Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

NHÂN VẬT MARY TRONG CA-TÔ GIÁO RÔ-MA



[Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu]

Trần Chung Ngọc



01 tháng 4, 2008



PHẦN I
Mary Trong Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo
[The Biblical Mary]

Gần đây, trong vụ Tổng Giám Mục Ca-tô Ngô Quan Kiệt huy động giáo dân gồm cả trẻ con mang búa, kìm và xà beng đi thắp nến cầu nguyện ở “Tòa Khâm Sứ không có Khâm Sứ” ở Hà Nội, giáo dân đã dùng “nến và cầu nguyện” hung hăng phá sập cổng sắt “Tòa Khâm Sứ không có Khâm Sứ” và tràn vào, hung hăng mang cây Thập Ác mà họ gọi là Thánh Giá vào cắm đại trong khuôn viên Tòa Khâm Sứ, và hung hăng mang bức tượng bà Mary vào trong để có tượng mà xì xụp cầu nguyện lễ lậy. Hành động làm loạn đượm mầu sắc chính trị này trái hẳn với lời dạy của Chúa Giê-su của họ trong Tân Ước: “Chỗ cầu nguyện tốt nhất là ở trong phòng kín” [closets], và của Cha Giê-su trong Cựu Ước: “Ngươi không được thờ hình tượng”.. Ở ngoài đường, cây thập giá và hình tượng Mary đã trở thành những vật dụng dùng cho những mục đích chính trị thế tục.

Điều này cũng không lạ, vì lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma thường xuyên dùng thủ đoạn này để kích thích sự cuồng tín, “tổng hợp của ngu, dốt, hợm hĩnh và hung hăng” (theo định nghĩa của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang) của giáo dân. Giáo hội đã từng khích động giáo dân vác cây thập giá đi làm theo “ý Chúa” (God’s will), nghĩa là đi giết người trong những cuộc gọi là “thánh chiến”. Giáo hội cũng từng cho Mary hiện ra nhiều nơi, trước đây thì để chống Cộng, nhưng ngày nay thì cho chảy máu chảy dầu, chẳng biết nói lên được điều gì ngoài việc kích thích sự cuồng tín vô trí của giáo dân, và đã từng vác tượng Mary đi diễn hành khắp nơi trên thế giới. Trong thời điểm này, tôi nghĩ một cuộc nghiên cứu về cây “thập ác” và “nhân vật Mary” trong Ki Tô Giáo là điều cần thiết để mở mang sự hiểu biết của người dân Việt Nam về một tôn giáo rất cuồng tín chiếm 6-7% dân số.
Bài về cây thập ác đã được đăng lên trước. Bài viết này là về “nhân vật Mary” trong Ca-Tô Giáo. Mary là nhân vật quan trọng nhất trong Ca-Tô Giáo Rô-ma, còn quan trọng hơn cả con bà ta là Giê-su. Vai trò Giê-su trong giáo hội chỉ là một cái bánh vẽ trên trời để huyễn hoặc những kẻ nhẹ dạ cả tin về một đời sống đời đời trên thiên đường cùng Chúa của họ. Còn vai trò của Mary có tác dụng cầm giữ tín đồ trong vòng sùng tín và cuồng tín, nhất là mang lại rất nhiều lợi nhuận vật chất cho Giáo hội. Để cho việc nghiên cứu về nhân vật Mary tạm gọi là đầy đủ, tôi sẽ trình bày Mary trong hai tiểu mục sau đây.
1. Mary trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [The biblical Mary]
2. Mary ngoài cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [The unbiblical Mary]

I. Mary Trong Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo.

Trước hết, phần nghiên cứu về Mary này không có mục đích phá đổ sự sùng tín Mary của các tín đồ Ki Tô Giáo, mà chỉ có mục đích tìm hiểu về nhân vật Mary trong Ki Tô Giáo thực sự là như thế nào, qua chính cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [Bible] và các tác phẩm nghiên cứu của chính những người trong Ki-Tô Giáo, từ các bậc lãnh đạo tôn giáo cho đến các nhà thần học, học giả, giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo trong các truyền thống Ki Tô Giáo, để mở mang kiến thức người dân Việt Nam về những điều đã được phổ biến rộng rãi trong thế giới Tây phương. Vì như Friedrich Nietzche đã viết: “Những gì mà quần chúng được dạy để mà tin không cần đến lý lẽ, vậy thì ai là người có thể bác bỏ niềm tin đó bằng những lý lẽ.” (What the populace learned to believe without reasons, who could refute it then by neans of reasons?) Hơn nữa, tôi hiểu rằng, theo H. L. Mencken thì “Đức Tin là một kiểu tin phi lô-gíc vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực” (Faith is an illogical belief in the occurence of the improbable), và theo tự điển thì “Đức tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” (Faith is the firm belief in something for which there is no proof).
Đức tin trong Ca-Tô Giáo Rô-ma là như vậy, do đó sự sùng tín Mary dựa trên những sự kiện lịch sử hay trên những huyền thoại, truyền thuyết, không phải là vấn đề đối với những người tin. Cái mà họ chọn để mà tin, hay đã được cấy vào đầu từ nhỏ để mà tin, thì không cần thiết phải dựa trên những bằng chứng lịch sử, bằng chứng khoa học. Không có một công thức nào, một lý luận trí thức nào, hay một bằng chứng khoa học nào có thể mang ra để xác định, hay thử nghiệm, hay bác bỏ một đức tin, trừ khi chính tự tín đồ, qua sự hiểu biết chân thật, nhận thức được rằng đức tin của mình chỉ là một hi vọng hoang tưởng. Cũng vì vậy mà Giáo Hoàng John Paul II đã viết trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”: “Chúng ta chỉ có thể hoặc tin, hoặc không tin.” Và con chiên của ông ta, Giáo sư Đỗ Mạnh Tri, trong cuốn Ngón Tay Và Mặt Trăng cũng khẳng định: “Tin là một cách sống chết, không liên quan gì đến cái biết, cái hiểu.” Căn bản “đức tin” trong Ca-Tô Giáo Rô-ma đã được khẳng định bởi Thánh Ignatius of Loyola, người sáng lập dòng Tên, như sau:
Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng cái mà chúng ta thấy là trắng thì thực sự là đen, [hoặc thấy là đen thì thực sự là trắng, vì Giáo hội Ca-Tô đen ngòm nhưng vẫn tự nhận là trắng. TCN] nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy.
[John Dollison, Pope-Pourri, p. 174: Ignatius of Loyola: We should always be disposed to believe that which appears white is really black, if the hierarchy of the Church so decides.]
