Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014
Sự khủng hoảng của Hồi giáo 6
22:45
Hoàng Phong Nhã
No comments
Cuộc hôm nhân giữa quyền lực nhà Saudi và lời giảng của Wahhabi
Việc
từ bỏ tính hiện đại để quay về
với quá khứ thần thánh đã từng là
1 lịch sử lắm vẻ và đầy ngóc
ngách trong vùng và đã phát
sinh ra một số phong trào .Quan
trọng nhất trong những phong trào
này chắc chắn phải là phong trào
Wahhabit đặt theo tên người sáng
lập Muhammad ibn ‘Abd al-Wahhab ( 1703-1792) , là 1 nhà thần học
vùng Najd thuộc Arabia , vùng
này do các sheik thuộc gia tộc
Saud cai trị . Năm 1744 , Wahhab
phát động 1 chiến dịch thanh giáo
và phục hưng . Mục đích công
khai là quay trở lại Hồi giáo
thuần khiết và chân chính của
Đấng sáng lập , lột bỏ , và nếu cần
, triệt phá tất cả những gì sau
này mới thêm vào và làm sai
lệch .
Sự
nghiệp của Wahhabi được các nhà
cai trị dòng Saud tại Najd chớp
lấy, rồi có lúc đã khuyếch trương
thành công nhờ vũ lực . Qua nhiều
chiến dịch quân sự , họ đã đặt
được nền móng cai trị và đức tin
tại phần lớn vùng trung và phía
đông bán đảo Ả -rập và thậm
chí còn tấn công vùng Lưỡi liềm
phì nhiêu do đế quốc Ottoman cai
trị trực tiếp . Sau khi cướp
được Karbala , là thánh địa của
dòng Shi’a tại Iraq , họ quay sang
chú ý Hijaz và vào năm
1804-1806 , họ chiếm được nơi
này và sau đó – theo lời họ -
đã làm tinh khiết các thành phố
linh thiêng Mecca và Medina . Lúc
này rõ ràng là họ đang đối
đầu và thách thức sultan của đế
quốc Ottoman , người mà nhà cai
trị dòng Saud tố cáo là kẻ đã sa
ngã , xa rời niềm tin Hồi giáo
và là kẻ thoán đoạt tại 1 nhà
nước Hồi giáo .
Đế
quốc Ottoman , dù đang ở trong
giai đọan suy tàn , nhưng vẫn
đủ sức đối đầu với 1 tên phiến
lọan vùng sa mạc . Nhờ sự giúp đỡ
của viên Pasha tại Ai cập gởi quân
tiếp viện , công việc bình định
hoàn tất năm 1818 , thủ đô Saudi
bị chếm , viên emir Saud bị
bắt dẫn về Istanbul xử trảm .
Vào thời điểm này , nhà nước Saud
không còn tồn tại , nhưng học
thuyết của Wahhabi vẫn còn , và
từ năm 1823 trở đi , một thành
viên khác của tộc Saud phục
hồi được 1 lãnh địa Saud ,
đóng đô tại Riyadh . Một lần nữa
, các thủ lãnh của tộc Saud lại
đứng ra giúp đỡ và được sự giúp
đỡ của các luận điểm của học
thuyết Wahhabi.
Sự ra đời của học thuyết Wahhabi
tại bán đảo Arabia vào thế kỷ
18 trong chừng mực nào đó là 1
đáp ứng đối với sự chuyển mình
của thời đại . Dĩ nhiên một trong
những tình huống đó là sự thoái
trào của đạo Hồi và bước tâng
công tương ứng của thế giới Cơ
đốc. Điều này đã xảy ra từ lâu
rồi , nhưng đây là 1 tiến
trình chậm và từ từ , và khởi
sự tại những vùng biên xa
xôi thuộc thế giới Hồi giáo. Đến
thế kỷ 18 , nó mới trở nên rõ
ràng tại vùng trung tâm . Sự
thoái lui lâu dài và chậm của
đế quốc Ottoman ở vùng Balkan và
sự dấn bưóc của người Anh tại Ấn
độ , tuy vẫn còn xa xôi đối với
bán đảo Arabia , nhưng tác động
của nó vẫn được cảm nhận , một
mặt từ phiá đế quốc Ottoman ,
mặt kia từ phía vùng vịnh Ba tư ,
và chắc chắn đã được phản ánh qua
các khách hành hương từ khắp thế
giới Hồi giáo đến Arabia hàng năm
. Sự căm giận của những tin đồ
Wahhabi không chỉa thẳng vào
người bên ngoài , nhưng nhắm
vào nhưng người mà họ cho là phản
bội và làm giảm uy tín Hồi gian từ
bên trong : một mặt là những
người chủ trương cải cách canh
tân , mặt khác - và đây chính là
mục tiêu trực tiếp hơn- đó là
những người mà nhóm Wahhabi
cho là đã làm thối nát và làm
xấu đi di sản Hồi giáo chân
chính của Đấng tiên tri và
Chiến hữu của Người . Dĩ nhiên
ngoài chính họ ra , còn lại họ
chống đối mạnh mẽ mọi trường
phái hoặc phe phái Hồi giáo ,
dù đó là Sunni hoặc Shi’a . Họ
hết sức chống phái Sufi , tố cáo
phái này không những ở chủ trương
thần bí và tính khoan dung mà
còn ở điểm họ cho rằng phái
này thờ phụng tà giáo .
