Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Đạo Thiên Chúa; Ki-Tô; Công Giáo; Tin Lành Đạo Nào Đúng ?



19-Nov-2012
Ngoài tiếng Việt, tôi chỉ biết thêm có hai thứ tiếng, Pháp và Anh, và nhớ lõm bõm chút tiếng Tàu.  Trong tiếng Pháp từ “dieu” có nghĩa là thần như thần sông, thần biển, thần bình vôi, thần cây đa v…v… Từ “dieu” có số nhiều: “dieux”, và Pháp có nhiều thành ngữ như: être dans les secrets des dieux: biết những bí mật tối cao; festin des dieux: bữa tiệc đầy cao lương mỹ vị; jurer ses grands dieux: thề độc v…v… Nhưng nếu ta đổi chữ “d” trong từ “dieu” thành chữ hoa “D” thì tự nhiên từ đó biến thành “Thiên Chúa”, một phép lạ của từ ngữ.  Trong tiếng Anh cũng vậy, god có nghĩa là thần như dieu của Pháp, nhưng God lại là Thiên Chúa.  Điều này cũng gần tương tự như chữ “ngọc” trong tiếng Việt, vốn là một loại đá mà các bà các cô thấy đẹp, nhưng nếu n đổi thành N thì Ngọc lại có nghĩa là “Ngu, Ngược, Ngốc” như một số ưu ái tặng cho tôi, coi đó là nghệ thuật phê bình trí thức có giá trị nhất.
Những người tin vào sự hứa hẹn về một-cái-bánh-vẽ-trên-trời (từ của Mục sư Ernie Bringas: A-pie-in-the-sky) của một người Do Thái tên là Giê-su, gọi đạo của họ bằng nhiều danh từ khác nhau: Thiên Chúa Giáo, Ki-tô Giáo, Cơ Đốc giáo, Công giáo, Tin Lành v…v… Vậy thì danh xưng nào đúng.  Kính mời đọc giả đọc phần nghiên cứu bình luận sau đây rồi tự mình quyết định xem danh xưng nào đúng và do đó đạo nào đúng.  Tôi sẽ bình luận từng danh xưng một.

Thiên Chúa Giáo:
Thiên Chúa là ông Chúa ở trên trời.  Với sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ ngày nay thì không có chỗ nào có thể gọi là “trời”. Này nhé, thực tế là trái đất luôn luôn di chuyển trong không gian với một vận tốc trên 1 trăm ngàn cây số một giờ, đồng thời quay xung quanh trục Nam Bắc với vận tốc quay khoảng 1600 cây số một giờ cho nên, đối với một hệ thống qui chiếu trong không gian, chúng ta tưởng rằng ở trên trái đất tưởng rằng đang ngồi yên,  trên thực tế, chúng ta đang điên đảo điên trong một vũ trụ mênh mông..  Cho nên, nếu chúng ta nghĩ rằng có một chỗ nào ở trên trời để cho "Thiên Chúa" ngồi yên "trên đó" để mà dò xét từng giây từng phút, ghi chép giữ làm hồ sơ cùng một lúc hành động của hơn 6 tỷ người trên thế giới và có thể can thiệp vào việc hàng ngày của con người trên thế gian và rồi đến ngày Giê-su trở lại trần, ngày mà nhiều người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, đã chờ đợi cả 2000 năm nay rồi và vẫn kiên nhẫn chờ đợi, thì mở sổ ra phán xét quyết định cho ai được lên một cái nhà ở trên trời (thiên đường), ai không, thì chắc chắn là chúng ta không điên cũng khùng. Tháng 7 năm 1999, Giáo Hoàng John Paul II, trong một phút bốc đồng, tỉnh cơn điên, và tuyên bố cùng thế giới: "Không làm gì có Thiên đường ở trên các tầng mây, thiên đường ở trong cái đầu của con người." Con người ở đây có nghĩa là con chiên của Giáo hoàng.  Nhưng các con chiên, không có đầu óc của con người, nên vẫn cứ hi vọng là có một cái nhà ở trên trời (thiên đường) để cho hai cha con Thiên Chúa ngự, Chúa Con ngồi bên phải Chúa Cha, ngồi chờ các con chiên ngoan theo “đức vâng lời”, hay “hiền như ma sơ”, lên đó làm tôi tớ hầu hạ và ca tụng Thiên Chúa suốt ngày đêm. 
Mặt khác,  bàn về câu "..dựng nên trời đất" trong Kinh Tin Kính, Giám mục John Shelby Spong đã đặt vấn đề như sau:
Trời là cái gì?  Đâu là trời?  Điều rõ ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Gót dựng nên được nghĩ là nơi ăn chốn ở của Gót, và nó ở trên quá vòm trời.  Nhưng chúng ta trong thế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới mà cũng chẳng phải sàn nhà của cõi trời.  Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta khẳng định là Gót toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng chúng ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết ra, không một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào?
[John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 10:  What is heaven?  Where is heaven?  It is clear that in this ancient world the heaven that God created was thought of as God's home, and it was located beyond the sky.  But those of us in this generation know that the sky is neither the roof of the world nor the floor of heaven.  So what are we referring to when we assert that this almighty God created heaven?  Are we talking about that almost infinite universe that no one living knew anything about when the Bible was written?]
