Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014
Hội chứng “thêu dệt ký ức” của Trung Quốc
04:29
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tác giả: Bill Hayton | Biên dịch: Lê Hoàng Giang
Người dân của đất nước này đã được giáo dục sai sự thật rằng tổ tiên họ đã tìm ra và đặt tên cho các hòn đảo trên Biển Đông.
Biển Đông là nơi những tham vọng của Trung Quốc phải đối đầu với sự lo lắng của các nước châu Á và quyền lực của Hoa Kỳ. Qua những tranh chấp trên biển, Trung Quốc đã vứt bỏ vẻ bề ngoài “trỗi dậy hòa bình” để thay vào đó là ngoại giao pháo hạm. Các tàu hải cảnh có vũ trang của Trung Quốc đã đâm húc các tàu Việt Nam, bao vây các vị trí tiền đồn của Philippines, quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của Malaysia và đe dọa các tàu hộ tống ngư dân của Indonesia. Để ứng phó, tất cả những nước này đang ráo riết mua thêm vũ khí và tăng cường các liên kết quân sự với các nước có chung lo ngại trước những yêu sách chủ quyền ngày càng xác quyết của Trung Quốc – chủ yếu là với Mỹ, nhưng ngoài ra còn có Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.
Căn nguyên của những rắc rối này là những gì mà Bắc Kinh gọi là “chủ quyền lịch sử không thể tranh cãi được” đối với 80% Biển Đông: từ cảng Hồng Kông cho tới gần bờ biển Borneo, cách đó đến 1.500km. Vấn đề đối với những tuyên bố chủ quyền này là không hề có những bằng chứng đáng tin cậy để làm căn cứ. Vậy mà những chi tiết lịch sử hư cấu đó giờ đây lại đang đe dọa hòa bình và an ninh Châu Á và tạo ra một vũ đài để Trung Quốc và Mỹ đối đầu gay gắt, với những hệ lụy tác động đến toàn cầu. Thật khó có thể tin được rằng cuộc đối đầu có thể dữ dội này lại có gốc rễ là một cuộc tranh chấp đối với những mảnh đất gần như hoàn toàn không thể cư ngụ được.
Có hai quần thể “đảo” chính ở Biển Đông. (Chỉ một số rất ít là đảo theo đúng nghĩa, đại đa số chỉ là các rạn san hô, bãi cát hoặc đá). Ở phía Bắc, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn tại phía Nam, quần đảo Trường Sa (Spratlys) rộng lớn hơn nhiều bị các nước Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines tranh giành. Đa số những hòn đảo hoang vắng này có tên tiếng Anh, thường là được đặt bởi những con tàu và thủy thủ đã phát hiện và vẽ chúng lên bản đồ. Ví dụ, đảo Trường Sa (Spratly Island) được một thuyền trưởng tàu săn cá voi tên là Richard Spratly tìm thấy vào năm 1843, còn Đá Khúc Giác (Iroquois Reef) được đặt tên theo con tàu HMS Iroquois đã phát hiện ra nó trong một chuyến khảo sát vào những năm 1920, vv…
Khi một ủy ban thuộc chính quyền Trung Quốc lần đầu đặt tên tiếng Trung cho các hòn đảo này vào năm 1935, tất cả những gì họ làm là dịch tên hoặc chuyển âm những tên tiếng Anh đã sẵn có sang tiếng Trung. Ví dụ như đối với quần đảo Hoàng Sa, Antelope Reef (Đá Hải Sâm) được dịch là Linh Dương Tiêu (Linh Dương là từ Antelope được dịch ra tiếng Trung) và đối với quần đảo Trường Sa, cụm đá North Danger Reef trở thành Bei xian (Bắc Hiểm – tiếng Trung nghĩa là “mối nguy hiểm ở phía Bắc”), Đảo Trường Sa trở thành Si-ba-la-tuo (chuyển âm từ tên tiếng Anh “Spratly Island” sang tiếng Trung). Ủy ban của Trung Quốc chỉ đơn thuần là đã sao chép lại những bản đồ của người Anh, thậm chí sao chép cả những lỗi sai. Những tên đảo sau đó được chỉnh sửa lại hai lần. Còn Bãi cạn Scarborough, đặt tên theo một con tàu của Anh vào năm 1748, ban đầu được chuyển ngữ thành Si ge ba luo vào năm 1935, được đổi thành Dân Chủ Đảo bởi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1947 và sau đó được đặt một cái tên ít nhạy cảm về chính trị hơn là Hoàng Nham (tức “bãi đá vàng”) bởi chính quyền cộng sản Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1983.