Ở
bất cứ nơi nào , khi có điều
kiện thì họ thể hiện niềm tin
của mình cực kỳ tàn bạo và
nghiêm khắc như phá hủy lăng
mộ , báng bổ những chốn linh
thiêng mà họ cho là giả ngụy
và thờ ngẫu tượng , và tàn sát
vô số đàn ông , đàn bà , và trẻ
em là những người không đạt đựơc
các tiêu chuẩn Hồi giáo thuần
khiết và chân chính. Wahhabi
cũng thực hiện việc qui tội
cho sách và đốt sách . Đó
chủ yếu là những công trình Hồi
giáo về thần học và luật được
coi là trái ngược với học
thuyết Wahhabi . Cùng với đốt
sách là việc xử tử ngắn gọn những
ai viết sách , chép sách hoặc
dạy theo sách đó .
Liên minh lần 2 giữa học thuyết
Wahhabi và lực luợng vua Saud
bắt đầu vào những năm cuối của
đế quốc Ottoman và còn kéo dài
đến tận ngày nay. Có 2 sự phát
triển vào đầu thế kỷ 20 đã
chuyển đổi học thuyết Wahhbi
thành 1 lực lượng chính bên
trong thế giới Hồi giáo và vượt
ra ngoài . Sự phát triển thứ 1
là việc củng cố và mở rộng vương
quốc Saudi . Vào những năm cuối
cùng của đế quốc Ottoman, Sheikh
‘Abd al’Aziz Ibn Saud ( sinh năm
1880 , trị vì 1902-1953) đã khéo
léo chống lại vua Ottoman phía
bắc và sự bành trướng quyền lực
của Anh ở phía đông bán đảo Ả
-rập. Vào tháng 12 năm 1915 , ông
ta ký 1 thỏa ước với Anh ; nhờ
đó trong khi vừa giữ được
nền độc lập , lại nhận đựơc sự
trợ cấp và lời hứa sẽ được
giúp đỡ nếu bị tấn công. Chiến
tranh chấm dứt và sự tan rã của
đế quốc Ottoman đã chấm dứt
giai đoạn này , và để lại một
mình ông ta đối diện với người
Anh . Ông ta kiếm chác khá
trong hoàn cảnh mới này và có
cơ hội mở rộng cương vực thừa kế
qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau
. Vào năm 1921 , cuối cùng thì
ông ta cũng đánh bại được kẻ
kình dịch lâu đời là Ibn Rashid
tại vùng bắc Najd , sáp nhập
lãnh thổ của kẻ thù là lấy tước
hiệu là sultan vùng Najd .
Giờ
đến giai đoạn phải chiến đấu quyết
liệt hơn , để dành quyền kiểm
soát Hijaz. Vùng đất này , có
2 thành phố thiêng liêng của
đạo Hồi là Mecca và Medina ,
trên 1000 năm dưới quyền cai trị
của con cháu triều đại Hashimite ,
hậu duệ của Đấng tiên tri ;
những thế kỷ sau này dưới
quyền bá chủ lỏng lẻo của đế
quốc Ottoman. Sự hình thành các
vương quốc Hashimite , do
nhiều nhánh của gia tộc này cai
trị , tại Iraq và tại
Transjordan như là 1 phần của
việc tổ chức lại các tỉnh Ả -rập
thuộc đế quốc Ottoman trước kia
sau khi thế chiến thứ nhất chấm
dứt , theo Ibn Saud là 1 sự đe
doạ cho vương quốc của mình . Sau
nhiều năm quan hệ tồi tệ , vua
Hussein tại Hijaz đưa ra 1 lý lẽ
nước đôi , một là là tự phong
cho mình tước hiệu Caliph , hai
là cho kiểm soát chặt chẽ các
khách hành hương nhóm Wahhabi khi
vào 2 thành phố thiêng liêng này
. Ibn Saud phản ứng bằng cách
tấn công Hijaz .