Vậy thì, nếu đã không có cái gì có thể gọi là “thiên” thì cũng chẳng làm gì có cái gọi là “Thiên Chúa”.  Do đó chúng ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: đạo Thiên Chúa là đạo hoang đường, mê muội, được xây dựng trên một cái gì không có thật.  Và thực tế là không có cái gì có thể gọi là “đạo Thiên Chúa”.  Nhưng, ai muốn tin là có “đạo Thiên Chúa” thì cứ việc tin.  Tôi không cản mà còn chúc cho họ được đạt thành mơ ước, nghĩa là sớm rời bỏ chốn chim muông cầm thú để về quê thật với Vua David (Charlie Nguyễn: Kinh nguyện hàng ngày của Giáo dân).
Ki-Tô Giáo, Cơ-Đốc Giáo:
Bây giờ chúng ta sang đến danh xưng “Ki-tô Giáo” hay “Cơ-Đốc Giáo”.  Ki-tô hay Cơ đốc là phiên âm từ danh từ Christ, tiếng Hi Lạp là Christós (Χριστός) có nghĩa là đã được xức dầu (anointed).  Christ là dịch từ tiếng Do Thái, Messiah, nghĩa là vị cứu tinh của một dân tộc (A messiah is a savior or liberator of a people).  Trong cuốn Kinh Thánh của Do Thái, Messiah là một ông Vua hay một trưởng giáo (High Priest) theo truyền thống đã được xức dầu thánh bởi Gót. Theo niềm tin của người Do Thái thì Messiah là một lãnh tụ đã được xức dầu bởi Gót, là vị Vua tương lai của Israel, là dòng dõi bằng xương bằng thịt của Vua David, và sẽ cai trị và thống nhất 12 bộ lạc của Do Thái, mang lại hòa bình cho Do Thái.  Giê-su, sinh ra là một người Do Thái, bố (không biết là ai) và mẹ là người Do Thái, với ảo tưởng tự cho mình là Messiah của dân tộc Do Thái cho nên đã khẳng định trong Tân Ước:  Ta sinh ra chỉ để cứu người Do Thái mà thôi [Matthew 15:24].  Người Việt nên đọc kỹ và nghiền ngẫm câu này.  Nhưng điều kỳ lạ là chính người Do Thái lại không tin Giê-su là cứu tinh của họ, và vì vậy trong suốt hai ngàn năm nay, mới đầu là giáo hội Ca-Tô Rô-ma (Roman Catholic) trong 1500 năm, và sau này, từ thế kỷ 16, thêm vào giáo hội Tin Lành, đã vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa”, và bách hại người Do Thái bất cứ khi nào có thể, đưa đến cao điểm là người Ca-Tô Hitler đã giết 6 triệu người Do Thái, lớn nhỏ, già trẻ.  Nhưng tại sao người Do Thái lại không tin Giê-su?  Tôi không muốn đi vào phần này vì khá dài.  Nhưng tôi có thể giới thiệu một bài trên aish.com, bài: “Tại Sao Người Do Thái Lại Không Tin Giê-su?” (Why Don’t Jews Believe In Jesus?).  Bài này đã giải đáp cặn kẽ câu hòi trên.  Ở đây tôi chỉ liệt kê 7 lý do tại sao người Do Thái lại không tin Giê-su là cứu tinh của dân tộc Do Thái:

1. Giê-su không hoàn thành những lời tiên tri về một đấng cứu tinh.
2. Giê-su không là hiện thân những tư cách cá nhân của một đấng cứu tinh
3. [Trong Tân Ước] có những đoạn dịch sai để nói về Giê-su
4. Niềm tin của Do Thái là chỉ căn cứ trên sự mạc khải cho cả quốc gia (không chỉ cho một cá nhân)
5. Ki Tô Giáo mâu thuẫn với nền thần học Do Thái.
6. Do Thái không kỳ thị dân Gentile [Giê-su kỳ thị, dạy đệ tử không được giảng đạo ở xứ dân Gentile]
7. Điều kiện để đấng cứu tinh xuất hiện chưa đến.

[1. Jesus did not fulfill the messianic prophecies.
2. Jesus did not embody the personal qualifications of the Messiah.
3. Mistranlated verses “referring” to Jesus
4. Jewish belief is based solely on national revelation
5. Christianity contradicts Jewish theology
6. Jews and Gentiles
7. Not yet time for a Messiah]
Những người theo Giê-su thời đó tin rằng Giê-su chính là vị cứu tinh của Do Thái đã được tiên tri trong cuốn Kinh Thánh của Do Thái, do đó họ kèm từ Christ với Giê-su thành “Giê-su Ki-tô” (Jesus Christ), nghĩa là “Vị Cứu Tinh Giê-su” (The Messiah Jesus) của dân Do Thái.  Điều này cũng giống như ngày nay có nhiều người tin vào bà Thanh Hải và cho bà ta là Phật sống.  Về sau, nền thần học của Ki Tô Giáo đôn Giê-su lên làm “Đấng Cứu Thế”, nghĩa là cứu cả thế giới, và dựa vào một câu ngụy tạo trong Tân ước, cho là lời của Giê-su dạy các môn đồ để viện cớ thi hành sách lược truyền đạo bằng bạo lực và cưỡng bách trên khắp thế giới, Matthew 28: 19, 20
“Hãy đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy cho họ biết phải vâng giữ mọi điều răn ta dạy các ngươi; và ta sẽ ở với các ngươi cho đến ngày tận cùng của thời đại”
(Go therefore and make disciples of all the nations, baptizing them in the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit, teaching them to observe all things that I have commanded you; and lo, I am with you always, even to the end of the age.)
