Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013
Tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác - Lênin và sự vận dụng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
14:00
Hoàng Phong Nhã
No comments
1. Tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác - Lênin
Trong học thuyết chuyên chính vô sản, học thuyết về nhà nước kiểu mới
của chủ nghĩa Mác-Lênin, thuật ngữ nhà nước pháp quyền với ý nghĩa đầy
đủ nhất chưa được các nhà kinh điển sử dụng. Song những tư tưởng cốt lõi
về nhà nước pháp quyền đã được các ông đề cập đến trong những bối cảnh
khác nhau. Có thể thấy những tư tưởng nổi bật về nhà nước pháp quyền của
các ông khi các ông bàn về chế độ dân chủ mới - dân chủ vô sản, đó là
dân chủ “do nhân dân tự quy định”; là bước chuyển từ “nhân dân của nhà
nước” sang “nhà nước của nhân dân”, là chế độ dân chủ xuất phát từ con
người và pháp luật cũng vì con người. Đặc biệt là tư tưởng của các ông
về nhà nước kiểu mới - nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước dân chủ
cao nhất, triệt để nhất. Các ông chủ trương xây dựng nhà nước hợp hiến,
hợp pháp; là nhà nước đảm bảo cho “tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Nhà nước đó xây dựng và phát
triển một xã hội có khả năng tạo ra những điều kiện cơ bản để “giải
phóng cá nhân” theo phương châm “xã hội sẽ không thể giải phóng nếu
không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”... Những tư tưởng cốt lõi đó
của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin vận dụng và làm rõ hơn khi
Người lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng nền pháp luật kiểu mới, nền pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Tựu trung về tư tưởng cốt lõi của nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác-Lênin tập trung vào một số điểm chính sau:
Thứ nhất: Bản chất dân chủ trong nhà nước
Ở nhiều tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn về dân chủ, về xã hội
công dân với tư cách là những tiêu chí của nhà nước, xã hội tiến bộ
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông đã viết: “…bước
thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành
giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ…; Nhà nước, tức là giai cấp vô
sản được tổ chức thành giai cấp thống trị” (1)... và “Mục đích trước mắt
của những người cộng sản là… lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản,
giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” (2).
Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Ghôta, C.Mác đã chỉ rõ: Từ “dân chủ”
nếu chuyển qua tiếng Đức thì có nghĩa là “nhân dân nắm chính quyền”
(3). Điều đó có nghĩa là dân chủ chính là dân là chủ thể quyền lực nhà
nước, nhân dân tạo nên nhà nước chứ không phải nhà nước tạo nên nhân
dân. Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước
thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra
con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế
độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước” (4).
Chủ nghĩa Mác cho rằng, chế độ dân chủ hoàn toàn khác với chế độ quân
chủ chuyên chế, nó xứng đáng dành cho con người, bởi: “Dưới chế độ quân
chủ, tổng thể tức nhân dân, bị đặt vào một trong những hình thức tồn
tại, tức chế độ chính trị của họ. Còn trong chế độ dân chủ thì bản thân
chế độ nhà nước thể hiện ra là một trong những tính quy định, cụ thể là
sự tự quy định của nhân dân” (5).
Sự khác biệt giữa chế độ dân chủ với chế độ chuyên chế, theo C.Mác
chính còn là do chế độ dân chủ có đặc trưng cơ bản là luật pháp tồn tại
vì con người: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp
luật, mà pháp luật tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người
là pháp luật, trong khi đó thì ở những hình thức khác nhau của chế độ
nhà nước, con người lại là tồn tại được bởi quy định của luật pháp. Dấu
hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy” (6).
Thứ hai: Chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số
Không chỉ làm rõ sự khác biệt giữa chế độ dân chủ với chuyên chế mà
C.Mác còn chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư
sản, phê phán sự hạn chế dân chủ trong nhà nước tư sản. C.Mác khẳng định
dân chủ chính là chế độ nhà nước do dân nắm quyền lực. Nhà nước luôn
luôn mang bản chất giai cấp, không có nhà nước chung chung, dân chủ phi
giai cấp. Theo đó, nhà nước tư sản dù có bước tiến bộ so với các chế độ
nhà nước trước đó, song do dựa trên cơ sở kinh tế, chính trị - xã hội
của nó, nhà nước tư sản chỉ là và khi nào (dù điều chỉnh) cũng vẫn là
nhà nước của giai cấp bóc lột bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, chống
lại nhân dân, không phải là nhà nước do nhân dân nắm quyền, tổ chức
thực hiện và kiểm soát quyền lực. Nhà nước tư sản dù tồn tại dưới hình
thức quân chủ hay cộng hoà thì bản chất vẫn là một “chuyên chính tư sản”
(7). Để thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác cho rằng, phải thông qua chế độ
cộng hòa dân chủ. Điều này đã được Lênin nhắc lại sau này trong tác phẩm
Nhà nước và cách mạng: “Tư tưởng xuyên suốt trong các tác phẩm của Mác
là chế độ cộng hòa dân chủ là con đường ngắn nhất đưa đến chuyên chính
vô sản” (8).
