Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992: Nhìn từ truyền thống pháp luật tự nhiên

1. Học thuyết luật tự nhiên.
Từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại, các tư tưởng triết học đã nhấn mạnh sự tương phản giữa những quy luật bất biến và vĩnh cửu, tồn tại khách quan và độc lập với các luật lệ, quy ước, tập quán được đặt ra bởi một trật tự chính trị, xã hội hay một quốc gia. Các nhà triết học trong giai đoạn này chính là những người đầu tiên soạn thảo các vấn đề cơ bản, mấu chốt của học thuyết luật tự nhiên với những quan điểm tiến bộ như “mọi người đều bình đẳng”, “tự nhiên không sinh ra ai để làm nô lệ”, “luật pháp của nhà nước là một thứ chuyên chế nếu chúng buộc con người phải hành động trái với bản tính của mình”…
Học thuyết về các quyền tự nhiên, quyền con người thường được coi là một bộ phận quan trọng của luật tự nhiên. Luật tự nhiên với cách hiểu nói trên cũng chính bệ đỡ quan trọng cho một trong những trào lưu pháp lý có ảnh hưởng trên thế giới ngày nay, đó chính là chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) – trào lưu đặt trọng tâm vào yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước bằng pháp luật, phòng ngừa những hành xử tuỳ tiện, duy ý chí, lạm quyền, vượt quyền của các cơ quan quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ quyền và tự do cá nhân. Chủ nghĩa hợp hiến được hình thành trên cơ sở nền tảng của luật tự nhiên cận đại về lý luận khế ước xã hội. Theo đó, nhà nước là thiết chế được tạo ra thông qua khế ước xã hội nhằm bảo vệ các quyền tự nhiên vốn có của mỗi cá nhân khi được sinh ra làm người. Quan điểm này cho rằng Nhà nước được nhân dân giao phó quyền lực, cho nên nếu nhà nước lạm dụng quyền lực và áp chế nhân dân thì nhân dân có thể sử dụng quyền chống lại nhà nước và đánh đổ sự thống trị của nhà nước. Điều đó có nghĩa là quyền tự do của mỗi cá nhân có giá trị cao nhất và nhà nước được hiểu là công cụ để bảo vệ các quyền tự nhiên này của cá nhân.
Học thuyết luật tự nhiên với ý nghĩa là triết thuyết để xây dựng một xã hội công bằng cũng còn được coi là nền móng của các học thuyết về công lý hiện đại ngày nay. Câu hỏi một xã hội có công bằng hay không chính là con đường giải quyết yêu cầu một cách công bằng quá trình phân phối những điều chúng ta được thưởng – thu nhập và sự giàu có, trách nhiệm và quyền lợi, quyền lực và cơ hội, chức vụ và danh dự. Một xã hội công bằng phân phối những thứ này đúng cách, mỗi người nhận đúng phần mình đáng được hưởng.[1] Bộ môn Nhân loại học pháp luật cũng đã phân tích khá sâu sắc những cảm nhận xã hội về công lý từ xã hội bộ lạc sơ khai đến các xã hội hiện đại, theo đó những cảm nhận này đều có những nét khá tương đồng. Trong nền văn hoá Hàn Quốc, công lý đồng nghĩa với phẩm hạnh. Đối với một số nền văn hoá khác, công lý là cân bằng (half-half). Còn trong nền văn hoá Pháp, tinh tuý của công lý chính là sự bình đẳng của mọi công dân trong một xã hội. Trong mối quan hệ giữa công lý và pháp luật, các nhà nghiên cứu luật tự nhiên (Hobbes và Ihering) cho rằng: Pháp luật không phải tự thân nó là giá trị cao nhất và là điểm cuối của thế giới này. Chuẩn mực của công lý tự thân nó đã chính là pháp luật.[2]
Học thuyết luật tự nhiên là một học thuyết có ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử phát triển của nền khoa học pháp lý trên thế giới với những giá trị nhân văn phản ánh khát vọng của loài người về tự do, nhân phẩm, pháp quyền, công bằng, công lý và các quyền con người. Ngày nay, luật tự nhiên vẫn có những ảnh hưởng hết sức sâu rộng tại các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, học thuyết này cũng bộc lộ một số hạn chế cần có sự nghiên cứu, cân nhắc thấu đáo trong quá trình du nhập, áp dụng tại Việt Nam.