---> Trước hết,  chúng ta nên biết rằng câu trên trong Tân Ước không phải là câu Giê-su nói khi còn sống mà là khi đã chết rồi, và theo nền Thần học Ca-Tô, thì ông đã sống lại sau ba ngày ba đêm, nhưng thực ra chỉ có hơn một ngày và 2 đêm: từ 3 giờ chiều thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật và hiện ra trước các tông đồ, ra lệnh cho họ đi khắp thế giới truyền đạo, nếu chúng ta có thể tin được chuyện “sống lại” đầy tính cách hoang đường này.  Ngày nay, ngoài đám tín đồ thấp kém, không còn ai, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, tin vào chuyện “sống lại” của một xác chết. 
---> Thứ đến, tất cả các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay đã cho rằng câu mà giáo hội đặt vào miệng Giê-su sau khi ông ta đã nằm yên dưới mồ là do chính giáo hội thêm thắt vào Tân Ước sau này để thực hiện âm mưu bành trướng đạo với mục đích chính yếu là tạo quyền lực trên đám dân ngu dốt và vơ vét của cải thế gian.  Chúng ta chỉ cần nhìn vào tâm cảnh nô lệ Vatican của các tín đồ và tài sản của giáo hội trên khắp thế giới là thấy ngay nhận định như trên của các học giả không phải là vô căn cứ. Nguyên tiền bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các Linh mục alias “Chúa thứ hai” đã lên tới 3 tỷ đô-la.
---> Mặt khác, lời dạy ở trên khi Giê-su đã chết hoàn toàn mâu thuẫn với những lời ông dạy tông đồ đi truyền đạo khi ông ta còn sống. Tân Ước viết rõ rằng Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, và ông ta sẽ trở lại trần ngay trong thời đại của ông, khi một số người theo ông vẫn còn sống, vậy bảo các tông đồ đi truyền đạo trên thế giới để làm gì?  Trong Thánh Kinh có nhiều điều trái ngược hẳn với tinh thần của câu giáo hội ngụy tạo,  đặt vào miệng Giê-su khi ông ta đã chết.  Nhưng các tín đồ, phần lớn ngu ngơ đâu có biết gì, Giáo hội dạy sao thì cứ tin như vậy, không thắc mắc, vì thắc mắc là nghi ngờ Chúa, là có tội phải xuống hỏa ngục, vì Giáo hoàng và các bề trên đều là đại diện của Chúa trên trần hay là Chúa thứ hai. 
---> Giáo hội cũng còn dựa vào một câu ngụy tạo khác trong Tân ước để mê hoặc tín đồ bằng cách nhồi vào đầu óc tín đồ là Giáo hội do chính Chúa Giê-su thiết lập và trao quyền lại cho Peter, một điều hoàn toàn mâu thuẫn với những gì Giê-su đã nói trước trong Tân ước, như được khai triển dưới đây.
Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, ngày nay những luận điệu thần học như trên về Giê-su Ki-tô đã không còn mấy giá trị, ngay cả với những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo.  Không như tuyệt đại đa số các chức sắc trong giáo hội, những người đã biết rõ sự thật về Ki-tô Giáo cũng như những huyền thoại mê tín vẫn được tiếp tục duy trì trong Ki Tô Giáo, nhưng không dám nói ra viện cớ là để tránh gây xúc động trong khối tín đồ, thực ra chỉ là để bám víu vào quyền lực vật chất và tinh thần trên khối tín đồ thấp kém, một số bậc lãnh đạo trí thức trong Ki-tô Giáo đã lên tiếng giải hoặc tín đồ của mình
● Điển hình là Giám Mục John Shelby Spong, Giám mục ở Newark, bang New Jersey, Hoa Kỳ, đã viết một bài nhan đề “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” (Jesus As Rescuer: An Image That Has To Go) trong chương 6, cuốn “Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hay Chết” (Why Christianity Must Change or Die), xuất bản năm 1998, từ trang 83 đến trang 99 [Xin đọc: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php].  Giám mục Spong viết:
Đôi khi, cái cây chết cần phải đào xới lên và vứt bỏ nó đi để lấy chỗ cho cây mới có cơ hội mọc lên. Đối với câu chuyện về Giê-su, hành động trên (đào xới lên và vứt bỏ) thật là tối cần thiết và cấp bách (vital and urgent). Không có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích về nhân vật Giê-su đáng được tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để loại bỏ trong đầu óc tôi có lẽ cũng là cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi diễn giải về Giê-su. Đó là cái hình ảnh của Giê-su như là “đấng thần linh cứu thế” (the divine rescuer).