Đọc những bài của mấy ông thầy tu Ca-Tô Việt Nam như Nguyễn Văn Thuận, Trần Văn Khả, Phan Phát Huồn, Vũ Đình Hoạt, Thiện Cẩm v..v.. hay của các trí thức Ca-Tô Việt Nam như Đỗ Mạnh Tri, Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Cần, Lê Hữu Mục, Tôn Thất Thiện v..v.., hay những bài trên tiengnoigiaodan, vietcatholic v..v.. chúng ta thấy rõ cái loại “đức tin” này, một loại “đức tin” nhìn trắng thành đen, hay đen thành trắng, dùng mọi thủ đoạn chỉ cốt để bênh vực cái giáo hội không đáng bênh vực, cái niềm tin không đáng tin, bất kể đến những sự thật về khoa học hay lịch sử, bất kể đến sự lương thiện trí thức, và về chính tôn giáo của mình thì không có gì ngoài việc lập lại như những con vẹt những điều “giáo hội dạy rằng…” với tâm cảnh khúm núm quỵ lụy bề trên một cách lạ lùng.
Nhưng do sự tiến hóa của nhân loại, con người Tây Phương không thể tự cho phép sống mãi trong bóng tối của sự vô minh, của sự mù quáng như các tín đồ cuồng tín Việt Nam. Do đó, nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các vấn đề cho rõ ràng, nhìn sự việc như chúng đúng là như vậy, là nỗ lực của giới trí thức Tây Phương trong mấy trăm năm nay. Cũng vì vậy, trong vòng mấy trăm năm nay, các trí thức Tây phương đã thoát ra khỏi ngục tù tâm linh, nghĩa là đức tin mù quáng, của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng. Họ đã gỡ bỏ được những ngón tay bóp chặt yết hầu họ, bịt miệng họ, đã vứt bỏ được cái vòng kim cô đã xiết chặt khả năng suy tư trong đầu óc họ, và cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [Bible] mà trước đây đã được áp đặt trên tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, với sự độc quyền diễn giải Kinh điển và thêm thắt ngoài Kinh điển của các giáo hội Ki Tô Giáo, do đó họ chỉ có quyền nghe chứ không có quyền đặt nghi vấn, nay đã được mang ra nghiên cứu, mổ sẻ, phân tích chi tiết hơn bất cứ cuốn sách nào khác.
Theo đường hướng mở mang kiến thức này, vì Mary là mẹ của Giê-su trong Tân Ước, cho nên nguồn tài liệu đầu tiên mà chúng ta phải tìm đến chính là cuốn Tân Ước. Nhưng trong cuốn Tân Uớc, Mary được nhắc đến rất ít, và không có chỗ nào viết bà là “Mẹ Thiên Chúa” (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate Conception) [Xin đừng nhầm là thụ thai Giê-su], “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual Virginity), “Thăng Thiên” (Assumption) hay “Đồng Công Cứu chuộc” (Co-redemptrix) v..v... Tất cả những danh hiệu này là do Giáo Hội Ca-Tô cưỡng đặt ra cả mười mấy thế kỷ về sau và bắt các tín đồ phải tin, không tin thì không được lên thiên đường, lẽ dĩ nhiên phải qua ngả Vatican, vì Vatican nắm trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường. Trong Thánh Đường Phê-rô ở Vatican có bức tượng Phê-rô tay cầm chiếc chìa khóa mở của thiên đường, và các giáo hoàng đều là những người thừa kế Phê-rô, một mánh mưu thần học để tạo quyền lực cho Giáo hoàng..
Muốn tìm hiểu về nhân vật Mary, nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất là bốn Phúc Âm trong Tân ước viết bởi Mark khoảng 40 năm sau khi Giê-su bị đóng đinh trên cây thập giá. Tiếp theo là Matthew và Luke, viết vào khoảng cuối thế kỷ 1, và sau cùng là John, viết vào đầu thế kỷ 2. Ngoài ra chúng ta cũng có những tài liệu từ cuốn Protevangelium of James, được viết vào hậu bán thế kỷ 2. Ca-Tô Giáo Rô-ma không công nhận cuốn Protevangelium of James là Kinh bản chính thống của Ca-tô giáo, nhưng để đẩy mạnh lòng sùng tín Mary, Ca-tô Giáo đã lấy tên của bố mẹ Mary, Joachim, cha của Mary, và Anna, mẹ của Mary trong đó để làm những bài ca tụng những người đã sinh ra Mary. [Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 66: "Lạy ông Thánh Goakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David." (Trích dẫn từ Kinh cầu ông Thánh Gioakim của Công Giáo); "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương...Bà là đấng sang trọng bởi dòng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Cầu Bà Thánh Anna của Công Giáo). Cả hai nhân vật Joachim và Anna đều không có trong Tân Ước.]
Trong Tân Ước, ngoài huyền thoại về sự sinh ra của Giê-su, bà Mary chỉ xuất hiện có vài lần: cùng với chồng là Joseph đi kiếm ông con Giê-su 12 tuổi tưởng là bị lạc nhưng thực ra là trốn cha mẹ ở lại trong một giáo đường (Luke 2: 41-49); trong một bữa tiệc cưới có Giê-su dự và tại đây Giê-su đã trổ tài làm phép lạ biến nước thành rượu (John 2: 1-5); cùng với các con khác [4 con trai và ít nhất là 2 con gái] đến thăm Giê-su khi Giê-su đang giảng đạo nhưng Giê-su không tiếp và còn lên tiếng hỏi: “Ai là mẹ ta? Ai là các em ta”” (Matthew 12: 48); có mặt khi Giê-su bị đóng đinh chết trên thập giá (John 19:25-26); và cầu nguyện cùng những người theo Giê-su sau khi Giê-su thăng thiên (Acts 1:14). Trong thư của Paul gửi cho dân Ga-la-ti có một câu nói về sự sinh ra của Giê-su, “Gal.4.4: Khi tời gian đã mãn, Thiên Chúa bèn gửi con của Người xuống, sinh ra từ một người đàn bà” (When the fulness of time had come, God sent forth his Son, born of a woman..) Paul không nhắc đến tên Mary, nhưng câu trên chứng tỏ Mary cũng chỉ là một người đàn bà như mọi người khác.
Và tất cả chỉ có vậy. Vì tất cả chỉ có vậy trong Tân ước, nên tất cả những gì Giáo hội Ca-Tô Rô-ma nói về Mary và bắt các tín đồ phải tin chỉ là những sản phẩm thần học của Ca-Tô Giáo Rô-ma để đưa tin đồ vào những niềm tin không cần biết không cần hiểu. Nền thần học về Mary (Mariology) của Ca-Tô Giáo Rô-ma chỉ có mục đích dựng Mary lên thành một hình tượng để cho tín đồ sùng bái (Mariolatry) và từ đó khai thác sự mê tín của tín đồ để thu về những nguồn lợi vật chất khổng lồ về thương mại và kinh tế. Trong cuốn Mary [London 2001], tác giả Michael Jordan viết, trang 97: ‘Trong những kinh văn được giáo hội Ca-Tô chấp nhận, vì có quá ít viết về Mary nên tiểu sử của Mary được sơn phết đến vô tận, bất kể là sự thêm thắt đó gượng gạo như thế nào” [So little appeared about Mary in the canonical texts that her biographical portrait was open to infinite coloration, however far-fetched the embellishment.]