Chiến tranh chinh phục của nhà
Saud đạt được thắng lợi hoàn
toàn. Lực lượng của họ đầu tiên
chiếm Mecca ; sau đó , vào ngày 5
tháng 12 ,1925 , Medina ngoan ngoãn
đầu hàng sau khi bị bao vây 10
tháng . 2 tuần sau , vua Ali ,
người kế nghiệp vua cha Hussein ,
nhờ viên phó Lãnh sự người Anh tại
Jedda báo cho Ibn Saud là ông
ta sẽ rút lui khỏi Hijaz cùng với
tư trang cá nhân . Được coi là
nhà vua thoái vị , ngày hôm sau
quân của Saud tiến vào Jedda. Giờ
đây rộng đường cho Ibn Saud thoải
mái tự xưng là vua Hijaz và
Sultan Najd và các vùng phụ
thuộc vào ngày 8 tháng giêng
năm 1926. Chế độ mới lập tức được
các cường quốc châu Âu thừa nhận
, đặc biệt là Liên xô đã thông
báo ngoại giao cho Ibn Saud”
căn cứ trên nguyên tắc quyền tự
quyết của dân tộc và xuất phát
từ nguyện vọng của nhân dân
Hijaz chọn ngài làm vua của họ". Một hiệp ước chính thức giữa
Ibn và nước Anh , thừa nhận sự độc
lập toàn vẹn của vương quốc ,
được ký vào ngày 20 tháng 5 , 1927
. Một số quốc gia châu Âu khác
cũng theo gương này.
Sự thừa nhận từ khối Hồi giáo
ngược lại chậm hơn và có tính
miễn cưởng hơn. Một phái đoàn
Hồi giáo từ Ấn độ viếng Jedda và
yêu cầu nhà vua trao quyền kiểm
soát các thành phố thiêng liêng
cho 1 uỷ ban gồm các đại biểu
được tất cả các nước Hồi giáo chỉ
định . Ibn Saud không thèm đáp
ứng yêu cầu này và tống phái
đoàn về Ấn bằng đường biển .
Vào tháng 6 năm đó , ông triệu tập
Hội nghị toàn Hồi giáo tại Mecca ,
mời các vua chúa và lãnh đạo
các nước Hồi giáo độc lập và đại
biểu thuộc các tổ chúc Hồi giáo
tại các quốc gia không thuộc
quyền cai trị Hồi giáo . Có 69
đại diện từ mọi nước thuộc thế
giới Hồi giáo tham dự . Phát
biểu trước hội nghị , Ibn Saud nói
rõ là giờ đây ông ta là người
cai trị Hijaz . Nhà vua có nhiệm
vụ gìn giữ các thánh địa và
bảo vệ cho người hành hương
nhưng lại không cho phép bất cứ
sự can thiệp bên ngoài nào xía
vào những nhiệm vụ trên.
Khi đó , ông ta đã làm cho mọi
người ngơ ngác . Một số tức
giận và bỏ đi ; một số khác
thừa nhận trật tự mới . Trong
nhóm sau , đáng chú ý nhất là
người dẫn đầu đoàn đại biểu
tín đồ Hồi giáo ở Liên xô , vị
trưởng đoàn này trong bài phỏng
vấn của Thông tấn xã Liên xô
TASS , đã tuyên bố rằng Hội nghị
Hồi giáo này công nhận vua Ibn
Saud là người Cai quản các thánh
địa , hội nghị cũng kêu gọi nên
chuyển giao những phần đất của
Jordan sang cho vương quốc Hijaz
mới thành lập , và nói chung là
bày tỏ sư ủng hộ đối với vua
Ibn Saud. Mãi về sau này các quốc
gia Hồi giáo và các nước Ả -rập
mới thừa nhận . Các hiệp ứơc hữu
nghị được ký kết với Thổ nhĩ kỳ
và Iran vào năm 1929, với Iraq năm
1930 và với Jordan năm 1933. Ai
cập chỉ chính thức cộng nhận sự
sáp nhập vào Saudi Arabia khi ký
hiệp ứơc vào tháng 5 /1936.