Thứ nhất là tính tản mát, thiếu tập trung và thống nhất của học thuyết.Luật tự nhiên được hiểu là khái niệm tư tưởng chính trị và pháp quyền về một hệ thống pháp luật lí tưởng, dường như xuất phát từ bản tính con người, lấy lí trí con người làm nền tảng, không phụ thuộc vào nhà nước và các điều kiện xã hội. Tuy nhiên, trong nền khoa học pháp lý hiện đại, có nhiều học thuyết, nhiều cách tiếp cận khác nhau về luật tự nhiên. Cần phải nhấn mạnh rằng các học thuyết về luật tự nhiên là nhiều, rất đa dạng và phong phú chứ không phải đơn lẻ duy nhất và hoàn toàn thống nhất. Các học thuyết đạo đức của Plato và Aristotle, học thuyết của các nhà triết học khắc kỷ, hay học thuyết của Thomas, Hobbes và Locke, Grotius và Pufendorf, Kant và Hegel đều mang đầy đủ các yếu tố của học thuyết luật tự nhiên. Chính vì tính tản mát, thiếu tập trung và không thống nhất của học thuyết mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng những tư tưởng về luật tự nhiên chưa thể có được vai trò của một học thuyết chính thống.
Thứ hai, học thuyết luật tự nhiên hàm chứa một số hạn chế lịch sử nhất định. Luật tự nhiên là một hệ thống giá trị liên quan đến niềm tin. Đây là học thuyết thể hiện chủ nghĩa duy tâm và tính chất siêu hình sâu sắc, không có sự nhìn nhận tính lịch sử và tính giai cấp đối với các quyền của con người, không phản ánh mối liên quan của chúng với sự phát triển những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Những quy luật lý trí được các nhà lý luận rút ra không phải từ các điều kiện xã hội mà từ những quy luật “muôn đời và bất biến” của tự nhiên. Trong lịch sử, luật tự nhiên đã được sử dụng cho cả mục đích cách mạng như chấp nhận quyền của người dân được lật đổ chế độ độc tài và mục đích phản cách mạng như đã từng ủng hộ và bảo vệ chế độ nô lệ.
Thứ ba, học thuyết luật tự nhiên không khẳng định được vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng chế độ xã hội. Ứng dụng luật tự nhiên cần tránh nguy cơ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên với quan điểm siêu hình rằng tất cả các chân lý cơ bản đều là các chân lý của tự nhiên mà loại bỏ vai trò quyết định của nhân dân lao động. Sự nguy hiểm của luật tự nhiên trong quá trình xây dựng pháp luật cũng đã được nhà lý luận thuyết thực chứng về pháp lý Jeremy Bentham mạnh mẽ phê bình: Những hấp dẫn rất nguy hiểm của luật tự nhiên như những “ý kiến riêng tư trá hình” hoặc “chỉ là ý kiến của những kẻ tự chỉ định mình vào các cơ quan lập pháp”.[3]
2. Luật tự nhiên và một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, là văn kiện chính trị – pháp lý quan trọng thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của mỗi nhà nước, mỗi chế độ. Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp của nước ta thời kỳ đầu đổi mới. Sau hơn 20 năm thi hành Hiến pháp, đến nay đã có nhiều vấn đề mới được đặt ra, một số quy định của Hiến pháp 1992 đã bị thực tiễn vượt qua, không còn phù hợp. Học thuyết luật tự nhiên là một học thuyết chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công bằng và pháp quyền sâu sắc, có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử văn minh nhân loại nói chung và trong nền khoa học pháp lý nói riêng. Hiến pháp Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình về việc sử dụng học thuyết luật tự nhiên làm bệ đỡ cho sự ra đời và đảm bảo tính ổn định, bền vững của bản Hiến pháp này trong suốt hơn 200 năm qua.