Tất cả những danh hiệu mà Giáo hội Ca-Tô đưa ra về Mary qua nền thần học Ca-Tô đều dẫn xuất từ huyền thoại Giêsu sinh ra từ “Mary đồng trinh” và rồi sau đó nâng Giê-su từ một người thường thành đấng Ki-Tô cứu chuộc, cho nên, trước hết chúng ta hãy đọc trong Tân Ước về huyền thoại Giê-su sinh ra đời. Trong Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về chuyện này, hai Phúc Âm này viết sau khi Giê-su chết từ 50 tới 70 năm. Ngày nay, người ta đã kiếm được một số tài liệu nói về Giê-su còn sót lại, không bị thiêu hủy bởi Ca-Tô Giáo Rô-ma, vì trong những tài liệu này có những chứng tích không phù hợp với nền thần học của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Thí dụ như tài liệu mang tên Sepher Toldoth Jeshu, viết vào khoảng cuối thế kỷ đầu, mà cuối thế kỷ 19 mới được dịch ra tiếng Anh là The Jewish Life of Jesus, có nghĩa là Cuộc Đời Do Thái Của Giê-su. Trong tài liệu này, Miriam (Mary) đã được hứa hôn với một người đàng hoàng tên là Jochanan (Joseph), nhưng rồi lăng nhăng với một tên ăn trộm du thủ du thực nhưng rất đẹp trai tên là Pandera (Pandera was a man of fine figure and rare beauty, but spent his time in robbery and licentiousness) và mang bầu. Khi biết được, Joseph, để tránh sự nhục nhã và xấu hổ, đã bỏ đi Babylon sinh sống (To avoid the shame and disgrace, Joseph ran away to Babylon and there took up his abode). Đến kỳ sinh nở, Miriam sinh ra một đứa con trai và đặt tên nó là Jehoshua (Jesus) [In due time Miriam brought forth a son and named him Jehoshua] Chúng ta thấy chuyện sinh ra của Giê-su trong Tân ước khá tương tự nhưng vai trò của các nhân vật trong tài liệu trên đã thay đổi: Pandera trở thành “Thánh Linh”, và Joseph cảm thấy xấu hổ và bỏ đi Babylon đã biến thành Joseph không muốn làm cho to chuyện cho nên nghe lời thiên thần báo mộng, chấp nhận Mary làm vợ, rất hãnh diện vì được Thánh Linh cắm sừng và sau này được Ca-Tô Giáo phong thánh..
Trên đây chỉ là một tài liệu không chính thống vì không phù hợp với những tài liệu mà giáo hội Ca-tô công nhận. Vậy thì chúng ta hãy trở về tài liệu chính là cuốn Tân ước. Muốn tìm hiểu về Mary, chúng ta không thể tách rời Mary ra khỏi vai trò của Giê-su trong Ki Tô Giáo, và không đâu rõ bằng chuyện Mary sinh ra Giê-su. Phúc Âm Matthew (Mã-Thi-Ơ) kể như sau, Matthew 1: 18-24, xin đặc biệt chú ý những đoạn chữ đậm:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.
Việc xảy ra đúng như lời Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo] tiên đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”.
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Chúng ta hãy phân tích đoạn trên trong Tân Ước. Phân tích Kinh của Ki Tô Giáo với đầu óc tỉnh táo, không mê mẩn, và với một chút lô-gíc, là một nghệ thuật. Thật vậy, chỉ bằng vào một đoạn ngắn như trên, chúng ta có thể khám phá ra nhiều điều kỳ thú để mà thưởng thức, nếu chúng ta có khả năng đọc giữa những giòng chữ để có thể thưởng thức những chuyện cấm đọc, cấm hiểu trong Ca-Tô Giáo.
Thứ nhất, chuyện Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật của Do Thái. Randel Helms viết trong cuốn Những Chuyện Giả Tưởng Trong Phúc Âm (Gospel Fictions), trang 48: “Có lẽ Matthew không biết là theo luật Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn phải hợp pháp và công khai” (Matthew was perhaps unaware that this (the marriage contract set aside quietly) was not possible under Jewish law; the process had to be legal and public.) Câu Joseph là người tốt bụng, không muốn nàng bị nhục trước công chúng ... cũng chứng tỏ là Joseph biết rõ là cái thai trong bụng Mary không phải là của mình.
Nghiên cứu cổ sử Do Thái, các học giả đã khám phá ra rằng, ngay từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái đã cho rằng khuôn mặt thần thánh của Giê-su thật ra chỉ là một đứa con hoang. Họ dựa vào chính Tân Ước vì Tân Ước viết rằng Joseph là chồng của Mary nhưng lại không phải là cha của Giê-su. Và ngay trong thời đại này, có nhiều học giả nghiên cứu Tân Ước cũng nghĩ như vậy.
Thí dụ, Jane Schaberg trong cuốn The Illegitimacy of Jesus, xuất bản năm 1987, còn cho rằng “rất có thể Mary bị hiếp, và Matthew đã dựng lên một khung thần học tinh vi để biến đổi thực tế ô nhục trên thành một huyền thoại mà ông ta có thể xây dựng một truyền thống trên đó.” (Jane Schaberg, in her 1987 book The Illegitimacy of Jesus, argues that Mary was most likely raped, and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition).
Trong tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, có bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now). Tác giả viện dẫn Phúc Âm James và viết như sau:
Chuyện người ta cho rằng Giê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6, “Đây có phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường. Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời của Giê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai.
(Reynolds Price, Time, Dec. 6, 1999: The suggestion that Jesus' childhood may have been dogged by the accusation of bastardy is perhaps implicit in his townspeople's question in Mark 6, "Isn't this Mary's son?" To be called one's mother son, as opposed to one's father's, was often an implication of bastardy, or at least a sign that one's paternity was unknown, whether divine or not. Early opponents likewise suggested that Mary had conceived Jesus with a Roman soldier, Panthera. His childhood may well be clouded by questions about his paternity.)
Trong tài liệu Sepher Toldoth Jeshu kể trên cũng có đoạn Joseph than: “Than ôi! Thật là nhục nhã và xấu hổ cho tôi! Vì Mary, người hứa hôn với tôi, đã mang thai, không phải con của tôi, mà là con của người khác. Đó là con của cái mụ Mary đó. [Alas! What a shame and disgrace has happened to me! For Mariam my bethrothed is with child, not by me, but by someone else. This is the son of that Mariam.]
Và Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:
Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ .
(John Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.)

PHẦN I
Mary Trong Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo
[The Biblical Mary]
(tiếp theo)
Như vậy, xưa cũng như nay, ngoài các tín đồ Ca Tô Giáo, không có mấy ai tin Thánh Linh là tác giả cái thai trong bụng Mary, kể cả hệ phái Ki Tô Tin Lành. Tôi xin nhắc lại là phần phân tích khảo cứu này có mục đích tìm hiểu, mở mang kiến thức, chứ không phải là để phỉ báng bà Mary, đối tượng sùng tín của các tín đồ Ca-Tô Giáo. Và những kết quả nghiên cứu phân tích đều là của các tác giả Tây phương trong các xã hội Ki Tô Giáo và trong chính Ki Tô Giáo chứ không phải là của tôi.