Vào thời điểm này , vua Ibn Saud
nhanh chóng thực hiện việc tổ
chức và cơ cấu lại vương quốc
bao la của mình và vào tháng
9/1932 , một nhà nước thống nhất
với tên gọi là Vương quốc Saudi
Arabia đựơc tuyên cáo . Năm sau ,
ông ta chỉ định người con trưởng ,
Saud , làm người kế vị ngai vàng .
Cùng năm đó , cũng có 1 sự kiện
lớn khác gây ảnh hưởng đến khu
vực , đó là việc ký kết một thỏa
hiệp giữa bộ trưởng tài chính
Saudi Arabia và đại diện của
công ty dầu hỏa Standard Oil of
California vào ngày 19 tháng 5 năm
1933 .Nền chính trị Saudi và các
học thuyết của Wahhabi giờ đây
đã tạo được 1 cơ sở tài chính
vững chắc.
Các
quyền lợi của phương tây về mặt
dầu hỏa tại Trung đông bắt
đầu từ đầu thế kỷ 20 và chủ yếu
là do các công ty của Anh , Hòa
lan và Pháp nắm giữ . Quyền lợi
của Mỹ chỉ mới có vào đầu những
năm 1920 , do người Mỹ càng ngày
càng lo cho sự cạn kiệt các nguồn
dầu mỏ trong nước và lo sợ sự độc
quyền của các nước châu Âu đối
với dầu mỏ Trung đông. Khởi đầu
các công ty Mỹ chỉ là những người
hùn hạp nhỏ với các tổ hợp lớn
châu Âu khi mới vào thị trường
dầu mỏ Trung đông . Standard Oil
of California là công ty Mỹ đầu
tiên tham gia nghiêm túc việc
thăm dò dầu mỏ . Sau một số cố
gắng không đạt mấy kết qủa tại
các nước vùng Vịnh , cuối cùng ,
Standard Oil quay sang Saudi
Arabia và vào năm 1930 xin phép
thăm dò địa chất tỉnh phía đông .
Vua Ibn Saud lúc đầu từ chối yêu
cầu này nhưng sau đó đồng ý tiến
hành thương thuyết , cúôi cùng dẫn
tới thỏa hiệp năm 1933. Hiển
nhiên , một trong những yếu tố
xui nhà vua thay đổi ý kiến là
tình hình suy thoái kinh tế bắt đầu
từ năm 1929 , từ đó đã làm cho nền
tài chính của vương quốc càng ngày
càng lâm vào cảnh sa sút nghiêm
trọng .
Chưa
đầy 4 tháng sua khi ký kết thỏa
hiệp , các nhà địa chất Mỹ đổ bộ
lên phía đông Arabia . Đến cuối
năm , các nhóm thăm dò đựơc thành
lập xong , và năm sau , các toan
người Mỹ đã bắt đầu khia thác và
xuất cảng được dầu hỏa . Tiến
trình phát triển bị gián đọan
trong thế chiến thứ 2 nhưng lại
tiếp tục khi chiến tranh chấm dứt
. Một vài chỉ dẫn cho biết mức
độ phát triển qua các con số
dầu mỏ được khia thác tại Arabia
, tính theo triệu thùng :
1945:21,3 ; 1955: 356,6; 1965:
804,8 ; 1975 : 2.582,5.
Dầu mỏ xuất ra , tiền bạc ào ào
chảy vào đã đem lại nhiều sự
thay đổi cho vương quốc Saudi ,
về cơ cấu nội tại và lối sống
, cùng với vai trò và ảnh hưởng
đối ngọai , cả tại các quốc gia
tiêu thụ dầu mỏ và , mạnh hơn nữa
, là trong thế giới Hồi giáo . Sự
thay đổi có ý nghĩa nhất là ảnh
hưởng của học thuyết Wahhabi và
vai trò của những kẻ theo học
thuyết này. Học thuyết Wahhabi giờ
đây là học thuyết chính thức ,
đựơc thi hành bởi một chính
quyền có nhiều ảnh hưởng nhất
trong tòan thế giới Hồi giáo - đó
là người cai quản 2 thánh địa linh
thiêng nhất của đạo Hồi , nơi mà
hàng năm có đến hàng triệu tín đồ
đạo Hồi trên khắp thế giới đến
hành hương và thực hiện các
nghi thức và nghi lễ tôn giáo .