[4] Vì vậy, để quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đạt được sự đồng thuận cao của xã hội, các giá trị cao cả của luật tự nhiên như công lý, lẽ phải, đạo lý, lương tâm, lương tri, đạo đức, sự vị tha, lòng trắc ẩn và các giá trị tiến bộ được xã hội thừa nhận khác cần phải là điểm tựa, là chuẩn mực để định hướng và soi rọi trong toàn bộ quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Thứ nhất là cần tiếp tục đổi mới tư duy lập hiến, lập pháp. Từ cách tiếp cận về vai trò của luật tự nhiên tại Việt Nam, chúng ta cần từng bước thay đổi nhận thức truyền thống coi pháp luật chỉ thuần tuý là tập hợp một cách có hệ thống những khuôn thước hành xử do cơ quan công quyền công bố. Đây là một lối tư duy khá hẹp, đánh đồng pháp luật với hoạt động làm luật, từ đó nhấn mạnh yếu tố quyền lực và coi pháp luật chỉ là phương tiện đặc hữu của nhà nước, hoạt động sáng tạo pháp luật là lĩnh vực độc quyền nhà nước, nhấn mạnh tính cưỡng chế hơn là huy động sự đồng thuận, thuyết phục, giáo dục và khơi dậy ý thức tự giác trong xã hội. Trong thực tế xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, pháp luật không chỉ đơn thuần là sản phẩm “độc quyền” của nhà nước mà trước hết phải là sự kết tinh thiêng liêng những giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản và đạo lý mà không một ai bác bỏ được để trở thành lẽ phải đương nhiên như tự do, bình đẳng, lương tri, công lý, công minh…[5] Truyền thống pháp luật tự nhiên cho rằng luật pháp không công bằng thì không phải là luật pháp (Unjust laws are not laws). Những giá trị của công lý cung cấp những tiêu chí quan trọng để đánh giá, thẩm định các đạo luật thực định. Một đạo luật công bằng là một đạo luật dựa trên và không đối lập với các quyền tự nhiên. Do đó, quá trình lập hiến, lập pháp của Quốc hội ngoài việc thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội, cần phải quan tâm, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội, phải “vang vọng tiếng dân” và phải chuyển tải đầy đủ những giá trị tiến bộ của lương tri, đạo đức, các giá trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công lý, công bằng, lẽ phải, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người.
Thứ hai là hoàn thiện các cơ chế chế ước quyền lực nhà nước. Với tư tưởng tôn trọng tuyệt đối giá trị của quyền tự do cá nhân và nhà nước phải là công cụ để bảo vệ các quyền tự do đó, lao động quyền lực nhà nước đòi hỏi cần phải có sự phân công, phối hợp một cách khoa học, hợp lý, đồng thời phải có sự chế ước, kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, từ đó ngăn chặn sự tuỳ tiện, tha hoá, lạm quyền từ phía các cơ quan hành chính nhà nước và nhân viên nhà nước, vi phạm các quyền cơ bản của cá nhân, công dân. Tổ chức bộ máy nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện, tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, đảm bảo thông qua cơ chế giám sát thi hành hiến pháp, các hoạt động của cơ quan nhà nước không được vi phạm các quyền con người.
Thứ ba là có sự nhận thức đầy đủ về quyền con người, quyền công dân. Trong nền khoa học pháp lý thế giới, quyền tự nhiên là khái niệm được dùng để chỉ những quyền đương nhiên có được do đó là một con người. Để có thể hiểu một cách đầy đủ và toàn diện về khái niệm “quyền con người”, chúng ta phải có hiểu biết sâu sắc về “quyền tự nhiên” – một lý luận có mối quan hệ chặt chẽ và là một bộ phận cấu thành quan trọng của học thuyết luật tự nhiên. Trong thực tế, “quyền tự nhiên” không phải là một khái niệm xa lạ ở Việt Nam. Hình bóng của các quyền tự nhiên đã xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[6] Hiến pháp năm 1992 cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung theo hướng nâng cao tính khả thi của các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Bên cạnh đó, “quyền mưu cầu hạnh phúc” cũng cần được nghiên cứu, cân nhắc, ghi nhận như một quyền mang tính tổng thể, hàm chứa tự do và các quyền không thể thiếu để được sống như một con người.