Trên
cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác và trong điều kiện mới, V.I.Lênin
tiếp tục khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước và phân biệt sự khác
nhau giữa nhà nước của giai cấp bóc lột với nhà nước của giai cấp vô
sản. Ông cho rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, nó chỉ là một tổ
chức thống trị của một giai cấp (9), bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ
máy để giai cấp này trấn áp giai cấp khác: “Bất cứ một nhà nước nào cũng
đều có nghĩa là dùng bạo lực, nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng
bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ
có dùng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và những người bị
bóc lột không”(10). Lênin đã cho rằng, chỉ có nhà nước mà quyền lực
thuộc về nhân dân thì nhà nước mới có thể quản lý được xã hội phù hợp
với quy luật, phục vụ lợi ích nhân dân, bởi vì: “Nếu quyền lực chính trị
nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa
số, thì mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự
theo đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong
tay một giai cấp có quyền lợi khác quyền lợi của đa số thì việc điều
khiển công việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành
một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy” (11).
Với cách phân tích như vậy, Lênin đã nhấn mạnh làm rõ nhà nước tư sản
là bộ máy bạo lực có tổ chức của giai cấp tư sản đi trấn áp giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Ông phê phán nền dân chủ trong nhà nước
tư sản, một thứ dân chủ nửa vời, cắt xén, giả hiệu, đồng thời ông cũng
phê phán những luận điệu ca ngợi chế độ cộng hòa dân chủ (tư sản) là
“chính quyền toàn dân” hay dân chủ nói chung, xem nhà nước tư sản là nhà
nước chung chung phi giai cấp. Theo Lênin, chế độ cộng hòa dân chủ
chẳng qua chỉ là chuyên chính của giai cấp tư sản, chuyên chính của
những kẻ bóc lột đối với quần chúng lao động: “Bất luận nhà nước nào kể
cả cộng hòa dân chủ nhất, cũng chỉ là một bộ máy mà giai cấp này dùng để
đàn áp giai cấp khác... Nghị viện tư sản dù là nghị viện dân chủ nhất
trong một nhà nước cộng hòa dân chủ nhất, trong đó quyền sở hữu của bọn
tư bản và chính quyền của chúng vẫn được duy trì thì vẫn là bộ máy để
cho một nhúm người bóc lột dùng để đàn áp người lao động...” (12).
Trái lại, nhà nước vô sản, theo Lênin, trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội có thể có nhiều hình thức nhà nước,
nhưng tất cả các hình thức đó đều mang một bản chất duy nhất- bản chất
giai cấp công nhân, là chuyên chính vô sản. Bản chất giai cấp của nhà
nước vô sản được thể hiện ở chỗ, nhà nước đó do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, thực hiện dân chủ
thực sự với nhân dân, bảo vệ quyền lợi thực sự của nhân dân, chuyên
chính với kẻ thù của nhân dân. Bản chất này do cơ sở kinh tế và chế độ
chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội quy định.
Thứ ba: Bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi trong nhà nước pháp quyền
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, một mặt đã khẳng định bản
chất giai cấp công nhân trong nhà nước chuyên chính vô sản, mặt khác, do
bản chất dân chủ vô sản đòi hỏi, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải mang
tính nhân dân rộng rãi, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà
nước. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản trở thành giai cấp
thống trị duy nhất trong xã hội phải tập trung xây dựng nhà nước vô sản
mà mục tiêu cao nhất là phục vụ lợi ích cho đa số.
Khi bàn về chức năng của nhà nước vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng, cũng như mọi nhà nước khác, nhà nước vô sản cũng có hai chức năng
cơ bản là chức năng giai cấp và chức năng xã hội, nhưng nội dung, cơ chế
và mục đích thực hiện các chức năng đã thay đổi căn bản. Đối với các
nhà nước trước đây chức năng xã hội là cơ sở để thực hiện chức năng giai
cấp. Đối với nhà nước vô sản, vì bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân và tính dân tộc của nhà nước là thống nhất nên chức năng giai
cấp của nhà nước vô sản trở thành phương tiện, công cụ để thực hiện chức
năng xã hội của nó. Theo ý nghĩa trên, chức năng giai cấp chỉ là cơ sở
để nhà nước vô sản thực hiện chức năng xã hội của mình.