Trong khi đó , các thầy giảng và
giáo sĩ Wahhabit có dứơi tay nguồn
tài chính vô hạn , đem ra phân
phát để đẩy mạnh và khuyếch
trương học thuyết Hồi giáo mới
của họ . Ngay cả tại các nước
phương Tây tại châu Âu và Mỹ , nơi
mà hệ thống giáo dục công lập đã
tốt rồi , nhưng để dạy giáo lý
Hồi giáo cho những tân tòng và
khi các bậc cha mẹ Hồi giáo
muốn giáo dục cho con cái một số
cơ bản về truyền thống văn hóa
và tôn giáo Hồi giáo , thì duy
nhất chỉ có các trung tâm truyền
bá giáo lý Wahhabi làm việc này
. Việc truyền bá giáo lý này
được triển khai tại các trừơng
tư , các hội thảo tôn giáo ,
các trừơng học nhà thờ , trại hè ,
và càng ngày càng nhiều hơn ,
tại các nhà tù .
Theo
ngôn ngữ truyền thống Hồi giáo ,
madrasa là 1 trung tâm giáo
dục kiểu đại học , có nghiên cứu
, giảng dạy . Madrasa Hồi
giáo cổ điển là tiền thân và
trên nhiều mặt cũng là khuôn
mẫu cho các trường đại học tổng
hợp lớn ở châu Âu thời trung cổ .
Theo ngôn ngữ hiện đại , từ
madrasa có ý nghĩa tiêu cực ;
dùng để chỉ một nơi nhồi nhét
sự cố chấp và bạo lực . Lấy một
ví dụ để chứng minh là khi
nghiên cứu lý lịch họat động của
một số người Thổ nhĩ kỳ bị bắt vì
tình nghi tham gia vào các
động khủng bố . Tất cả bọn họ
đều sinh ra và được giáo dục tại
Đức , không có người nào từ Thổ
nhĩ kỳ . Chính phủ Đức không giám
sát việc giáo dục tôn giáo của
các nhóm thiểu số. Nhưng chính
phủ Thổ lại luôn dè chừng những
vấn đề này . Tại châu Âu và Mỹ ,
do nhà nước không muốn can dự
vào các vấn đề tôn giáo , việc dạy
giáo lý Hồi giáo ở trường và
ngoài nhà trừơng hầu như nhà cầm
quyền không hề để mắt tới . Tình
hình này rõ ràng là tạo điều
kiện cho những kẻ liều lĩnh ,
cuồng tín và có quá nhiều tiền
bạc .
Có lẽ ta có thể diễn tả kết
qủa sẽ ra sao bằng 1 ví dụ
tưởng tượng . Hãy tưởng tượng là
nhóm Ku Klux Klan hoặc tương tự
chiếm quyền kiểm sóat hòan tòan
bang Texas , chiếm các giếng dầu
mỏ cùng với lợi tức từ dầu mỏ ,
và họ cũng làm như thế , bỏ nhiều
tiền ra xây dựng 1 hệ thống các
trừơng trung học và cao đẳng
trong tất cả thế giới Cơ đốc ,
nơi nào cũng dán nhản Cơ đốc
giáo . Ví dụ tương đương này có
phần ít khốc liệt hơn thực tế
, bởi vì đa số các nước Cơ đốc
đều đứng ra quản lý hệ thống
trường công . Tại một số nước Hồi
giáo , họ không làm như thế , và
các trừơng trung học và cao đẳng
do phái Wahhabi bảo trợ là nơi
cung cấp một nền giáo dục duy
nhất cho các thanh niên Hồi giáo .
Bằng cách này , tín đồ Wahhabi
mang thông điệp của họ đến các
nước theo Hồi giáo và càng ngày
càng tăng tại các cộng đồng
thiểu số tại châu Âu và Bắc Mỹ .
Sinh họat công cọng , giáo dục
và thậm chí việc thờ phụng đựơc tổ
chức theo khuôn phép Hồi giáo ,
đều được nhóm Wahhabis tài trọ
rộng rãi đến mức kinh ngạc , và
như thế phiên bản đạo Hồi mà họ
thực hành và rao giảng đều bị
chi phối bởi các nguyên tắc và
quan điểm của phái Wahhabi .
Quyền cai quản các thánh địa và
lợi tức từ dầu mỏ đã khiến cho
một vùng đất biên địa của nhóm tín
đồ cực đoan tại 1 quốc gia xa xôi
trở thành 1 trung tâm gây ảnh
hưởng trên tòan thế giới ..