Một vấn đề được đặt ra là, tại sao lại có nhiều học giả ngày nay cũng nghĩ như những tác giả Do Thái khi xưa, cho rằng Giê-su chỉ là một đứa con hoang? Vấn đề thực sự không lấy gì là khó hiểu. Nếu chúng ta đọc kỹ đoạn trên trong Tân ước của Matthew (Mat.1: 18-24) thì chúng ta có thể thấy rằng dư luận Giê-su là đứa con hoang từ xưa cho tới ngày nay không phải là không có cơ sở.
Thật vậy, tại sao Matthew, một người tuy không phải là tông đồ của Giê-su nhưng rất tin Giê-su là một Messiah của Do Thái, lại viết ra chuyện “Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Maria càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn..” Vì ông ta không thể bịt đi dư luận Mary “không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường” đã đồn đãi rộng rãi trong thời đó, và rồi ông ta giải thích bằng cách cho một thiên thần đến báo mộng cho Joseph biết là chính Thánh Linh đã làm cho bụng của Mary to, một chuyện mà ngày nay nếu người nào còn tin thì gõ vào đầu họ sẽ nghe thấy một tiếng vang. Nhưng Matthew không phải là người có trình độ nên đã để lộ ra nhiều sơ hở rất mâu thuẫn và vô lý trong đoạn trên. Chứng minh?
Matthew viết: “Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.” (King James Version, Mat.1: 18: After His mother Mary was bethrothed to Joseph, before they came together, she was found with child of the Holy Spirit). Người ta ở đây là ai? Tất nhiên phải là những người ở quanh vùng Mary sống. Nhưng làm sao “người ta” lại có thể biết là Mary có mang với Thánh Linh, ngay cả trước khi thiên sứ báo mộng cho Joseph? Vì tuy Mary chẳng nói với ai, nhưng không thể che dấu được cái bụng càng ngáy càng lớn. Rồi câu tiếp theo: “Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.” (Joseph her husband, being a just man, and not wanting to make her a public example, was mind to put her away secretly). Câu này cho thấy hiển nhiên là Joseph không biết là Mary có mang với Thánh Linh như “người ta”, cũng không biết là Mary có mang với ai, và tin rằng Mary đã lăng nhăng với người nào khác, nhưng không muốn làm to chuyện để tránh cái nhục cho cả mình lẫn Mary. Rồi đến câu tiếp theo: “Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.”
Chúng ta thấy đây rõ ràng là một khung thần học do Matthew dựng lên, đúng như nhận xét của Jane Schaberg trong cuốn The Illegitimacy of Jesus ở trên. Vì chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc mộng của Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và trong Tân ước không hề có chỗ nào viết là Joseph kể chuyện này cho ai. Matthew viết phúc âm Matthew khoảng 60 năm sau khi Giê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Giê-su sinh ra đời. Lúc này, cả Joseph lẫn Mary có thể đã chết cả rồi. Matthew không thể là một nhân chứng trong giấc mộng của Joseph. Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của Giê-su. Kết luận? Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần thánh hóa người mình sùng tín: Giê-su, theo niềm tin riêng của mình. Và câu của thiên sứ: Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi cho thấy mục đích của Thánh linh làm cho Mary mang thai để sinh ra Giê-su là Giê-su chỉ có nhiệm vụ cứu dân của nó, nghĩa là dân Do Thái mà thôi. Đây chính là sự mong ước của người dân Do Thái, hi vọng có một “cứu tinh”, cứu dân tộc ra khỏi vòng nô lệ của La Mã thời đó.
Khi Giê-su sinh ra đời thì Do Thái đang ở trong vòng nô lệ của La Mã. Chúng ta thấy ngay, từ cứu dân [Do Thái] của nó trở thành đấng cứu thế cho cả nhân loại chẳng qua chỉ là mánh mưu thần học của Công Giáo để phát triển, kéo con người vào vòng mê tín, chứ không phải là theo đúng Tân Ước. Còn nữa, Ca-tô Giáo dựa vào câu trong Tân ước, Matthew 28: 19, cho là lời của Giê-su dạy để đi truyền đạo bằng bạo lực, cưỡng bách, và những thủ đoạn bất minh, trên khắp thế giới: “Hãy đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần... “ Nhưng câu này là câu mà Giê-su nói sau khi...đã chết. Thử hỏi ngày nay có còn ai tin được chuyện thân xác Giê-su sống lại? Các nhà thần học ngày nay cũng phải giải thích khác đi sự sống lại (resurrection) của Giê-su và coi đó chỉ là sự sống lại về tâm linh (spiritual resurrection). Câu trên cũng được Tin Lành tận dụng để đi truyền đạo trên khắp thế giới, vì đối với Tin Lành, họ tin rằng Kinh Thánh không thể sai lầm, do đó tuyệt đối tin theo từng câu từng chữ.
Chuyện Thánh Linh có thể làm cho Mary mang thai là chuyện của 20 thế kỷ trước, trong thời đại mà con người có thể tin vào bất cứ điều gì, dù hoang đường và vô lý đến đâu. Và Mary không phải là người duy nhất trong lịch sử loài người đã mang thai với một vị Thần. Trước Mary đã có nhiều huyền thoại về những nhân vật lịch sử sinh ra từ các nữ trinh và là con của các Thần khác nhau. Trong thời đó, người ta cho rằng sinh con đẻ cái là do hạt giống trong tinh khí của đàn ông, đàn bà chỉ là một miền đất để gieo hạt. Giáo sư thần học Ca-Tô Uta Rake-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị giáo sư thần học Ca-Tô Giáo trong giáo hội, trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things), đã cho rằng chuyện Thánh Linh làm cho Mary mang thai trở thành vô nghĩa từ khi khoa học khám phá ra buồng trứng của phụ nữ, nghĩa là phụ nữ là cộng sự viên trong việc mang thai và sinh con đẻ cái, và nếu Thánh Linh không đưa vào tử cung của Mary những tinh trùng của đàn ông trong đó có những nhiễm sắc tố (chromosomes) X và Y, thì Mary chỉ có thể đẻ ra con gái.
Để hỗ trợ cho sự bịa đặt của mình, Matthew đã viện dẫn một câu trong Cựu Ước để chứng minh là sự sinh ra của Giê-su từ một nữ trinh phù hợp với một lời tiên tri trong Cựu ước. Ông viết tiếp: “Việc xảy ra đúng như lời God [của Ki Tô Giáo] tiên đoán qua nhà tiên tri: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng ta”.”