Tại sao một Giám mục lại đề nghị phải dẹp bỏ vai trò “cứu thế” trong Ki Tô Giáo? Bởi vì, huyền thoại này được xây dựng từ huyền thoại “sáng thế” trong Cựu Ước, nhưng với kiến thức của nhân loại ngày nay về vũ trụ, nhân sinh, đọc chương “Sáng Thế” trong Thánh Kinh về nguyên do con người cần đến sự “cứu rỗi” của Giê-su qua huyền thoại Adam và Eve với “tội tổ tông”, không một người trí thức nào mà không phì cười vì những chuyện hoang đường, mâu thuẫn, phản khoa học, phi lý trí v..v.. trong đó.

● Ngoài ra, Linh Mục James Kavanaugh cũng viết một bài nhan đề Huyền Thoại Cứu Rỗi (The Salvation Myth)  [Xin đọc: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php] trong cuốn “Một Linh Mục Hiện Đại Nhìn Vào Cái Giáo Hội Đã Lỗi Thời Của Mình” (A Modern Priest Looks At His Outdated Church).  Linh mục Kavanaugh nhận định:
Huyền thoại “cứu rỗi” trong Tân Ước chỉ là một cách diễn đạt.  Đó là một huyền thoại của thời bán khai, bản chất của nó giống như những huyền thoại của các dân tộc bán khai ở khắp nơi, nhưng nó hoang đường và ác độc hơn hầu hết các huyền thoại khác (But it is more unbelievable and more cruel than most myths).
Chúng ta thấy, một khi mà vai trò cứu thế của Giê-su đã bị dẹp bỏ, và quyền năng “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là một ảo tưởng, thì từ Ki-tô (Christ) trở thành vô nghĩa.  Người Do Thái không chấp nhận Giê-su là Messiah của họ, vậy không làm gì có cái gọi là Christ (Ki-tô).  Cho nên, danh xưng Ki-tô Giáo không thích hợp vì không còn nghĩa của Christ, nghĩa là một Messiah, một vị cứu tinh của dân tộc Do Thái, khoan nói đến một đấng cứu thế (divine rescuer) cho cả nhân loại.
Công Giáo
Danh từ Công giáo là một danh xưng gây nhiều tranh cãi trong khi chẳng có gì đáng để tranh cãi.  Vì người Ca-tô Rô-ma muốn gọi đạo của họ dưới tên gì cũng được, kể cả những tên vô nghĩa.  Họ gọi như vậy để tự sướng với nhau cũng như họ phong thánh cho nhau, chứ có giá trị gì đâu đối với người ngoài.  Nếu phiên âm đúng thì Roman Catholic phải là Ca-tô Rô-ma.  Nếu dịch đúng thì phải là “đạo phổ quát ở Rô-ma”, vì Catholic chỉ có nghĩa là phổ quát (universal), chứ không có nghĩa nào là Công. Chúng ta biết rằng danh xưng Công giáo chỉ bắt đầu xuất hiện từ thời Ngô Đình Diệm, nghĩa là sau năm 1954.  Trước đó chẳng có ai gọi người đi đạo là người Công giáo, và sau này cũng vậy.  Đối với người dân thường thì chỉ biết đó là người theo đạo, có đạo, hay đi đạo.
Chúng ta hãy đọc một ngụy biện về danh xưng Công giáo của Lữ Giang, một ngụy biện chứng tỏ đầu óc của Lữ Giang có vấn đề:
Theo lịch sử, danh từ Giáo Hội Công Giáo (Catholic Church) được dùng đầu tiên trong thư của Thánh Ignatius thành Antioch gởi cho giáo dân Smyrnaeans (tức ở Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) vào khoảng năm 110. Trong thư có đoạn: “Where the Bishop is, there let the multitude of believers be; even as where Jesus is, there is the Catholic Church'' có nghĩa: “Ở đâu có Giám Mục ở đó có quần chúng tín hữu, ngay cả nơi nào có Chúa Jesus, ở đó có Giáo Hội Công Giáo” (Letter to the Smyrneans 8:2 [A.D. 110]).
Sau năm 1954, Ca-tô Rô-ma Giáo ở Việt Nam dịch Catholic Church là Công giáo, và Lữ Giang cho rằng Ignatius vào năm 110 đã dùng từ “Catholic Church” và đó chính là “Giáo hội Công giáo”, hàm ý bất cứ từ “Catholic church” ở đâu, bao giờ, thì đó cũng có nghĩa là “Giáo hội Công giáo”, một từ mới xuất hiện ở Việt Nam sớm nhất là trong năm 1954.  Ngu ơi là ngu.  Mấy người dịch bậy Catholic là Công rồi bảo Ignatius từ năm 110 cũng đã dùng từ Công giáo. Viết như vậy mà cũng viết lên được thì thật là tài.  Lữ Giang và những người Ca-tô thử đọc định nghĩa của từ Catholic trong tự điển sau đây để xem có nghĩa nào là Công hay không.
Catholic = 1. Of broad or general scope, universal, all-inclusive; 2. Broad and comprehensive in interests, or the like; liberal; 3. a. Of or pertaining to the universal Christian church; b. Of or pertaining to the ancient undivided church; c. Of or concerning the Roman Catholic church.
Tuổi trẻ còn có cách giảng nghĩa ngộ nghĩnh.