Ngày nay, chính quyền Trung Quốc có vẻ như hoàn toàn không biết đến những điều này. Những lời biện hộ chuẩn mực cho chủ quyền “không thể tranh cãi” của Trung Quốc thường bắt đầu bằng câu “người Trung Quốc là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho các hòn đảo Nam Sa”. Trên thực tế, “người Trung Quốc” chỉ sao chép lại những tên đảo do người Anh đặt. Ngay cả cụm từ “Nam Sa” (tức “bãi cát phía nam”) cũng không nằm cố định trên bản đồ của người Trung Quốc. Năm 1935, cái tên này được dùng để chỉ khu vực biển nông có tên tiếng Anh là “Bãi Macclesfield” (cũng được đặt theo tên của một con tàu Anh, giờ Trung Quốc gọi là Trung Sa). Vào năm 1947, cái tên Nam Sa lại bị dời xuống phía Nam trên bản đồ Trung Quốc để chỉ quần đảo Trường Sa.
Để kiểm tra đầy đủ từng chứng cứ do Trung Quốc đưa ra sẽ phải mất rất nhiều trang giấy, nhưng hoàn toàn có thể cho rằng vẫn chưa có bằng chứng khảo cổ nào cho thấy những con tàu Trung Quốc đã có thể đi được xuyên biển từ trước thế kỷ thứ 10. Cho đến thời điểm đó, chỉ có các con tàu của người Malay, người Ấn Độ và người Arab tiến hành giao thương và khai phá biển. Những con tàu đó, có thể vào một số dịp, có chuyên chở những hành khách Trung Hoa. Những chuyến du hành được đề cập nhiều của “các đô đốc thái giám” trong đó có Trịnh Hòa, chỉ kéo dài khoảng 30 năm, cho đến những năm 1430. Sau thời điểm đó, mặc dù những thương nhân và ngư dân vẫn đi lại trên biển, nhà nước Trung Hoa không bao giờ viếng thăm các vùng biển xa lần nào nữa, cho đến khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc được Mỹ và Anh trao cho một số tàu biển vào cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai.
Lần đầu tiên có một quan chức chính phủ Trung Quốc đặt chân lên một đảo thuộc quần đảo Trường Sa là vào ngày 12 tháng 12 năm 1946, khi đó các đế quốc Anh và Pháp đều đã chiếm phần trên Biển Đông. Một phái đoàn cấp tỉnh của Trung Quốc đã đến quần đảo Hoàng Sa trước đó vài thập kỷ, vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện một nhiệm vụ có vẻ như là một chuyến thám hiểm trong một ngày, được dẫn đường bởi các thuyền trưởng người Đức thuê từ hãng buôn Carlowitz. Các cuộc đối đầu quốc tế đang phải dựa vào những căn cứ khiêm tốn như vậy.
Đây là bức tranh lịch sử được vẽ lên bởi các nghiên cứu học thuật độc lập tốt nhất. Nhưng nếu đem kể cho gần như bất kỳ người Trung Quốc nào, họ cũng sẽ tỏ ra ngờ vực. Từ trong các lớp học cho đến tại những cơ quan ngoại giao, chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông đã tồn tại trong trí nhớ của người dân và trở thành sự thật chắc chắn. Làm thế nào mà cả một quốc gia có thể có được ý thức sở hữu đối với Biển Đông mạnh mẽ đến thế dựa trên những cơ sở thiếu vững chắc như vậy?