Nhưng chính cái chuyện Matthew định chứng minh sự sinh ra của Giê-su đúng với lời tiên tri trong Cựu Ước này lại chứng tỏ Matthew không được thông minh cho lắm, vì ông ta chỉ để hở ra cái đầu còn dấu đi cái đuôi. Ông ta lấy một câu trong Cựu Ước, Isaiah 7: 14, để chứng minh rằng Giê-su sinh ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước. Ông ta biết rằng dân thường thời đó chẳng bao giờ đọc Cựu Ước, cũng như ngày nay, các linh mục lấy những đoạn trong cuốn Kinh, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context), để giảng cho tín đồ vì biết tín đồ không bao giờ đọc đến cuốn Kinh đó, tuy nhà nào cũng có một cuốn. Thật vậy, câu trong Isaiah 7:14, “Cho nên, chính Chúa sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” (Therefore the Lord Himself will give you a sign: Behold, the virgin shall conceive and bear a son, and shall call his name Immanuel.) chẳng phải là lời tiên tri chuyện Giê-su sinh ra đời mà là Isaiah nói ra trong một trường hợp khác hẳn. Đây là trường hợp vua Ahaz của xứ Judah (Nam Do Thái) đang bị hai kẻ thù, Syria và Israel (Bắc Do Thái) tấn công. Nhà “tiên tri” Isaiah của xứ Judah thời đó trấn an nhà vua bằng một lời “tiên tri”, rằng hai kẻ thù kia sẽ bị đánh bại. Khi nào? Lời “tiên tri” của Isaiah đã nói lên rõ ràng, Isaiah 7: 14-16, nhưng Matthew đã chỉ viện dẫn Isaiah 7:14 và dấu đi hai câu sau, Isaiah 7: 15,16:
Isaiah 7: 14: Cho nên, chính Chúa sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một một người đàn bà trẻ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel. 7:15: Đứa trẻ đó sẽ ăn bơ và mật cho đến khi biết bỏ điều ác chọn điều thiện. 7:16: Nhưng trước khi đứa trẻ ấy biết bỏ điều ác, chọn điều thiện, thì đất nước của hai vua mà ngài đang sợ hãi sẽ bị hoang vu.
Chúng ta thấy ngay chủ đích của Matthew trong việc trích dẫn chọn lọc trên từ Cựu Ước với mục đích truyền bá niềm tin riêng của mình. Truyền thống này kéo dài trong giáo hội Ca Tô cho tới ngày nay với những câu thêm thắt, ngụy tạo trong Tân Ước, cùng những lời diễn giảng cắt xén chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề. Thủ đoạn này cũng thấy xuất hiện đầy trong bản Tông Huấn cho các Giáo hội Á Châu của Giáo hoàng John Paul II. Mặt khác, Isaiah thường được coi như là một nhà đại tiên tri trong Cựu Ước. Nhưng thực ra, Isaiah chỉ “tiên tri” láo, vì lời “tiên tri” trong Isaiah 7: 14-16 ở trên hoàn toàn sai với sự thực nếu chúng ta đọc II Sử Ký 28 (2 Chronicles 28) kể chuyện Ahaz xứ Judah bị hai nước đánh bại thê thảm như sau:
Ahaz được 20 tuổi khi lên ngôi, trị vì 16 năm tại Jerusalem.. God phó mặc Ahaz trong tay của vua Syria. Quân đội Syria đánh bại Ahaz, bắt vô số tù binh giải về Damascus. God cũng phó mặc Ahaz trong tay của vua Israel. Quân đội Israel đánh bại Ahaz qua một cuộc tàn sát lớn. Vì Pekah, con của Remaliah, đã giết một trăm hai mươi ngàn (120000) người Judah trong một ngày, tuy họ đều là dũng sĩ.. Và quân đội Israel cũng bắt đi hai trăm ngàn (200000) tù binh gồm đàn bà, con trai, con gái, và cướp đi hầu hết của cải và mang về Samaria.
Còn nữa, trong văn bản gốc cuốn Kinh bằng tiếng Do Thái, Isaiah nói trong Isaiah 7: 14 là “Này, một người đàn bà trẻ đang mang thai..” (a young woman is with child) chứ không phải là một trinh nữ sẽ mang thai. Isaiah dùng chữ “almah”, có nghĩa là “người đàn bà trẻ” (young woman), có chồng hoặc chưa có chồng. Còn trinh nữ, tiếng Do Thái là “betulah”. Nếu Asaiah muốn nói đến một trinh nữ thì phải dùng chữ “betulah”. Trong thời điểm mà người Do Thái càng ngày càng đông ở Hi Lạp, các dịch giả đã dịch chữ “almah” thành “parthenos” trong tiếng Hi Lạp. Parthenos có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa này là trinh nữ. Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu trên từ Cựu Ước ra và diễn giảng lệch lạc rằng đó là lời tiên tri về sự sinh ra của Giê-su tuy sự thực câu trên chẳng liên quan gì đến sự sinh ra của Giê-su, như tôi vừa chứng minh ở trên.
Cuối cùng, câu cuối của Matthew nói lên một sự kiện rõ ràng nhất: “Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.” Câu này hàm ý Giê-su chỉ là đứa con đầu lòng của Mary, con của ai không rõ, vì nếu thực sự Giê-su là đứa con duy nhất của Thánh Linh thì không thể gọi là con đầu lòng, và Mary còn nhiều đứa con khác nữa. Vì Joseph chỉ không giao hợp với Mary cho đến khi Mary sinh ra Giê-su. Sau đó thì Joseph tha hồ làm bổn phận người chồng. Do đó, một đoạn khác trong Thánh Kinh mới kể rằng Giê-su có 4 người em trai và ít nhất là 2 em gái (Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon? And are not his sisters here with us?). Vậy mà màng trinh của Mary vẫn còn nguyên vẹn (perpetual virginity) cho tới bây giờ, đầu thế kỷ 21, và chắc chắn sẽ còn nguyên vẹn vĩnh viễn trên sách vở Ca-tô Giáo và trong đầu óc của những tín đồ cuồng tín. Giáo hội tìm cách giải thích quanh co: đó là những em họ của Giê-su, hoặc là những con riêng của Joseph trong đời vợ trước, những chuyện không hề viết trong Tân ước, để thuyết phục đám tín đồ thấp kém, nhưng thật ra chỉ làm trò cười trong giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội. Học thuật Ca-tô (Catholic scholarship) quả thật là tuyệt vời trong việc làm tê liệt đầu óc tín đồ. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong một “tác phẩm” của Tổng Giám Mục Nguyễn văn Thuận, trước khi ông ta được phong chức Hồng Y.