Việc
khai thác dầu mỏ đã mang lại một
số giàu có vô tận mới và
cùng với nó là những mối căng
thẳng xã hội mới ngày càng trở
nên sâu sắc. Trong xã hội cũ , sự
cách biệt giữa giàu và nghèo
không nhiều , và hệ qủa cũng
có chừng mực - một mặt , giữa
người giàu và nghèo có những
mối liên kết xã hội truyền thống
và , mặt khác , do kiểu sống kín
đáo trong gia đình của người Hồi
giáo . Quá trình hiện đại hóa
lại làm cho hố ngăn cách ngày
càng rộng ra , phá hủy những mối
ràng buộc xã hội , và do các
phương tiện truyền thông đại
chúng trở nên phổ biến càng làm
cho những hình ảnh bất bình đẳng
hiển hiện một cách nhức nhối
. Tất cả những điều này đã
hình thành 1 lớp người mới , dễ
nghe theo giáo lý của nhóm
Wahhabi và những nhóm có tư
tưởng tương tự , trong số đó có
nhóm Huynh đệ Hồi giáo tại Ai cập
và Syria và nhóm Taliban tại
Afghanistan.
Sự giàu có do dầu mỏ cũng đem lại
những hệ qủa tiêu cực về chính trị
, làm hạn chế sự phát triển của các
định chế đại diện cho nhân dân ."Không đóng thuế thì không có đại
diện"là 1 bứơc quan trọng trong
sự hình thành nền dân chủ phương
Tây. Rủi thay , điều ngựơc lại
cũng đúng- không có đại diện nếu
không đóng thuế. Các chính quyền
giàu có nhờ dầu mỏ không cần
quốc hội để đặt ra thuế và thu
thuế , và không ít khi họ chẳng
cần đếm xỉa gì đến công luận .
Ngay cả từ công luận cũng chẳngcó
mấy ý nghĩa trong những xã hội
đó. Không tìm ra đựơc lối thóat nào
khác , cho nên những nổi bất
bình mới , sôi sục đã tìm đựơc
cách biểu thị nơi các phong trào
tôn giáo cực đoan.
Hiện
nay ta thường gọi những phong trào
này là phái chính thống ( fundamentalist). Tên gọi này
không được may mắn vì một số
lý do . Khởi thủy đó là 1 từ của
Tin lành Mỹ , dùng để chỉ một số
nhà thờ khác với các nhà thờ
thuộc dòng chính phái ở một số
điểm . 2 sự khác biệt chính là
thần học tự do và sự phê phán
kinh thánh , cả 2 đều được coi là
có thể phản bác . Thần học tự
do đã từng là 1 chủ đề đối với
người Hồi giáo trong quá khứ và
có thể lại xảy ra trong tương lai
. Giáo điều cơ bản của Hồi giáo là
kinh Qur’an với từng câu từng chữ
đều có tính thần thánh và không
thể sai lầm được , và mặc dù có
người nghi ngờ về điều này nhưng
không ai dám lên tiếng . Những sự
khác biệt này không hề giống
chút gì với những điều phân
biệt giữa phái Hồi giáo chính
thống với dòng Hồi giáo chủ đạo ,
vì vậy từ này có thể gây sai
lạc . Tuy nhiên , ngày nay lại
trở nên thông dụng , và được
dịch nguyên văn sang tiếng Ả
-rập , Ba tư và Thổ nhĩ kỳ .
Sự lu mờ của chủ nghĩa tòan -Ả
-rập đã làm chủ nghĩa chính
thống trở thành một sự lựa
chọn hấp dẫn nhất cho những ai
nghĩ rằng phải có một cái gì đó
tốt hơn , chân thực hơn và mang
lại nhiều hy vọng hơn là các chế
độ độc tài lạc lõng đang cai trị ,
và các ý thức hệ phá sản đựơc tuồn
từ bên ngoài vào xứ họ . Sau khi
tất cả những phương thuốc chính trị
và kinh tế , hoặc do ngọai nhập
hoặc do sao chép tại chỗ đều
thất bại , dẫn tới sự vỡ mộng và
căm giận tạo điều kiện cho những
phong trào này phát sinh và tồn
tại nhờ tình trạng thiếu thốn
và bị lăng nhục . Như nhiều
người tại Trung đông và Bắc Phi
nhận xét , cả chủ nghĩa tư bản lẫn
chủ nghĩa xã hội đều được đem
thử rồi cùng chịu thất bại ; cà
2 mô hình phưong Tây và phương
Đông đều chỉ tạo ra sự nghèo đói
và độc tài . Dường như không công
bằng khi nói rằng sau khi độc
lập , như tại Algeria chẳng hạn
, phương Tây đáng bị trách cứ vì
các chính sách Stalinist giả tạo
của 1 chính phủ chống- phương Tây ,
vì sự thất bại của của này và sự
lạc lõng của cái kia. Nhưng tình
cảm của quần chúng không phải
hòan tòan sai khi cho rằng thế
giới phương Tây và các tư tưởng
phương Tây là nguồn gốc chủ yếu
của những thay đổi chính đã làm
biến chuyển thế giới Hồi giáo
trong thế kỷ vừa qua hoặc về sau.