Theo Lênin, dưới sự bảo trợ của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực
của nhân dân thực sự được hoàn mỹ, tuy nhiên mới chỉ là khả năng. Lênin
chỉ rõ: việc giai cấp công nhân giữ vai trò thống trị tuyệt nhiên chưa
đồng nhất với việc một nền dân chủ cao hơn tự nhiên xuất hiện sau sự
kiện ấy. Đây mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Giai cấp công nhân
đại diện cho nhân dân lao động nắm chính quyền và lãnh đạo xã hội vì lợi
ích của họ là thống nhất. Tuy nhiên, Lênin cảnh báo nguy cơ tha hoá của
nhà nước vẫn luôn tiềm ẩn và dễ xảy ra do tính gián tiếp và trung gian
giữa chủ thể của quyền lực là nhân dân và cơ quan được nhân dân uỷ
quyền, đó là nhà nước. Lênin chỉ ra rằng: không phải ngày mai ngủ dậy là
đã có chủ nghĩa cộng sản, trái lại đó là một quá trình xây dựng lâu dài
trên cơ sở con người nhận thức đúng được quy luật phát triển của xã hội
và của lịch sử.
Tuy nhiên, Lênin cũng nhắc nhở những người cộng sản, trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, nhà nước chưa thể “tự tiêu vong” hoàn toàn được vì vẫn còn
các giai cấp và sự khác biệt giữa các giai cấp thậm chí vẫn còn một nhà
nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản. Lênin viết: “Trong một
thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp
quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp
tư sản” (13).
Thứ tư: Những điều kiện cơ bản để xây dựng nhà nước vô sản
Chủ nghĩa Mác, đặc biệt là Lênin đã dự đoán rằng trong quá trình tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, không tránh khỏi có những cán bộ, công chức nhà nước lạm
dụng quyền lực, thoái hoá biến chất, xa rời quần chúng làm xuất hiện chủ
nghĩa quan liêu trong nhà nước vô sản. Để chống nguy cơ quan liêu đồng
thời đảm bảo tính hiệu quả của bộ máy nhà nước, muốn cho nhà nước không
đứng trên nhân dân, cai trị nhân dân, theo Lênin, đòi hỏi nhiều điều
kiện, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ yếu tố quan trọng
hàng đầu, sau đó là yếu tố dân trí, xã hội công dân, cơ chế pháp luật
đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước, quyền tham gia vào
các quyết sách của nhà nước, thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại hòa
bình, hữu nghị hợp tác, xây dựng khối sức mạnh liên minh công – nông
trong quyền lực nhà nước. Lênin đặc biệt chú ý đến việc đảm bảo tính
hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đề phòng và chống những
biểu hiện tiêu cực trong bộ máy nhà nước cũng như trong đội ngũ công
chức. Tiếp thu kinh nghiệm của Công xã Paris, Lênin rất quan tâm đến
công tác kiểm tra, kiểm soát bộ máy nhà nước, giám sát các thành viên
của Chính phủ trên cơ sở xây dựng chế độ trách nhiệm cá nhân công chức,
viên chức trong những việc mà họ đang đảm nhận; thực hành dân chủ hoá
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lôi cuốn đông đảo công nhân và
nông dân tham gia công việc quản lý nhà nước…
Với cách nhìn biện chứng và cách mạng, Lênin đã khẳng định Nhà nước Xô
viết là hình thức tốt nhất của chuyên chính vô sản, nhưng ông cũng nhấn
mạnh những người cộng sản phương Đông không nên sao chép một cách máy
móc, mà cần vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh của nước mình. Điều này
hoàn toàn phù hợp quy luật, bởi vì trong cái chung, cái phổ biến có cái
riêng, cái đặc thù.
2.
Vận dụng tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã tiếp thu
tinh hoa tư tưởng của nhân loại vào quá trình tổ chức và lãnh đạo cách
mạng, trong đó có kế thừa tư tưởng cốt lõi về xây dựng nhà nước pháp
quyền trong học thuyết Mác-Lênin để hình thành quan niệm về một nhà nước
Việt Nam mới.