Áp dụng thủ đoạn diễn giải Thánh Kinh lắt léo điển hình trong giáo hội, trong cuốn Chứng Nhân Hy Vọng: Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Cho Đức Thánh Cha Và Giáo Triều Roma của TGM Nguyễn Văn Thuận, Công Đoàn Đức Mẹ xuất bản năm 2000, tác giả mở đầu cuốn sách bằng Bài Suy Niệm Dẫn Nhập: Gia Phả Đức Giêsu Kitô Đứng Trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa, trang 25-34. Tác giả Nguyễn Văn Thuận chỉ nhắc đến gia phả Giê-su trong Matthew mà thôi và đặc biệt là, để biện minh cho những sự kiện được viết trong Thánh Kinh là trong gia phả của Giê-su có nhiều người đàn bà vô đạo đức, phi luân, tác giả đã đưa ra một luận điệu thần học nhìn trắng thành đen có tính cách bịp bợm những giáo dân ngu dốt của Ngài để biện minh cho những sự kiện không mấy tốt đẹp này. Tác giả viết, trang 28:
Danh sách những người [đàn bà] tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa
Những người tội lỗi đó là ai? Chúng ta thử lược qua vài nét về họ trong Cựu Ước để xem cái gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm của Thiên Chúa như thế nào. [TCN khuyến cáo: Con chiên và độc giả dưới 18 tuổi cấm đọc]
1. Người đàn bà thứ nhất là Tamar, vợ của Er, con của Judah. Chuyện trong Cựu ước kể đại khái như sau: Er xấu xa trước Thiên Chúa nên “mầu nhiệm Thiên Chúa” vật chết Er. “Mầu nhiệm Thiên Chúa” khiến cho Judah bảo Onan, em trai của Er, đi ngủ với chị dâu Tamar để nối dõi tông đường. Onan ngủ với chị dâu nhưng không muốn cho Tamar mang thai nên khi sắp xuất tinh bèn xịt ra ngoài. Điều này làm phật ý Thiên Chúa [Thiên Chúa đang đứng quan sát Onan làm tình với chị dâu] nên “mầu nhiệm Thiên Chúa” lại vật chết Onan. Em của Onan là Shelah còn nhỏ nên ông bố chồng Judah bảo nàng dâu hãy chờ cho Shelah lớn lên rồi sẽ cho Shelah ngủ với chị dâu. Vợ Judah chết, Judah nói với con dâu phải đi xa. Tamar bèn giả dạng làm gái ăn sương ngồi bên đường trên đường đi của Judah. Ông bố chồng Judah thấy Tamar hấp dẫn [không nhận ra Tamar là con dâu] nên ngủ với Tamar và sinh con với Tamar, Perez. Perez, sản phẩm của một cuộc loạn luân giữa bố chồng và nàng dâu, là ông tổ của vua David đời thứ 9 trước vua David. Đây là người đàn bà thứ nhất, tuyên dương “mầu nhiệm Thiên Chúa” thứ nhất trong gia phả của Chúa Giê-su.
2. Người đàn bà thứ hai là Rahab, một gái điếm ở Jericho. Joshua [Tướng chỉ huy của Do Thái, nhờ “mầu nhiệm Thiên Chúa” có thể ra lệnh cho mặt trời ngừng lại trong một ngày (So the sun stood still in the midst of heaven, and did not hasten to go down for about a whole day: ha..ha..ha.., biblical science) để ông ta có đủ ánh sáng giết sạch quân thù Amorite], gửi hai gián điệp đến Jericho để do thám. Họ đến ở nhà cô gái điếm Rahab. Vua Jericho biết tin cho người đến bắt nhưng Rahab giúp họ ẩn trốn trong nhà. [Nếu Rahab là người Việt thì hành động này là của một “Việt Gian”, và Việt Nam thì không thiếu “Việt Gian” che dấu các thừa sai gián điệp] Vậy thì cô gái điếm Rahab là một “Jericho gian”. Sau khi Do Thái chinh phục được Jericho rồi thì vì là một “Jericho gian” nên cả nhà Rahab không bị giết [Ở Việt Nam thì các “Việt gian” còn được thưởng công bằng đất đai, chức tước]. Và trong gia phả mầu nhiệm của Chúa Giê-su, Matthew viết Rahab lấy một tướng Do Thái là Salmon và sinh ra Boaz. Boaz là Cụ của vua David (Great Grand father of David). Đây là người đàn bà thứ hai, tuyên dương “mầu nhiệm Thiên Chúa” thứ hai trong gia phả của Chúa Giê-su.
3. Người đàn bà thứ ba là Ruth, người xứ Moab. Ruth lấy Mahlon, con của một góa phụ tên là Naomi, trước làm gái điếm. Mahlon chết, mẹ chồng con dâu ở với nhau. Sau đó hai người đi về Bethlehem. Ở đây Ruth thấy Boaz, (con của Rahab, Cụ của David, một người có họ hàng với chồng của Naomi), hấp dẫn bèn xung phong đi làm công gặt lúa cho Boaz. Bà mẹ chồng Naomi quý hóa bảo con dâu quý Ruth: “Hãy tắm rửa sạch sẽ và xức dầu thơm, trang điểm đẹp và tới chỗ ở của Boaz, nhưng đừng cho hắn biết, đợi cho Boaz ăn uống no say xong, đi nằm, rồi lẻn vào nằm với hắn, hắn sẽ bào con phải làm gì” [phải làm gì? Tôi nghĩ mãi không ra. Có con chiên trí thức nào giải mật cho tôi không?. TCN]” (Ruth 3: 3-4: Wash yourself and anoint yourself, put on your best garnment and go down to the threshing floor, but do not make yourself known to the man until he has finished eating and dringking. Then it shall be, when he lies down, that you shall notice the place where he lies; and you shall go in, uncover his feet, and lie down; and he will tell you what you should do.) Ruth sinh con với Boaz, đó là Obed, ông nội của David. Đây là Người đàn bà thứ ba, tuyên dương “mầu nhiệm” Thiên Chúa thứ ba trong gia phả của Chúa Giê-su.
4. Người đàn bà thứ tư là Bathsheba, vợ của Uriah, một tướng dưới trướng của David. Chuyện về Bathsheba là một chuyện rất hấp dẫn, vì có một màn “thoát y”. Quý độc giả có thể đọc chi tiết trong bài “Thánh David Là Ai” trên sachhiem.net. Ở đây tôi chỉ sơ lược vài dòng. Chồng Bathsheba đã ở ngoài mặt trận lâu ngày. “Rất ngẫu nhiên” bà ta “vô tình” tắm trần truồng ở một nơi mà David nhìn thấy rõ mồn một. Tên tướng cướp rất háo sắc sau lên làm vua này bèn cho vời bà vào cung và “hiệp thông” cùng bà, dù biết bà là vợ của Uriah, tướng của mình đang đánh giặc ngoài mặt trận. Cuộc gian dâm với David này làm cho Bathsheba mang bầu. David bèn gửi mật hàm cho tướng chỉ huy của Uriah ra lệnh gửi Uriah ra tiền tuyến rồi rút quân, để mặc cho địch quân giết Uriah. Lẽ dĩ nhiên Uriah không thoát khỏi cái chết. Bathsheba chính thức về làm vợ của David, đẻ ra Solomon, tác giả những bài thơ dâm dật nhất trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo. Đây là người đàn bà thứ tư, tuyên dương “mầu nhiệm Thiên Chúa” thứ tư trong gia phả của Chúa Giê-su.
5. Đó là 4 người đàn bà thuộc loại tuyên dương “mầu nhiệm Thiên Chúa” của Ki Tô Giáo trong Cựu ước. Sang đến Tân Ước chúng ta mới lại thấy một tuyên dương “mầu nhiệm Thiên Chúa” thứ năm đối với người đàn bà thứ năm. Người đàn bà thứ năm này chính là Mary, mẹ của Giê-su. Mầu nhiệm thứ năm mà Thiên Chúa đích thân ra tay là làm cho cô gái 16 tuổi Mary trở thành “ngoan”, không phải là “thế gian sự thường”, rất phù hợp với câu người Việt Nam ta thường dùng: “Không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường.” Đây là người đàn bà thứ năm, tuyên dương “mầu nhiệm Thiên Chúa” thứ năm trong gia phả của Chúa Giê-su.