Câu chuyện có lẽ bắt đầu từ cuộc Chiến tranh Nha phiến năm 1840 và khoảng thời gian người Trung Quốc gọi là “thế kỷ ô nhục” diễn ra sau đó. Trung Quốc rõ ràng đã chịu nhiều tổn thất nặng nề dưới tay các nước đế quốc phương Tây và Nhật Bản: hàng ngàn người chết, nhiều thành phố bị trở thành thuộc địa và chính quyền phải chịu nhiều khoản nợ từ các ngân hàng quốc tế.
Nhà nghiên cứu địa lý William Callahan và nhiều người khác đã chỉ ra trong quá trình đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài, các lực lượng Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản đã cố tình tạo ra một ý thức rằng Trung Quốc bị xâm phạm lãnh thổ để huy động quần chúng như thế nào. Từ những năm 1900 trở về sau, các nhà nghiên cứu địa lý Trung Quốc như Bai Meichu, một trong những người sáng lập Hội Địa lý Trung Quốc, đã bắt đầu vẽ các bản đồ cho người dân của họ thấy những phần lãnh thổ nào của Trung Quốc đã bị các đế quốc lấy đi.
Những “bản đồ quốc nhục” này cho rằng lãnh thổ hợp pháp của Trung Quốc bao gồm tất cả những nước chư hầu xưa kia đã triều cống cho hoàng đế Trung Hoa. Những vùng đất này bao gồm cả bán đảo Triều Tiên, nhiều phần đất rộng lớn của Nga, Trung Á, vùng Himalaya và nhiều vùng thuộc Đông Nam Á. Trên những bản đồ này đã xuất hiện những đường kẻ cho thấy sự đối lập lớn giữa một lãnh thổ to lớn của đế chế Trung Hoa trước kia với một diện tích đất nước đã bị thu nhỏ đáng kể. Như là định mệnh, sau khi chính quyền Trung Quốc thay tên cho các hòn đảo trên Biển Đông vào năm 1935, một đường kẻ như vậy được vẽ bao quanh Biển Đông. Đây là đường kẻ ngày nay có tên gọi “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn” khoanh trọn 80% diện tích Biển Đông và tất cả các đảo và quần đảo trong đó. Sự cố trong khi vẽ bản đồ này, vốn do diễn dịch sai lịch sử Đông Nam Á, chính là cơ sở cho tuyên bố chủ quyền hiện nay của Trung Quốc.
Trung Quốc rõ ràng đã phải chịu bóc lột nặng nề dưới sự thống trị của các thế lực bên ngoài, nhưng nhà nước Trung Quốc hiện đại trỗi dậy từ tàn tích của Triều đại Mãn Thanh và những cuộc nội chiến sau đó đã tìm sự an ủi qua những ký ức thêu dệt vốn ít liên quan đến những gì xảy ra trên thực tế. Như bất kỳ khách thăm quan nào tới xem phần trưng bày “Con đường Hồi sinh” tại Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc trên Quảng trường Thiên An Môn có thể thấy, “hội chứng thêu dệt ký ức” này là một thành phần không thể thiếu để hợp thức hóa huyền thoại của Đảng Cộng sản: chính Đảng đã cứu đất nước thoát khỏi sự ô nhục.
Giới học giả theo chủ nghĩa dân tộc và các cơ quan chính quyền trong nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại cho Đảng Cộng sản một “lịch sử chính thức” rõ ràng là trái với sự thực. Chính điều này, chứ không phải nguy cơ từ những người theo chủ nghĩa dân tộc biểu tình trên các đường phố, đã khiến cho tranh chấp Biển Đông trở nên nguy hiểm và khó giải quyết đến như vậy. Nhưng thừa nhận lịch sử bị thêu dệt cũng có nghĩa là gỡ bỏ đi hòn đá tảng chống đỡ cho vị trí tối cao của Đảng trong xã hội Trung Quốc.
Đáng tiếc là không hề có giải pháp dễ dàng nào cho những xung đột đang tiếp diễn trên Biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc xung đột toàn diện, nhưng cũng không bên nào sẵn lòng giảm căng thẳng bằng cách điều chỉnh bớt những yêu sách chủ quyền của mình. Một số quan chức Trung Quốc khi nói chuyện riêng đã thừa nhận rằng duy trì yêu sách “đường chữ U” là vô lý về mặt pháp lý. Nhưng chính những quan chức đó cũng nói rằng họ không thể sửa đổi một cách chính thức những tuyên bố đã đưa ra vì nhiều lý do chính trị – những chỉ trích của người dân trong nước sẽ rất dữ dội. Như vậy thì làm thế nào mới có thể thuyết phục người dân Trung Quốc nhìn nhận lịch sử Biển Đông dưới một quan điểm khác?