Kết cuộc là , phần lớn những nổi
căm giận của thế giới Hồi
giáo đều nhắm vào phương Tây ,
vốn được coi là kẻ cựu thù xa
xưa của Hồi giáo kể từ khi có
những xung đột đầu tiên giữa các
Caliph Hồi giáo và các hòang đế
Cơ đốc , và chống cả những người
chủ trương theo phương Tây , bị
coi là công cụ hoặc tòng phạm
của phương tây , là kẻ phản bội
đức tin và dân tộc của mình .
Phái
chủ trương chính thống về tôn
gíáo hưởng đựơc nhiều ưu thế so
với các ý thức hệ cùng tranh
giành . Chủ trương này dễ hiểu đối
với cả người Hồi giáo có học và
thất học . Học thuyết chính thống
đưa ra một tập hợp các chủ đề ,
khẩu hiệu và biểu tượng hết sức
quen thuộc có hiệu qủa trong
việc huy động sự ủng hộ và đưa
ra được 1 lập trừơng phê phán
cái gì sai cũng như đưa ra
chương trình cải tạo nó. Các
phong trào tôn giáo cũng hưởng
được một ưu thế thực tiển
khác trong những xã hội giống
như xã hội vùng Trung đông và Bắc
Phi là những nơi đang đựơc cai trị
bởi các chế độ độc đóan nhiều hoặc
ít : các nhà độc tài có thể cấm
các đảng phái họat động , có thể
cấm không cho hội họp –nhưng lại
không thể cấm việc thờ phụng
công cộng , và nếu có , chỉ giới
hạn việc giảng đạo trong mộ chừng
mực nào đó .
Kết quả là chỉ còn có các
nhóm chống đối tôn giáo mới có
nơi hội họp thường xuyên , nơi mà
họ có thể tụ tập và tổ chức được
1 mạng lưới nằm ngoài vòng kiểm
sóat của nhà nước hoặc ít nhất
cũng không bị nắm hòan tòan . Chế
độ càng áp bức , thì càng giúp
cho nhóm chủ trương chính thống
khi tạo cho họ hầu như độc quyền
chống đối .
Chủ
trương cấp tiến Hồi giáo bằng
quân sự không phải mới có. Đã xảy
ra nhiều lần kể từ khi có ảnh
hưởng của phương tây vào thế kỷ
18, đã từng có nhiều phong
trào chống đối nổ ra dưới hình
thức quân sự . Cho đến nay , tất
cả đều thất bại . Đôi khi , những
phong trào này thất bại một cách
dễ dàng và tương đối êm thắm vì
bị đánh bại và đàn áp , trong
trường hợp này họ cũng đựơc coi
là thành công vì có người tử vì đạo
. Đôi khi họ thất bại chua xót hơn
, khi nắm được quyền lực , nhưng lại
phải đối đầu với những vấn đề kinh
tế và xã hội mà họ không giải
quyết được . Điều thường xảy ra
là họ lại trở thành kẻ đi áp bức
và cũng nực cuời như người bị
họ lật đổ .Chính vào giai đoạn
này họ có thể trở nên rất nguy hiểm
, nói theo ngôn ngữ phương tây ,
là khi cuộc cách mang chuyển
sang giai đọan Napoleon hoặc
giai đoạn Stalinit . Với 1 chương
trình xâm lăng và bành trứơng ,
các phong trào này , giống như
các đàn anh phái Jacobin và
Bolshevik sẽ có ưu thế là sự tiếp
tay của những đội quân thứ 5 tại
mỗi nước và mỗi cộng đồng mà
họ có những tương đồng về văn
hóa .