Đó là những người đàn bà đặc biệt trong gia phả của Vua David và của Giê-su nếu thực sự Giê-su có một gia phả. Chúng ta đã thấy nguồn gốc của David và tư cách của David là như thế nào. Và tôi thấy cần phải nhắc lại vài câu trong các Kinh cần của tín đồ Ca-Tô Việt Nam để thấy rằng họ đã bị nhồi sọ như thế nào, và những gì đen trong Kinh đã trở thành trắng theo “giáo hội dạy rằng..”: [Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, trg. 66: "Lạy ông Thánh Goakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David." (Trích dẫn từ Kinh cầu ông Thánh Gioakim của Công Giáo); "Lạy bà Thánh Anna là mẹ Nữ Vương...Bà là đấng sang trọng bởi dòng vua David." (Trích dẫn từ Kinh Cầu Bà Thánh Anna của Công Giáo).]
Theo Tổng Giám Mục Thuận thì tất cả những chuyện loạn luân, phi luân lý đạo đức v..v.. với những nhân vật đặc biệt như gái điếm (Tamar, Rahab, Ruth), gian dâm (Bathsheba), tướng cướp (David) và lang chạ (Mary) như trên đều là sự mầu nhiệm của Thiên Chúa cả, Thiên Chúa của Ca-Tô Giáo Rô-ma, để tạo nên cái gia phả rất danh giá và rất sang trọng của Giê-su. Mang cái bình phong “mầu nhiệm Thiên Chúa” ra để che đậy những điều có thể gây thắc mắc trong đầu óc tín đồ, TGM Thuận đã thể hiện sự bất lương trí thức của mình, đặc sản của những cấp lãnh đạo Ca Tô Giáo Việt Nam do Vatican đào tạo và phong chức. Nhưng TGM Thuận hơi ngu, vì nếu tin rằng Giê-su là “con Thiên Chúa” thì Giê-su làm quái gì có gia phả. Chuyện gia phả của Giê-su trong Tân Ước rất mâu thuẫn với chuyện Thánh Linh là cha của Giê-su, và mục đích của Matthew và Luke bày đặt hai cái gia phả đầy mâu thuẫn này chỉ để chứng tỏ Giê-su thuộc giòng giõi vua David, một điều kiện để được chấp nhận là đấng cứu tinh của dân Do Thái. Nhưng chính cái gia phả này lại sát với sự thực hơn là chuyện hoang đường về Thánh Linh làm cho Mary mang thai. Và từ cái gia phả này, chuyện Giê-su chỉ là một đứa con hoang của Mary lại rõ ràng hơn gì hết, như sẽ được chứng minh trong một số tài liệu nghiên cứu của các học giả Tây phương ở trong Ki Tô Giáo. Phải chăng vì không đếm xỉa gì đến sự lương thiện trí thức, hoặc vì quá ngu và với tinh thần nô lệ quá cao, cho nên cứ theo lời “giáo hội dạy rằng..”, ngụy biện để lừa dối đám tín đồ thấp kém qua những điều giải thích hoang đường, phi lý trí v..v.. mà Tổng Giám Mục đã được thăng lên chức Hồng Y trước khi chết ít lâu?
Thật vậy, đoạn văn trong Matthew ở trên chẳng có gì là gương mù như ông Thuận đã nghĩ, và cũng chẳng có gì là “mầu nhiệm Thiên Chúa”. Vì ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu cuốn Kinh của Ki Tô Giáo đã hiểu tại sao Matthew lại nêu tên những người phụ nữ tội lỗi trong gia phả của Giê-su. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn Sự Thực Phúc Âm của Russell Shorto:
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái, khi quan sát sự phát triển nhanh chóng của Ki Tô Giáo, đã ghi nhận rằng khuôn mặt thần thánh trong trọng điểm của Ki Tô Giáo (nghĩa là Giê-su. TCN) thực ra chỉ là một đứa con hoang. ..Về phương diện kỹ thuật, ngay cả khi đọc Phúc Âm theo truyền thống, điều trên đúng là sự thực, vì Joseph, chồng của Mary, không phải là cha thực của Giê-su. Đọc thật kỹ Matthew chúng ta có thể thấy điều trên rõ ràng...và Matthew đã đưa ra một kiến trúc thần học tinh vi để biến đổi một sự thật xấu xa thành một huyền thoại..
Một vấn đề trong gia phả của Giê-su đã làm bận tâm những nhà thần học không ít trong nhiều thế kỷ là tên của các phụ nữ trong gia phả của Giê-su. Tại sao chúng ta đọc thấy rằng: “Abraham là cha của Isaac, Isaac là cha của Jacob” v..v.. mà không thấy tên một phụ nữ nào xen vào, nhưng rồi chúng ta thấy “Judah là cha của Perez và Zerah, sinh ra bởi Tamar”, và “Salmon là cha của Boaz, sinh ra bởi Rahab,” và Boaz là cha của Obed, sinh ra bởi Ruth”, và David là cha của Solomon, sinh ra bởi “vợ của Uriah”?
Một nhóm học giả đã tìm hiểu trong 20 năm qua để tìm ra giải đáp cho điều thắc mắc này và họ đã khám phá ra rằng tất cả những phụ nữ được nêu tên trong gia phả của Giê-su đều là những người mang tai tiếng về vấn đề tình dục. Nói cách khác, Matthew đã cố ý làm nhẹ bớt vấn nạn Giê-su là đứa con hoang bằng cách vạch ra rằng trong nhiều đời tiền nhân của Giê-su, đây là điều cần thiết để tiếp nối dòng dõi các vua Do Thái qua những nhân vật khác thường.. Là đứa con hoang, điều này có thể là một biểu hiện của sự danh giá (badge of honor).
(Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, N.Y., 1997, pp. 36-41: From the early second century, Jewish writers observing the rapidly spreading Christian religion noted with a sneer that the supposed divinely inspired figure at its center was in fact a bastard. Swirling around the gospel stories, according to some scholars, are whispered cries of “illegitimate”... Technically, even by the traditional reading, this charge is true, for according to the accepted interpretation, Joseph, Mary’s betrothed, is not the actual father of the child. But a careful reading of Matthew’s account may suggest a more mundane kind of illegitimacy..and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition on... One thing about the genealogy that has bothered theologians for centuries is the mention of several women among the men who, in the ancient view, carry the bloodline. Why we are told that “Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob”, and so on, with no mention of the women involved, but then learn that Judah was the father of Perez and Zerah “by Tamar”, and Salmon the father of Boaz b”by Rahab”, and Boaz the father of Obed “by Ruth”, and that David was the father of Solomon “by the wife od Uriah”..? A solution to the puzzle has been worked up over the two past decades by a group of scholars who realized that all of the women mentioned are associated with scandalous sexual behavior. In other word, Matthew is softening the blow of Jesus’ questionable legitimacy by indicating that in several previous instances it was necessary for the royal bloodline of Israel to be passed on via less-than-ordinary means. Bastardy, it may even be suggested, was a badge of honor...)