Một câu trả lời có thể nằm ở Đài Loan. Tại Đài Loan, khả năng để có một diễn đàn tranh luận tự do hơn về lịch sử Trung Quốc cao hơn nhiều so với ở Trung Quốc đại lục. Hiện đã có một số học giả “bất đồng chính kiến” suy nghĩ lại về một số phương diện của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi lưu trữ những tư liệu của Trung Hoa Dân Quốc, chính quyền đầu tiên vẽ ra “đường chữ U”. Kiểm tra cởi mở và kỹ lưỡng lại quá trình cẩu thả đã vẽ ra đường chữ U có thể thuyết phục những người định hướng dư luận chịu xét lại một số vấn đề liên quan đến chủ nghĩa dân tộc còn chưa rõ ràng mà họ từ lâu coi là chân lý.
Có lẽ lý do thuyết phục nhất để bắt đầu ở Đài Loan là vì chính quyền Bắc Kinh sợ rằng nếu nhượng bộ thì sẽ bị chỉ trích quyết liệt tại Đài Bắc. Còn nếu chính quyền Đài Bắc xuống thang những xung đột xuất phát từ ghi chép lịch sử Biển Đông, thì chính quyền Bắc Kinh sẽ dễ dàng làm theo hơn. Chìa khóa dẫn đến một tương lai hòa bình cho châu Á nằm ở việc kiểm tra quá khứ một cách trung thực và có phản biện.
Cuốn sách Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực tại châu Á (The South China Sea and the struggle for power in Asia) của tác giả Bill Hayton sẽ được NXB Yale University Press xuất bản vào tháng 9.
Bản gốc tiếng Anh: Prospect Magazine
Người dân của đất nước này đã được giáo dục sai sự thật rằng tổ tiên họ đã tìm ra và đặt tên cho các hòn đảo trên Biển Đông.
Biển Đông là nơi những tham vọng của Trung Quốc phải đối đầu với sự lo lắng của các nước châu Á và quyền lực của Hoa Kỳ. Qua những tranh chấp trên biển, Trung Quốc đã vứt bỏ vẻ bề ngoài “trỗi dậy hòa bình” để thay vào đó là ngoại giao pháo hạm. Các tàu hải cảnh có vũ trang của Trung Quốc đã đâm húc các tàu Việt Nam, bao vây các vị trí tiền đồn của Philippines, quấy rối các hoạt động thăm dò dầu khí của Malaysia và đe dọa các tàu hộ tống ngư dân của Indonesia. Để ứng phó, tất cả những nước này đang ráo riết mua thêm vũ khí và tăng cường các liên kết quân sự với các nước có chung lo ngại trước những yêu sách chủ quyền ngày càng xác quyết của Trung Quốc – chủ yếu là với Mỹ, nhưng ngoài ra còn có Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.
Căn nguyên của những rắc rối này là những gì mà Bắc Kinh gọi là “chủ quyền lịch sử không thể tranh cãi được” đối với 80% Biển Đông: từ cảng Hồng Kông cho tới gần bờ biển Borneo, cách đó đến 1.500km. Vấn đề đối với những tuyên bố chủ quyền này là không hề có những bằng chứng đáng tin cậy để làm căn cứ. Vậy mà những chi tiết lịch sử hư cấu đó giờ đây lại đang đe dọa hòa bình và an ninh Châu Á và tạo ra một vũ đài để Trung Quốc và Mỹ đối đầu gay gắt, với những hệ lụy tác động đến toàn cầu. Thật khó có thể tin được rằng cuộc đối đầu có thể dữ dội này lại có gốc rễ là một cuộc tranh chấp đối với những mảnh đất gần như hoàn toàn không thể cư ngụ được.