Cat= mèo, holic= nghiện. Cat holic nghĩa là nghiện... mèo
Ảnh http://memegenerator.net/instance/25300048
Ca-tô Rô-ma Giáo xâm nhập Việt Nam từ 1533, vậy trong vòng 421 năm trước năm 1954, năm Ngô Đình Diệm lên cầm quyền ở Nam Việt Nam, người Việt Nam gọi Ca-tô Rô-ma Giáo là gì?   Có phải là “Công giáo” hay không?  Hãy đọc Linh mục Vũ Đình Hoạt trong cuốn "Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan":
"Tại Việt Nam kể từ năm 1533 cho đến năm 1954 khi mà các danh từ Thần Học và Kinh Thánh chưa được Hàn Lâm Viện Hóa, nói cách khác chưa được Đại Chủng Viện thuần túy Việt Nam dịch thuật các sách giáo khoa và Phụng Vụ cũng như Kinh Thánh các danh từ cổ như Thiên Chúa Giáo hoặc Gia Tô Giáo trong các sách vở lịch sử hay "Nhà Đạo" vẫn được hiểu cách chung là Đạo Công Giáo [sic], vì lẽ khi đó chưa có đạo Tin Lành trên đất nước Việt Nam, và các nhà truyền giáo cũng chỉ nguyên thuộc Hội Truyền Giáo Thừa Sai Ba Lê (MEP) mà thôi. Kể từ năm 1954 về sau này khi mà đã có Đại Chủng Viện Việt Nam chuyên môn dịch các sách Kinh Đạo Thần (Kinh Thánh, Đạo Đức và Thần Học), lúc ấy mới có sự phân biệt rõ "Công Giáo" (Catholic), bắt nguồn từ Kinh Tin Kính "Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền". (Sách lễ giáo dân sở di trú và tị nạn USCC. Hoa Thịnh Đốn, trang 1370). Vậy kể từ năm 1954 về sau này, các sách vở Việt Nam, nếu muốn trực chỉ nguyên Giáo Hội La Mã hoặc Vatican, thì bắt buộc phải dùng danh từ Công Giáo (Catholic), chứ không thể nào dùng danh từ Thiên Chúa Giáo hoặc Gia- tô hoặc Ki Tô được. " [Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan - Tập II ( Falls Church, VA: Alpha, 1991), trang 1013-1014.]
Mặt khác, Điều 44 trong Dụ số 10, ban hành năm 1950, nguyên văn như sau: – Chế độ đặc biệt dành cho các Hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô, các Hoa Kiều Lý Sự Hội, sẽ được ấn định sau.
Và chúng ta cũng nên biết là Toà Thánh Vatican đã ra lệnh cho các thuộc hạ Ca-tô ở Việt Nam phải công bố một văn thư tuyên bố công khai về danh xưng “Công Giáo” phải được sử dụng trong các văn thư hành chánh, và các sách giáo khoa, cũng như trong các ấn phẩm văn học, để thay thế cho các danh xưng trước đó.  Cho nên từ “Công giáo” chỉ bắt đầu xuất hiện sau khi Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm mới được Hoa Kỳ và Vatican đưa lên cầm quyền vào ngày 7/7/1954. Điều này cho thấy rõ ràng âm mưu toan tính đưa Ca-tô-Rô-ma giáo ở Việt nam lên làm quốc giáo trong mưu đồ Ca-tô hóa miền Nam của Ngô Đình Diệm và giáo hội Ca-tô.  Nhưng tà không thể thắng nổi chánh nên Ca-tô Rô-ma giáo ở Việt Nam đã thất bại trong âm mưu này.
Sự sai lầm và cuồng tín của mấy con chiên là không hiểu được rằng, các ông muốn gọi tôn giáo của các ông như thế nào là quyền của các ông, nhưng không có một lý do nào để người khác cũng phải gọi như vậy theo các ông, và ông không có một quyền hạn nào để lên án họ nọ kia khi họ không gọi tôn giáo của các ông như các ông muốn.  Hơn nữa cái danh xưng “công giáo” mà các ông thường gọi lại không có một căn bản nào có thể thuyết phục được người ngoại đạo. 
Ảnh http://www.boreme.com/posting.php?id=4573
Cho ông một thí dụ:  Các ông gọi giáo hoàng Benedict XVI một điều là “đức thánh cha”, hai điều là “đức thánh cha”.  Nhưng đối với những người ngoại đạo như chúng tôi, biết rõ về vấn nạn đạo đức của các giáo hoàng từ xưa tới nay, kể cả giáo hoàng tiền nhiệm là John Paul II và giáo hoàng đương nhiệm là Benedict XVI, thì không thể nào gọi ông ta là “đức thánh cha” được, vì mấy ông đó còn phàm hơn cả người phàm: vô đạo đức, gian dối, bao che cả đống linh mục (Chúa thứ hai) can tội loạn dâm hay ấu dâm, cho nên một số người Anh đã đòi bắt ông ta bỏ tù.  Nếu mấy người còn chưa rõ thì tôi cho mấy người biết là  nhiều người Tây phương đã đặt cho giáo hoàng Benedict XVI nhiều danh xưng khác như: criminalPanzerkardinalThe Vatican’s Enforcer, “the God’s Rottweiler” (Rottweiler là một giống chó giữ nhà rất hung tợn), The Watchdog of orthodoxy, The Grand Inquisitor, và chúng tôi có thể sử dụng bất cứ danh xưng nào ở trên một cách thoải mái, vô tư.