Trên đây là vài điều chúng ta biết về Mary như được viết trong Tân Ước, qua sự phân tích của một số học giả chuyên gia về Ki Tô Giáo. Còn các tín đồ Ki-tô Giáo muốn tin Mary như thế nào, đó không phải là chuyện đáng bàn cãi. Chúng ta biết rằng, qua thời gian, Mary đã được Giáo hội Công Giáo, qua rất nhiều thủ đoạn, từ những sắc lệnh của Giáo Hoàng cho đến những văn kiện ngụy tạo v..v.., dựng lên từ một người đàn bà Do Thái bình thường thành một biểu tượng sùng bái vô tiền khoáng hậu cho các tín đồ vốn lười suy nghĩ hay không có đầu óc thuộc loại có thể suy nghĩ. Sự sùng bái Mary được đẩy mạnh qua rất nhiều thủ đoạn mánh mưu của Giáo hội Công Giáo với sự góp sức của giới chăn chiên để bảo vệ quyền lợi của Giáo hội và giới chăn chiên, và nhất là để vơ vét của cải. Một trong những thủ đoạn này là áp đặt một số tín lý (dogma) trên đầu óc của số tín đồ thấp kém đông đảo trong giáo hội, bắt họ phải tin như “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (1854: Immaculate Conception), “xác bốc lên trời” (1950: Assumption") “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual Virginity), “Đồng Công Cứu chuộc” (Coredemptrix) v..v... Điều này thật là dễ hiểu. Vì Giáo hội Công Giáo đã nâng Giê-su lên từ một đứa con hoang, tầm thường, xấu tính lên làm Chúa Ki-Tô thì tất nhiên Mẹ của Chúa cũng phải có một vai vế đặc biệt để hấp dẫn tín đồ. Thật vậy, Russell Shorto viết trong cuốn Sự Thật Phúc Âm, trang 14, như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
(Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth... Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)
Và Giám Mục John Shelby Spong,, cũng viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Kinh Thánh Ra khỏi Phái Ki-Tô Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21) như sau:
Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
[There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.]
Một Giê-su như trên, một anh thợ mộc, một đứa con hoang của bà Mary [không phải là con của chồng là Joseph], một người thường sống với một ảo tưởng, vô tài vô đức, thiển cận, đầy hận thù, và đạo đức giả như Tân ước đã viết rõ, mà được nâng lên làm Chúa của Ki-Tô Giáo thì một người như Mary, Mẹ của Giê-su, mà chúng ta vừa biết qua vài điều như trên được gán cho những danh hiệu thần thánh và hoang đường như trên đâu có phải là chuyện lạ. Nhưng chuyện lạ là sự cuồng tín, tổng hợp của ngu xuẩn, hợm hĩnh, hung hăng, trịch thượng của Ca-tô giáo Rô-ma là điều tôi không thể chịu được vì nó ra ngoài sự hiểu biết thông thường của con người.
Thật vậy, nếu không ngu xuẩn và trịch thượng thì làm sao mà Giáo hoàng John Paul II, ngày 24 tháng 3, 1984, ở công trường Phê-rô, đã quỳ xuống trước hình Mary và dâng hiến cả hành tinh này cho Trái Tim Vô Nhiễm (sic) của Mary [Michael Jordan, Mary, p.302: On 24 March, 1984, John Paul II took advantage of the medium of television when he knelt before the figure of Our Lady of Fatima in St Peter’s Square and dedicated the entire planet to the Immaculate Heart of Mary]. Ông ta làm như còn là một giáo hoàng trong thời Trung Cổ ở Âu Châu, nắm quyền sinh sát thế gian, và hành tinh này là của riêng ông ta, muốn hiến dâng cho ai thì hiến, bất kể là trên 4 tỷ người trên trái đất này không cần biết Mary là ai, và nếu có biết thì cũng chỉ biết Mary là một người con gái sinh ra một đứa con hoang là Giê-su như được viết trong Tân ước.
Giáo hoàng mà còn ngu xuẩn như vậy huống chi là các con chiên ở Việt Nam. Không cuồng tín ngu xuẩn và trịch thượng thì làm sao ngày 8 tháng 8, 1961, Hội Đồng Giám Mục họp tại Đà Lạt quyết định: “Lập một bàn thờ dâng hiến Giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam cho trái tim vô nhiễm ‘Đức mẹ” [Nguyễn Đắc Xuân, Tìm Hiểu Lịch Sử Nhà Thờ La Vang trong cuốn La Vang Giáo Sử, trang 52], bất kể là “Tổ Quốc Việt Nam” có hơn 90% người dân không cần biết và quan tâm đến “Đức Mẹ” là ai. Hội đồng Giám Mục, trong thời Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, làm như Tổ Quốc là của riêng họ, muốn dâng hiến cả Tổ Quốc cho một người đàn bà Do Thái mà lịch sử đã ghi rõ, cả hai mẹ con đã cùng nhau chạy trốn Cộng sản chối chết từ Bắc vào Nam năm 1954, chạy trước cả những con chiên. Và từ đó đến nay, bà ta cũng chẳng làm được gì có ích cho thế giới văn minh ngoài việc thỉnh thoảng các con chiên trên thế giới bắt khi nào khóc hay chảy máu mắt thì khi đó phải khóc hay chảy máu mắt, và bắt khóc ở đâu thì phải khóc ở đó, dù bà ta là Mẹ Thiên Chúa toàn năng, quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được.
Chẳng có ai đặt vấn đề: mấy giọt nước mắt ngụy tạo, hay mấy giọt máu [của đàn ông khi được đem đi phân tích DNA] trên khóe mắt thì giúp ích được gì cho nhân loại để giải quyết những vấn nạn về chiến tranh, về thiên tai, về bệnh tật xảy ra hàng ngày và khắp nơi trên trái đất. Nếu chỉ giải quyết được chút nào những vấn nạn này thì chẳng nói làm gì, nhưng tuyệt đối bà ta chẳng làm được cái tích sự gì qua những vụ hiện thân, hay khóc, hay chảy máu mắt, mà chỉ để cho bàn dân thiên hạ thấy các tín đồ Ca-Tô, vốn đã mê muội tin nhảm tin nhí lại càng mê muội tin nhảm tin nhí hơn.
Thật là tội nghiệp cho những người tiếp tục sống trong bóng tối, không hề biết là tất cả những gì mà giáo hội Ca-Tô bắt tín đồ phải tin về các nhân vật Giê-su và Mary, thí dụ như về “trái tim vô nhiễm của Mary” [1854], đều từ những sắc luật cưỡng tạo của Giáo hoàng tung ra cả hơn ngàn năm sau, không hề có một căn bản nào trong Tân ước. Vì bị nhồi sọ những điều ngụy tạo hoang đường, vì thiếu trí tuệ, cho nên họ vẫn tiếp tục đặt tất cả đức tin không cần biết không cần hiểu của mình trên những điều ngụy tạo hoang đường và những nhân vật nhân cách bất xứng trong Tân Ước như Mary và Giê-su. Quả thật là tội nghiệp.

Xem tiếp Phần II: Mary ngoài cuốn Kinh của Ki Tô Giáo [The unbiblical Mary]

0 nhận xét:

Đăng nhận xét