Có hai quần thể “đảo” chính ở Biển Đông. (Chỉ một số rất ít là đảo theo đúng nghĩa, đại đa số chỉ là các rạn san hô, bãi cát hoặc đá). Ở phía Bắc, quần đảo Hoàng Sa (Paracels) đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn tại phía Nam, quần đảo Trường Sa (Spratlys) rộng lớn hơn nhiều bị các nước Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines tranh giành. Đa số những hòn đảo hoang vắng này có tên tiếng Anh, thường là được đặt bởi những con tàu và thủy thủ đã phát hiện và vẽ chúng lên bản đồ. Ví dụ, đảo Trường Sa (Spratly Island) được một thuyền trưởng tàu săn cá voi tên là Richard Spratly tìm thấy vào năm 1843, còn Đá Khúc Giác (Iroquois Reef) được đặt tên theo con tàu HMS Iroquois đã phát hiện ra nó trong một chuyến khảo sát vào những năm 1920, vv…
Khi một ủy ban thuộc chính quyền Trung Quốc lần đầu đặt tên tiếng Trung cho các hòn đảo này vào năm 1935, tất cả những gì họ làm là dịch tên hoặc chuyển âm những tên tiếng Anh đã sẵn có sang tiếng Trung. Ví dụ như đối với quần đảo Hoàng Sa, Antelope Reef (Đá Hải Sâm) được dịch là Linh Dương Tiêu (Linh Dương là từ Antelope được dịch ra tiếng Trung) và đối với quần đảo Trường Sa, cụm đá North Danger Reef trở thành Bei xian (Bắc Hiểm – tiếng Trung nghĩa là “mối nguy hiểm ở phía Bắc”), Đảo Trường Sa trở thành Si-ba-la-tuo (chuyển âm từ tên tiếng Anh “Spratly Island” sang tiếng Trung). Ủy ban của Trung Quốc chỉ đơn thuần là đã sao chép lại những bản đồ của người Anh, thậm chí sao chép cả những lỗi sai. Những tên đảo sau đó được chỉnh sửa lại hai lần. Còn Bãi cạn Scarborough, đặt tên theo một con tàu của Anh vào năm 1748, ban đầu được chuyển ngữ thành Si ge ba luo vào năm 1935, được đổi thành Dân Chủ Đảo bởi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1947 và sau đó được đặt một cái tên ít nhạy cảm về chính trị hơn là Hoàng Nham (tức “bãi đá vàng”) bởi chính quyền cộng sản Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1983.
Ngày nay, chính quyền Trung Quốc có vẻ như hoàn toàn không biết đến những điều này. Những lời biện hộ chuẩn mực cho chủ quyền “không thể tranh cãi” của Trung Quốc thường bắt đầu bằng câu “người Trung Quốc là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho các hòn đảo Nam Sa”. Trên thực tế, “người Trung Quốc” chỉ sao chép lại những tên đảo do người Anh đặt. Ngay cả cụm từ “Nam Sa” (tức “bãi cát phía nam”) cũng không nằm cố định trên bản đồ của người Trung Quốc. Năm 1935, cái tên này được dùng để chỉ khu vực biển nông có tên tiếng Anh là “Bãi Macclesfield” (cũng được đặt theo tên của một con tàu Anh, giờ Trung Quốc gọi là Trung Sa). Vào năm 1947, cái tên Nam Sa lại bị dời xuống phía Nam trên bản đồ Trung Quốc để chỉ quần đảo Trường Sa.
Để kiểm tra đầy đủ từng chứng cứ do Trung Quốc đưa ra sẽ phải mất rất nhiều trang giấy, nhưng hoàn toàn có thể cho rằng vẫn chưa có bằng chứng khảo cổ nào cho thấy những con tàu Trung Quốc đã có thể đi được xuyên biển từ trước thế kỷ thứ 10. Cho đến thời điểm đó, chỉ có các con tàu của người Malay, người Ấn Độ và người Arab tiến hành giao thương và khai phá biển. Những con tàu đó, có thể vào một số dịp, có chuyên chở những hành khách Trung Hoa. Những chuyến du hành được đề cập nhiều của “các đô đốc thái giám” trong đó có Trịnh Hòa, chỉ kéo dài khoảng 30 năm, cho đến những năm 1430. Sau thời điểm đó, mặc dù những thương nhân và ngư dân vẫn đi lại trên biển, nhà nước Trung Hoa không bao giờ viếng thăm các vùng biển xa lần nào nữa, cho đến khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc được Mỹ và Anh trao cho một số tàu biển vào cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai.
