
Marx . Nếu không có ký ức về Marx và không có di sản của Marx ".
Chủ nghĩa Marx không chết, chủ nghĩa
cộng sản được xây dựng dựa trên các học thuyết chân chính của K. Marx
không chết như một số người từng tuyên bố. K. Marx vẫn sống với nhân
loại không chỉ ở thế kỷ XXI, bởi những di sản của K. Marx đã trở thành
tài sản chung của cả nhân loại và sẽ mãi mãi là như vậy, bởi như Michel
Vadée - nhà triết học, thành viên của Trung tâm nghiên cứu và tư liệu về
Hê ghen và Marx thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, đã
nhận định rằng, "tư tưởng của Marx đã "được biết đến nhiều: nó đã cắm
sâu vào thế giới".
S.T
0 nhận xét:
Đăng nhận xét