Thứ tư là hoàn thiện các cơ chế bảo đảm thực thi công lý trong tư pháp xét xử. Trong truyền thống pháp luật tự nhiên, công lý được hiểu là yêu cầu, đòi hỏi mỗi cá nhân hoặc nhóm được hưởng những gì mà họ xứng đáng. Công lý là quyền mà tạo hoá ban cho con người. Đây là khái niệm mang tính tổng quát và tuyệt đối, các quy định luật pháp, các nguyên tắc, luật lệ, quy tắc chỉ là những cố gắng nhằm hệ thống, hiện thực và cụ thể hoá khái niệm này. Các nghiên cứu về công lý ngày nay nhấn mạnh rằng các thủ tục tố tụng chính là những cơ chế, công cụ xã hội giúp các cá nhân, tổ chức tiếp cận công lý. Nếu cơ chế này không đủ mạnh và hiệu quả thì có thể làm vô hiệu quá trình thực thi quyền cơ bản của các cá nhân, tổ chức. Dó đó, cơ chế tố tụng phải đáp ứng kịp thời, đầy đủ yêu cầu của xã hội và phải thực sự là “người đầy tớ” tận tuỵ phục vụ, thúc đẩy tiếp cận công lý chứ không phải là “ông chủ” của công lý. Với cách tiếp cận nói trên, trong nền khoa học pháp lý Hoa Kỳ, người ta có sự phát triển, phân biệt khá sâu sắc giữa “công lý theo thủ tục’ và “công lý theo bản thể”.
Với nhận thức công lý chính là yếu tố tạo sự chính đáng, chính nghĩa, góp phần quan trọng trong việc quy tụ, đoàn kết mọi lực lượng bảo vệ chính quyền cách mạng, ngay sau khi thành lập nhà nước cách mạng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến nhiệm vụ của chính quyền nhân dân trong việc bảo vệ và thực thi công lý.  Điều 47 Sắc lệnh số 13 của Chủ tịch nước ngày 24 tháng 01 năm 1946 quy định cách tổ chức toà án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã khẳng định “Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc Tư pháp”. Điều 25 Sắc lệnh này cũng quy định: Khi các Phụ thẩm nhậm chức, tại phiên toà đầu, ông Chánh án sẽ mời các Phụ thẩm tuyên thệ “Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi hay vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào. Tôi sẽ cứ công bằng mà xét định mọi việc…”
Kế thừa truyền thống nói trên, quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992  cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Toà án nhân dân để Toà án nhân dân – cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện quyền tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con người.
Nguyễn Xuân Tùng

[1] Michael Sandel: Phải trái đúng sai (Justice: What’s the right thing to do?), bản dịch của Hồ Đắc Phương), Nhà xuất bản Trẻ, năm 2011.
[2] Leopold Pospisil: Anthropology of law – A comparative theory, HRAP Press, New Haven, 1974.
[3]Raymond Wacks: Triết học luật pháp, Nhà xuất bản tri thức năm 2011, tr.29 (bản dịch của Phạm Kiều Tùng).
[4] Andrew J.Reck: Natural Law and the Constitution, Review of Metaphysics 42 (March 1989), 483-511.
[5] TS. Huỳnh Văn Thới, Pháp luật được “đặt ra” hay “tìm ra”?, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh số ngày 31 tháng 01 năm 2010.
[6]Hồ Chí Minh: Bàn về Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2005, trang 315.
Nguồn: http://www.moj.gov.vn/hienphap1992/News/Lists/giaidapthacmac/View_Detail.aspx?ItemID=5210

0 nhận xét:

Đăng nhận xét