Nói rộng ra , phái Hồi giáo chủ
trương chính thống là những
người cảm thấy ràng tất cả những
rối rắm của thế giới Hồi giáo
hiện nay không phải là do hiện
đại hóa chưa đủ nhưnglà do
hiện đại hóa quá mức , theo họ đó
là sự phản bội các giá trị Hồi
giáo đích thực . Theo họ , phương
thúôc là quay về với Hồi giáo
đích thực , bao gồm việc bải bỏ
tất cả các luật pháp và những điều
vay mượn về mặt xã hội từ phương
tây và phục hồi Thánh luật Hồi
giáo , shari’a , là luật phù hợp
của đất nước . Từ quan điểm này ,
cuộc chiến cuối cùng không phải
dành cho kẻ đột nhập phương tây
nhưng là để chó6ng lại tên
phản bội theo phương Tây trong
nước .Kẻ thù nguy hiểm nhất , theo
họ ,là những tên Hồi giáo trá
ngụy và phản bội đang ngồi cai
trị các quốc gia trong thế giới Hồi
giáo , và là nhữn kẻ đã nhập
cảnhg cũng như áp đặc lối
sống của bọn vô đạo lên nhân
dân Hồi giáo .
Điểm này được nêu rõ trong 1
bài viết ngắn của ‘Abd al- Salm
Faraq , người Ai cập bị xử tử
cùng với đồng bọn vào tháng
4/1982 vì tội danh đã âm mưu và
thủ mưu ám sát Tổng thống Sadat .
Nhận xét của Faraq cho ta biết
rõ thêm về động cơ của hắn :
Cơ sở để
bọn đế quốc hiện diện
trên các vùng đất Hồi giáo
là những tay cầm
quyền tương tự . Đứng ra
chống bọn chủ nghĩa đế
quốc là 1 công việc chẳng
hề mang được lợi ích hoặc
vinh vang gì , chỉ tốn thời
gian vô ích . Bổn phận
của chúng ta là tập trung
vào sự nghiệp Hồi giáo ,
đó là phải thiết lập trước
hết , luật của Thượng đế
trên đất nước chung ta và
làm cho tiếng nói của
Thượng đế chiếm ưu thế .
Không còn gì nghi ngờ là
trận chiến đầu tiên của
cuộc thánh chiến là việc
tước bỏ quyền lãnh đạo
của bọn vô đạo và thay
thế bằng 1 trật tự Hồi
giáo hòan hảo , và từ đó
sẽ giải phóng được năng
lực của chúng ta
.
Trong khỏang thời gian từ lúc Tổng
thống Sadat bị mưu sát cho đến
lúc bắt đựơc bọn sát thủ , người
cầm đầu bọn họ đã đắc thắng la
to” Ta đã giết được tên
Pharaoh! Ta không hề sợ chết".
Theo như cách nhìn nhận của nhiều
người phương Tây vào thời đó ,
nếu dưới mắt các tay sát thủ sai
phạm của Sadat là đã ký kết hòa
bình với Isael , thì Pharaon là
một tên gọi hòan tòan không phù
hợp . Rõ ràng là họ không nhắc
đến Pharaon như sách giáo khoa
Ai cập hiện nay , là người thể
hiện đựơc sự vĩ đại và vinh
quang của Ai cập cổ đại . Nhưng
đó là Pharaon trong sách Exodus
, kẻ mà theo Qur’an , là 1 tên
độc tài vô đạo đã áp bức dân của
Thượng đế . Không còn gì nghi ngờ
khi Usam bin Ladin đã gọi Tổng
thống Bush theo nghĩa này là
Pharaon của thời đại hiện nay.
Vào thời kỳ xảy ra Exodus , Con
dân Israel là dân của Chúa .
Tín đồ Hồi giáo hiện nay không
công nhận nhà nước Israel hiện
tại là kế thừa hợp pháp của Con
dân Israel cổ đại - là Banu
Israil trong kinh Qur’an -
và những kẻ ám sát Sadat chắc
chắn không công nhận sự dàn xếp
của ông ta với nhà nước này.
Nhưng về sau , khi tra hỏi các tay
giết người và đồng phạm mới rõ
là theo họ , hòa bình với Israel
chỉ là 1 hiện tượng tương đối nhỏ
- là 1 triệu chứng , không phải là
nguyên nhân của việc phạm trọng
tội đã rời bỏ niềm tin vào
Thượng đế , đàn áp dân của Chúa
và răm rắp theo khuôn mẫu của
kẻ thù .
0 nhận xét:
Đăng nhận xét