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng,
làm cách mạng là để chuyển giao quyền lực cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một số ít người. Trong Chánh cương vắn tắt năm 1930 ý tưởng
về một nhà nước nhân dân đã được cụ thể hoá bằng khái niệm "chính phủ
công nông binh". Sau Cách mạng Tháng Tám, với Tuyên ngôn độc lập và sự
ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã thể hiện tư tưởng về một nhà nước độc lập, dân chủ, cộng hoà, một
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt
Nam năm 1946, Điều 1 đã khẳng định: "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là
một nhà nước dân chủ. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giai cấp, tôn giáo"
(14). Điều này đã khẳng định, quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta
hướng đến một nhà nước kiểu mới, mà trong đó các quyền công dân và quyền
con người được ghi nhận trong Hiến pháp, được đảm bảo bằng pháp luật.
Tư tưởng về một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân do Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng khởi xướng, xây dựng đã được quán triệt thực hiện
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, nhất là từ khi đất nước
bước vào thời kỳ đổi mới.
Tinh thần dân chủ hoá đời sống xã hội mà Đảng ta đề xuất từ Đại hội VI
đã khơi nguồn sáng tạo cho nhân dân trong lao động, sản xuất, tham gia
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các nhiệm kỳ Đại hội VII, Đại
hội VIII của Đảng đã dành sự chú ý, quan tâm nhiều đến vấn đề dân chủ
và đã đặt ra một cách dứt khoát mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, cải cách nền hành chính quan liêu bao cấp trước đây. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định mục tiêu
xây dựng một chế độ dân chủ thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cải cách các thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước, mở
rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, coi đoàn kết là động
lực của sự phát triển xã hội.
Đến Đại hội X (năm 2006), nhà nước pháp quyền đã được Đảng xác định là
một trong tám đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân xây
dựng, đó là "có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản" (15). Tinh
thần này tiếp tục được Đảng ta xác định trong văn kiện Đại hội XI và
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011).
Bản chất cốt lõi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân
dân.
- Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà ở đó quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và và kiểm soát chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đảm bảo sự
thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính
dân tộc sâu sắc.
-
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của
Hiến pháp và pháp luật trong đời sống.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước tôn trọng
và thực hiện bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
Nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân
chủ đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân,
sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, Đảng ta chỉ rõ cần phải xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Đồng thời, Đảng ta khẳng định lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là trọng trách của Đảng cầm
quyền, là một tất yếu khách quan và yêu cầu mà thực tiễn đấu tranh cách
mạng của Đảng và nhân dân ta đặt ra. Giành được độc lập dân tộc, giành
được chính quyền về tay nhân dân mới chỉ là bước đầu của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản còn phải xây dựng nhà nước cách mạng và hệ thống chính
trị tiên tiến mà Đảng là hạt nhân lãnh đạo. Nhà nước là công cụ hùng
mạnh và sắc bén để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của
Đảng, bảo đảm cho Đảng thực hiện được sự lãnh đạo của mình nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những đặc trưng
của nhà nước và nhiệm vụ xây dựng nhà nước mà Đảng ta đặt ra chính là sự
vận dụng sáng tạo tư tưởng của học thuyết Mác-Lênin về nhà nước kiểu
mới với những tư tưởng cốt lõi về pháp quyền trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Đây cũng là những căn cứ lý luận và thực tiễn để chúng ta
khẳng định Điều 4 trong Hiến pháp hiện nay là không thể thay đổi. Không
được mơ hồ về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nói riêng, xã
hội nói chung./.
-------------------
(1) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t.4, tr. 626.
(2) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Sđd, tr. 626.
(3) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Sđd, tr.44-45.
(4) (5) (6) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, Sđd, tr. 350, 349, 350.
(7) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Sđd, tr. 46.
(8) V.I.Lênin: toàn tập, t. 33, Nxb.Tiến bộ, M.1977, tr.98-99
(9) V.I.Lênin, Toàn tập, t. 32, Nxb.Tiến bộ, M.1981, tr.303
(10) V.I.Lênin: Toàn tập, t. 43, Nxb.Tiến bộ, M.1978, tr.380
(11) V.I.Lênin: Toàn tập, t. 43, Nxb.Tiến bộ, M.1978, tr.52
(12) V.I.Lênin: Toàn tập, t. 37, Nxb.Tiến bộ, M.1977, tr.559-560.
(13) V.I.Lênin: Toàn tập, t. 33, Nxb. Tiến bộ, M.1977, tr. 121.
(14) Hiến pháp Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Nxb. LĐXH, H, 2002, tr.8.
(15) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG. H, 2006, tr.68,126.
PGS. TS. Đỗ Thị Thạch
0 nhận xét:
Đăng nhận xét