Lần đầu tiên có một quan chức chính phủ Trung Quốc đặt chân lên một đảo thuộc quần đảo Trường Sa là vào ngày 12 tháng 12 năm 1946, khi đó các đế quốc Anh và Pháp đều đã chiếm phần trên Biển Đông. Một phái đoàn cấp tỉnh của Trung Quốc đã đến quần đảo Hoàng Sa trước đó vài thập kỷ, vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện một nhiệm vụ có vẻ như là một chuyến thám hiểm trong một ngày, được dẫn đường bởi các thuyền trưởng người Đức thuê từ hãng buôn Carlowitz. Các cuộc đối đầu quốc tế đang phải dựa vào những căn cứ khiêm tốn như vậy.
Đây là bức tranh lịch sử được vẽ lên bởi các nghiên cứu học thuật độc lập tốt nhất. Nhưng nếu đem kể cho gần như bất kỳ người Trung Quốc nào, họ cũng sẽ tỏ ra ngờ vực. Từ trong các lớp học cho đến tại những cơ quan ngoại giao, chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông đã tồn tại trong trí nhớ của người dân và trở thành sự thật chắc chắn. Làm thế nào mà cả một quốc gia có thể có được ý thức sở hữu đối với Biển Đông mạnh mẽ đến thế dựa trên những cơ sở thiếu vững chắc như vậy?
Câu chuyện có lẽ bắt đầu từ cuộc Chiến tranh Nha phiến năm 1840 và khoảng thời gian người Trung Quốc gọi là “thế kỷ ô nhục” diễn ra sau đó. Trung Quốc rõ ràng đã chịu nhiều tổn thất nặng nề dưới tay các nước đế quốc phương Tây và Nhật Bản: hàng ngàn người chết, nhiều thành phố bị trở thành thuộc địa và chính quyền phải chịu nhiều khoản nợ từ các ngân hàng quốc tế.
Nhà nghiên cứu địa lý William Callahan và nhiều người khác đã chỉ ra trong quá trình đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài, các lực lượng Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản đã cố tình tạo ra một ý thức rằng Trung Quốc bị xâm phạm lãnh thổ để huy động quần chúng như thế nào. Từ những năm 1900 trở về sau, các nhà nghiên cứu địa lý Trung Quốc như Bai Meichu, một trong những người sáng lập Hội Địa lý Trung Quốc, đã bắt đầu vẽ các bản đồ cho người dân của họ thấy những phần lãnh thổ nào của Trung Quốc đã bị các đế quốc lấy đi.
Những “bản đồ quốc nhục” này cho rằng lãnh thổ hợp pháp của Trung Quốc bao gồm tất cả những nước chư hầu xưa kia đã triều cống cho hoàng đế Trung Hoa. Những vùng đất này bao gồm cả bán đảo Triều Tiên, nhiều phần đất rộng lớn của Nga, Trung Á, vùng Himalaya và nhiều vùng thuộc Đông Nam Á. Trên những bản đồ này đã xuất hiện những đường kẻ cho thấy sự đối lập lớn giữa một lãnh thổ to lớn của đế chế Trung Hoa trước kia với một diện tích đất nước đã bị thu nhỏ đáng kể. Như là định mệnh, sau khi chính quyền Trung Quốc thay tên cho các hòn đảo trên Biển Đông vào năm 1935, một đường kẻ như vậy được vẽ bao quanh Biển Đông. Đây là đường kẻ ngày nay có tên gọi “đường chữ U” hay “đường 9 đoạn” khoanh trọn 80% diện tích Biển Đông và tất cả các đảo và quần đảo trong đó. Sự cố trong khi vẽ bản đồ này, vốn do diễn dịch sai lịch sử Đông Nam Á, chính là cơ sở cho tuyên bố chủ quyền hiện nay của Trung Quốc.