Về danh xưng “công giáo” cũng vậy, các ông gọi tôn giáo của các ông là “công giáo”,  nhưng đối với những người ngoại đạo như chúng tôi thì chúng tôi biết rõ là chẳng làm gì có cái gọi là “công giáo”. Tên chính thức đạo của các ông theo ngôn ngữ quốc tế hiện nay là “Roman Catholicism”, phiên âm là  Ca-tô Rô-ma Giáo. “Roman Catholicism” không thể dịch  là “Công giáo”, cho nên chúng tôi thấy không có một lý do nào để gọi Ca-tô Rô-ma Giáo là “Công giáo”. 
Sau đây chúng ta thử bàn chơi chữ nghĩa về danh xưng “công giáo” của người Ca-tô trong lãnh vực học thuật.  Trước hết chúng ta cần tìm hiểu người Ca-tô muốn định nghĩa chữ “Công” trong “công giáo” là như thế nào, từ đó chúng ta mới có thể thảo luận về ý nghĩa đó.  Trước hết, theo Tự điển Hán-Việt Nguyễn Văn Khôn: Công = Cùng chung, chung cho mọi người.  Không tư vị, không thiên lệch; Công = Đánh phá, công kích; Công = Thua. Rối Loạn. Và ông Vũ Linh Châu giảng chữ “công” trong Công giáo như sau:
Chữ “công” trong danh xưng Công Giáo có nghĩa là phổ quát là của chung, là công cộng.  Công Giáo là đạo chung cho mọi người, đạo luôn luôn mở rộng vòng tay đón nhận bất cứ ai, ở mọi nơi, thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia...  Giống như công viên là cái vườn của mọi người, bất cứ ai muốn ghé vào cũng được.  Đó là quan điểm của Tân Ước, nó trái ngược hẳn với Cựu Ước, vì Cựu Ước dậy rằng Đạo chỉ dành riêng cho người Do Thái mà thôi.
Quan điểm nào của Tân ước như vậy, ông Vũ Linh Châu kể ra cho chúng tôi nghe xem nào? 
Thời đại của Tân Ước, có ai biết “catholic” là cái gì?  Chắc chắn là ông chỉ nhắc lại những điều ông đã được nhồi vào óc chứ thực ra ông chưa hề đọc Tân ước.  Nếu ông đã đọc Tân ước thì ông phải biết rằng Chúa Giê-su của ông rất ghét những người không phải là Do Thái, lẽ dĩ nhiên, người Việt Nam không phải là người Do Thái, và trong một trường hợp còn coi họ như “chó”.  Hãy chịu khó đọc kỹ Tân Ước đi rồi hãy viết về Tân ước.
Theo giải thích của ông Vũ Linh Châu thì nghĩa của chữ “công” sát với nghĩa thứ nhất trong tự điển của Nguyễn Văn Khôn.  Nhưng xét về thực chất của Ca-tô Rô-ma Giáo thì hai nghĩa sau thích hợp hơn, vì Ca-tô Rô-ma Giáo chuyên “đánh phá, công kích” các tôn giáo khác, và ngày nay Ca-tô Rô-ma Giáo đang thua và rối loạn vì sự vô đạo đức của Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, cũng như của một số không nhỏ các “Chúa thứ hai” can tội loạn dâm và ấu dâm.  Sự suy thoái của Ca-tô Rô-ma Giáo ở Âu Châu, cái nôi của Ca-tô Giáo trước đây, mà Hội Đồng Giám Mục Âu Châu cũng như “the God’s Rottweilerđã phải thú nhận là “Âu Châu sống như là không hề có Gót và cũng chẳng cần đến sự cứu rỗi của Giê-su” đã chứng tỏ sự thua kém và rối loạn của Ca-tô Rô-ma Giáo, không những ở Âu Châu mà còn trên khắp thế giới.
Nghĩa thứ nhất: phổ quát, là của chung, là công cộng, không thể nào thích hợp cho Ca-tô Giáo.  Thứ nhất, phổ quát hay “khắp thế giới” là dịch từ chữ “universal” nhưng trong tất cả những nghĩa của từ “Universal” không có nghĩa nào là “Công” cả.  Với “công”, chúng ta có “công viên” (Public Park chứ không phải là Catholic Park) như ông Vũ Linh Châu so sánh với “công giáo” [VLC = giống như công viên], là nơi mà bất cứ ai cũng có thể vào đó để dạo chơi, thư dãn hay tập thể dục, nhảy múa v…v…, và nhiều khi còn dắt chó vào ỉa bậy nữa.  Chúng ta cũng còn có “cầu tiêu công cộng” (public toilet chứ không phải là catholic toilet) là nơi bất cứ ai cũng có thể vào đó đi tiểu đi tiêu (ở một số địa phương có nhiều người vào đó thấy dơ quá đành nín tè, không dám đi).  Bởi vậy Đại Tá Trần Văn Kha đã châm biếm, dịch “Công giáo” là “Public Religion”. Chúng ta có thể vào công viên, cầu tiêu công, mà không cần phải rửa tội, không phải ở trong đó để học giáo lý công viên hay giáo lý cầu tiêu.  Rất khác với chuyện vào Ca-tô Rô-ma Giáo, không phải ai muốn vào cũng được, mà phải qua nghi thức rửa cái tội không hề có, và phải ở trong đó để được nhồi sọ các giáo lý hoang đường gian dối.   
Người Ca-tô Việt Nam muốn gọi “Roman Catholicism” là gì thì gọi, nhưng họ không bao giờ có thể xóa bỏ được hình ảnh của Giáo hội Ca-tô Rô-ma là một giáo hội tàn bạo đẫm máu nhất thế gian, là một tổ chức thế tục buôn thần bán thánh nấp sau bộ mặt tôn giáo, và nếu muốn nói về một đạo giáo thì đó chẳng qua chỉ là một tà đạo, một đạo chích và một đạo bịp, như tôi đã chứng minh trước đây [Xin đọc: http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5038 ]
Điều rõ ràng là trên thực tế chẳng làm gì có cái gọi là “Công giáo”.  Do đó danh xưng “Công giáo”, cũng giống như những danh xưng “Thiên Chúa Giáo” hay “Ki-tô Giáo” đều vô nghĩa như đã chứng minh ở trên.
Tin Lành:
Danh xưng “Tin Lành” lại càng vô nghĩa hơn nữa, vì đọc Tân Ước chúng ta chỉ toàn thấy là “Tin Lèo”.  Người Ca-tô Rô-ma gọi hệ phái Tin Lành là “Phản thệ giáo”.  Tin Lành cho rằng trong Tân Ước có những Phúc Âm mà người Mỹ gọi là “Good News” để phổ biến trong quần chúng.  Người Việt Nam thì gọi là “Tin Lành” trong khi trên thực tế chỉ là những Tin Dữ.
Một học giả Ca-tô, David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New Mexico State University), trong cuốn "Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The Bad News Bible: The New Testament", trg. 1 - 2) đã viết như sau:
"Vấn đề là người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh kinh có những gì, hoặc ít nhất là Thánh kinh chứa loại tài liệu gì.  Hầu hết đều lầm, họ  chỉ  quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ ngàng khi thấy không những Gót trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của hắn  (nghĩa là Giê-Su; TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới  mức hoàn hảo khá xa.  Thông điệp của Giê-su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn.  Xét về toàn bộ thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu."
(The problem is that people think they know what's in the Bible, or at least what kind of material it contains.  Most of them are wrong: they are only familiar with a few church-approved extracts, and are astonished not just how awful God is in the Old Testament, but also at how much less than perfect his son seems in the New.  The message of Jesus isn't all good news; paradise is an uncertain prospect at best.  Taken as a whole, it could well be The Bad News Bible.)

Robert G. Ingersoll
Cùng một nhận định như trên, Robert G. Ingersoll viết vào cuối thế kỷ 19: Tân Ước còn tệ hại, ác ôn hơn là Cựu Ước.. Chúng ta có thể đọc một đoạn ngắn trong một bài dài “Những Lời Châu Ngọc Về Ki Tô Giáo” của Ingersoll [http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN72a.php]:
Trong Tân Ước, chết chưa phải là hết chuyện, mà chỉ là sự bắt đầu của một hình phạt không bao giờ chấm dứt. Trong Tân Ước, sự hiểm độc của Gót (The malice of God) thì vô tận, khao khát một sự trả thù vô tận của ông ta. [Trong Tân ước Gót là Giê-su]
Cái ông Gót, khi mang da thịt của loài người (Giê-su) dạy các đệ tử đừng có chống lại sự ác (do not resist evil), hãy yêu kẻ thù, và khi bị tát má này thì hãy đưa má kia ra. Nhưng mà chúng ta lại được dạy rằng, chính cái ông Gót Con đó, qua cùng những bờ môi thương yêu được mô tả như trên, đã thốt ra những lời nguyền rủa độc ác những người không tin ông ta như sau: Ngươi là loài rắn, là giòng dõi của những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi bị đầy đọa hỏa ngục?” (Matthew 23: 33).  Đó là những lời phát xuất ra từ một người mà chúng ta được bảo rằng có một tấm lòng “thương yêu không bờ bến tất cả mọi người”.
Giáo lý trừng phạt vĩnh viễn (của Giê-su) là sự ô nhục của mọi sự ô nhục (infamy of all infamies). Và chúng ta được bảo rằng tác giả của hỏa ngục (Giê-su) là một đấng có lòng cực kỳ nhân từ.
Như vậy, chúng ta thấy, chẳng có cái gì có thể gọi là Tin Lành Giáo. Vì Tin Lành chỉ là điều hoang tưởng của những tín đồ cuồng tín, nhắm mắt mù lòa tin bướng tin càn chứ thực sự làm gì có Tin Lành.
Như trên tôi đã chứng minh là tất cả những danh xưng như “Thiên Chúa Giáo”, “Ki-tô Giáo”, “Công Giáo”, “Tin lành Giáo” đều không có giá trị vì không đúng sự thật.  Tất cả đều dựa trên cùng một ảo tưởng: The God Delusion của Richard Dawkins.  Vậy thì chúng ta nên gọi đạo chung của những người tin Giê-su là gì.