Trung Quốc rõ ràng đã phải chịu bóc lột nặng nề dưới sự thống trị của các thế lực bên ngoài, nhưng nhà nước Trung Quốc hiện đại trỗi dậy từ tàn tích của Triều đại Mãn Thanh và những cuộc nội chiến sau đó đã tìm sự an ủi qua những ký ức thêu dệt vốn ít liên quan đến những gì xảy ra trên thực tế. Như bất kỳ khách thăm quan nào tới xem phần trưng bày “Con đường Hồi sinh” tại Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc trên Quảng trường Thiên An Môn có thể thấy, “hội chứng thêu dệt ký ức” này là một thành phần không thể thiếu để hợp thức hóa huyền thoại của Đảng Cộng sản: chính Đảng đã cứu đất nước thoát khỏi sự ô nhục.
Giới học giả theo chủ nghĩa dân tộc và các cơ quan chính quyền trong nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại cho Đảng Cộng sản một “lịch sử chính thức” rõ ràng là trái với sự thực. Chính điều này, chứ không phải nguy cơ từ những người theo chủ nghĩa dân tộc biểu tình trên các đường phố, đã khiến cho tranh chấp Biển Đông trở nên nguy hiểm và khó giải quyết đến như vậy. Nhưng thừa nhận lịch sử bị thêu dệt cũng có nghĩa là gỡ bỏ đi hòn đá tảng chống đỡ cho vị trí tối cao của Đảng trong xã hội Trung Quốc.
Đáng tiếc là không hề có giải pháp dễ dàng nào cho những xung đột đang tiếp diễn trên Biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc xung đột toàn diện, nhưng cũng không bên nào sẵn lòng giảm căng thẳng bằng cách điều chỉnh bớt những yêu sách chủ quyền của mình. Một số quan chức Trung Quốc khi nói chuyện riêng đã thừa nhận rằng duy trì yêu sách “đường chữ U” là vô lý về mặt pháp lý. Nhưng chính những quan chức đó cũng nói rằng họ không thể sửa đổi một cách chính thức những tuyên bố đã đưa ra vì nhiều lý do chính trị – những chỉ trích của người dân trong nước sẽ rất dữ dội. Như vậy thì làm thế nào mới có thể thuyết phục người dân Trung Quốc nhìn nhận lịch sử Biển Đông dưới một quan điểm khác?
Một câu trả lời có thể nằm ở Đài Loan. Tại Đài Loan, khả năng để có một diễn đàn tranh luận tự do hơn về lịch sử Trung Quốc cao hơn nhiều so với ở Trung Quốc đại lục. Hiện đã có một số học giả “bất đồng chính kiến” suy nghĩ lại về một số phương diện của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi lưu trữ những tư liệu của Trung Hoa Dân Quốc, chính quyền đầu tiên vẽ ra “đường chữ U”. Kiểm tra cởi mở và kỹ lưỡng lại quá trình cẩu thả đã vẽ ra đường chữ U có thể thuyết phục những người định hướng dư luận chịu xét lại một số vấn đề liên quan đến chủ nghĩa dân tộc còn chưa rõ ràng mà họ từ lâu coi là chân lý.
Có lẽ lý do thuyết phục nhất để bắt đầu ở Đài Loan là vì chính quyền Bắc Kinh sợ rằng nếu nhượng bộ thì sẽ bị chỉ trích quyết liệt tại Đài Bắc. Còn nếu chính quyền Đài Bắc xuống thang những xung đột xuất phát từ ghi chép lịch sử Biển Đông, thì chính quyền Bắc Kinh sẽ dễ dàng làm theo hơn. Chìa khóa dẫn đến một tương lai hòa bình cho châu Á nằm ở việc kiểm tra quá khứ một cách trung thực và có phản biện.
Cuốn sách Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực tại châu Á (The South China Sea and the struggle for power in Asia) của tác giả Bill Hayton sẽ được NXB Yale University Press xuất bản vào tháng 9.
Bản gốc tiếng Anh: Prospect Magazine
0 nhận xét:
Đăng nhận xét