Ngày nay những người tin vào “một-cái-bánh-vẽ-trên-trời” của Giê-su trong Tân Ước thường không dám nhắc đến Cựu Ước, bảo đó là đạo của người Do Thái, nhưng quên rằng Giê-su đã khẳng định là sinh ra để hoàn thành những luật của Cha ông ta trong Cựu Ước, và nếu không có Cựu Ước với huyền thoại Sáng Thế thì vai trò cứu rỗi của Giê-su cần phải ném vào Trash Bin.  Thực ra thì họ đặt nhẹ Cựu Ước vì trong Cựu Ước có quá nhiều điều tàn bạo, bất công, vô luân và nhảm nhí đối với sự hiểu biết của chúng ta ngày nay.  Nói tóm lại, ngày nay họ chỉ cần tin vào Giê-su và hi vọng với niềm tin đó , sau khi chết họ sẽ được ăn “cái-bánh-vẽ-trên-trời”
Do đó, Giám Mục James A. Pike, Trưởng Ban Tôn Giáo, Đại Học Columbia [Chairman of the Department of Religion, Columbia Universsity] đã nhận định: “TRONG THỜI HIỆN ĐẠI, TÔN GIÁO CỦA NHIỀU NGƯỜI RẤT CÓ THỂ ĐƯỢC XẾP VÀO LOẠI “ĐẠO GIÊ-SU (Bishop JAMES A. PIKE, A Time For Christian Candor, p. 108: IN MODERN TIMES THE RELIGION OF MANY COULD WELL BE  CATEGORIZED AS “JESUSISM”). Người Trung Hoa phiên âm Giê-su là Ye-su và viết là 耶 蘇 và theo tự điển Hán Việt của Nguyễn Văn Khôn thì  耶 đọc là “Da”, và 蘇 là “Tô”.Cho nên giáo sư Nguyễn Mạnh Quang thường dùng từ “Da-tô” là chính xác nhất. Và người Việt Nam, từ năm 1533 đến năm 1954 vẫn dùng từ “đạo Gia-tô” (đúng ra phải là Da-tô, người Việt Nam phát âm ít phân biệt giữa Gia và Da) để chỉ cái đạo từ phương Tây xâm nhập vào Việt Nam mà tất cả cấu trúc và giáo lý đều xa lạ với truyền thống xã hội dân tộc Việt Nam.  Theo Nguyễn Long Thao thì: Cụm từ Gia Tô Tả Đạo (Tả có nghĩa là không ngay thẳng) được thấy trong các bộ sử như Đại Nam Thực Lục của triều nhà Nguyễn. Quan điểm chính thức của nhà Nguyễn vào những năm giữa thế kỷ 19 cho rằng đạo Công Giáo là một tà đạo. Ví dụ vào năm 1847, Đại Nam Thực Lục, bộ sử của triều đình nhà Nguyễn ghi sắc dụ của  vua Thiệu Trị giải thích từ Gia Tô Tả Đạo như sau: Gia Tô là tả đạo, từ tây dương đến, cái đạo của chúng không thờ cha mẹ, không kính qủy thần, thác ra cái thuyết Giêsu với thập tự giá mê hoặc lòng người, đặt ra thuyết thiên đường và nước phép để người ta nghe đến thì mê. Tả đạo ấy rất hại cho phong hóa. (Đại Nam Thực Lục, Tập 6 ,NXB Giáo Dục,2007,tr. 997).  Lẽ dĩ nhiên, với sự hiểu biết của chúng ta ngày nay về đạo này thì sự giải thích của Triều Nguyễn không sai.
Nhưng vì “đạo Giê-su” hay “đạo Da-tô” chia ra làm nhiều hệ phái thẳng tay chém giết, tàn sát lẫn nhau nên chúng ta cũng cần phân biệt: Ca-tô Rô-ma Giáo thì nên đổi là “đạo Giê-su [hay Da-tô] ở Rô-ma”; đạo Tin Lành thì nên đổi là “đạo Tin Dữ Giê-su”, Chính thống Giáo thì nên đổi là “đạo Giê-su miền Đông”, và Anh giáo thì nên đổi là “đạo Giê-su của người Anh”.  Điều này rất hợp lý và rất rõ ràng, không thể nhầm lẫn vào đâu được.
Chúng ta đã phiên âm nhiều từ: Jesus là Giê-su, God là Gót, Roma là Rô-ma v..v…, cho nên tôi đề nghị, từ nay về sau, những người ngoại đạo nên tránh dùng danh xưng “Công giáo”, vì dùng một danh xưng vô nghĩa, sai sự thật, không thể thuyết phục được ai. Trước khi nghiên cứu về những vấn đề trên, tôi đã từng dùng nó nhiều lần một cách tự động, không phải vì tôi tin vào danh xưng đó mà vì tôi không chấp vào chữ nghĩa. Thay vì đó chúng ta hãy dùng cụm từ Ca-tô Rô-ma, phiên âm từ Roman Catholic. Ý thức về vấn đề này, tôi tự hứa, từ nay tôi sẽ dùng “Ca-tô Rô-ma” hay “đạo Giê-su (hay Da-tô) ở Rô-ma” để nói về Roman Catholic. Lẽ dĩ nhiên, người Ca-tô Rô-ma ở Việt Nam vẫn có quyền gọi đạo của họ là “Công giáo”, nhưng nếu bị cười vào mũi thì đừng buồn và nổi giận.

Trần Chung Ngọc
Ngày 22 tháng 11, 2012


0 nhận xét:

Đăng nhận xét