Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014
JOSHUA S. GOLDSTEIN - Nghĩ lại về chiến tranh. Hòa bình thế giới có thể gần hơn bạn nghĩ (kì 1)
01:41
Hoàng Phong Nhã
No comments
Hiếu Tân dịch
1.
"Thế giới ngày nay là nơi nhiều bạo lực hơn trước?"
Không hề. Đầu
thế kỷ 21 dường như ngập trong những cuộc chiến tranh: Những cuộc xung
đột ở Afghanistan và Iraq, những trận đánh trên đường phố ở Somalia,
người Islamist nổi dậy ở Pakistan, những vụ tàn sát ở Congo, những chiến
dịch diệt chủng ở Sudan. Nhìn chung, ngày nay đánh nhau diễn ra liên
miên trong 18 cuộc chiến tranh trên khắp toàn cầu. Công luận nghĩ về
chiều hướng này như một thế giới nguy hiểm hơn bao giờ hết: trong cuộc
điều tra ý kiến cách đây mấy năm, 60 phần trăm người Mỹ coi chiến tranh
thế giới thứ ba là có thể xảy ra. Những hy vọng cho một thế kỷ mới là ảm
đạm thậm chí trước cả những cuộc tấn công ngày 11 tháng Chín 2001 và
hậu quả đẫm máu của nó: nhà khoa học chính trị James G. Blight và cựu Bộ
trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara hồi đầu năm ấy cho rằng chúng
ta có thể đợi thấy trên toàn thế giới trung bình mỗi năm 3 triệu người
chết vì chiến tranh trong thế kỷ 21.
Cho
đến nay chúng vẫn chưa kết thúc. Thật ra thập kỷ vừa qua đã thấy số
người chết vì chiến tranh ít hơn bất kỳ thập kỷ nào khác trong vòng 100
năm qua, dựa trên những số liệu do các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên
cứu Hòa bình Oslo, Bethany Lacina và Nils Petter Gleditsch, biên soạn.
Trên toàn thế giới những cái chết gây ra bởi bạo lực trực tiếp liên quan
đến chiến tranh trong thế kỷ mới trung bình là 55.000 người một năm,
chỉ bằng nửa con số những năm 1990 (100.000 người mỗi năm) một phần ba
con số của chiến tranh lạnh (180.000 mỗi năm từ 1950 đến 1989) và một
phần trăm trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nếu bạn tính đến sự tăng
dân số toàn cầu, trong thế kỷ qua tăng gần gấp bốn lần, thì sự giảm tỉ
lệ còn mạnh hơn nữa. Khác xa với một thời đại chém giết vô chính phủ,
hai mươi năm sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt đã là một thời đại tiến
bộ nhanh chóng đạt tới hòa bình.
Xung
đột vũ trang đã giảm phần lớn bởi vì xung đột vũ trang đã thay đổi về
cơ bản. Những cuộc chiến tranh giữa các nước thù địch lớn gần như đã
biến mất cùng với Chiến tranh Lạnh, mang đi theo chúng các loại vũ khí
hủy diệt hàng loạt khủng khiếp. Ngày nay những cuộc chiến tranh du kích
không cân sức có thể là khó trị và hiểm ác, nhưng chúng sẽ không bao giờ
còn tạo ra những gì giống như cuộc bao vây Leningrad. Cuộc xung đột
cuối cùng giữa hai cường quốc lớn, Chiến tranh Triều Tiên, thật sự đã
kết thúc cách nay gần 60 năm. Cuộc chiến tranh khủng bố kéo dài liên tục
giữa hai kẻ thù truyền kiếp, Ethiopia và Eritrea, đã kết thúc cách nay
một thập kỷ. Ngay cả các cuộc nội chiến, mặc dầu là tai họa dai dẳng,
cũng ít thường xuyên hơn so với trong quá khứ; năm 2007 ít hơn một phần
tư so với năm 1990.
Nếu
thế giới cho ta cảm giác có nhiều bạo lực hơn thực tế, vì rằng chính nó
có nhiều thông tin hơn về chiến tranh – chứ không phải có nhiều cuộc
chiến tranh hơn. Những cuộc chiến và những tội ác chiến tranh xưa kia ở
những nơi xa xôi thì nay thường xuyên xuất hiện trên TV và trên màn hình
máy tính của chúng ta, và ít nhiều gần với thời gian chúng xảy ra trong
thực tế. Máy ảnh trên điện thoại di động đã biến các công dân thành
những phóng viên trong nhiều vùng chiến sự. Những qui phạm xã hội về
việc tạo ra cái gì từ những thông tin ấy cũng đã thay đổi. Như nhà tâm
lý học Steven Pinker đã nhận xét, "Việc giảm hành vi bạo lực diễn ra
song song với sự suy giảm trong thái độ dung túng hoặc tôn vinh bạo
lực," do đó chúng ta thấy tính hung bạo ngày nay – dù đã mềm đi bởi
những tiêu chuẩn lịch sử - như những dấu hiệu về cách hành xử của chúng
ta đã tụt xuống thấp đến thế nào, không phải những tiêu chuẩn của chúng
ta đã được nâng lên đến mức nào."
2.
"Nước Mỹ đang đánh nhiều cuộc chiến tranh hơn bao giờ hết"
Đúng và không.
Rõ ràng là Hoa Kỳ đã bước vào một tình trạng chiến tranh kể từ sự
kiện11/9, với một cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn ở Afghanistan đã vượt
qua Chiến tranh Việt Nam như cuộc xung đột dài nhất trong lịch sử nước
Mỹ, và cuộc chiến tranh chặn trước ở Iraq tỏ ra còn kéo dài hơn, đẫm máu
hơn và tốn kém hơn chờ đợi của bất cứ ai. Cộng thêm sự can thiệp hiện
tại của NATO vào Libya và những cuộc xâm phạm của máy bay không người
lái vào Pakistan, Somalia, và Yemen, và không có gì đáng ngạc nhiên rằng
chi phí quân sự của Mỹ đã tăng lên hơn 80% theo giá thực trong thập kỷ
qua. Với 675 tỉ $ năm nay, nó đã cao hơn 30% so với cuối thời kỳ Chiến
tranh Lạnh.
Nhưng
mặc dầu những cuộc xung đột của thời kỳ sau ngày 11/9 có thể dài hơn
những cuộc xung đột của các thế hệ trước, chúng cũng nhỏ hơn nhiều và
làm chết ít người hơn. Một thập kỷ chiến tranh của Mỹ kể từ 2001 đã giết
chết khoảng 6.000 người so với 58.000 ở Việt Nam và 300.000 trong Thế
Chiến II. Mỗi cuộc đời mất đi vì chiến tranh là tổn thất quá lớn, nhưng
những cái chết ấy phải được nhìn trong bối cảnh: Năm ngoái số người Mỹ
chết do ngã từ trên giường xuống nhiều hơn trong tất cả các cuộc chiến
tranh của Mỹ cộng lại.|1|
Và
cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan đã diễn ra trong bối cảnh đóng cửa các
căn cứ và rút bớt nhân viên ở các nơi khác trên thế giới. Việc tăng tạm
thời quân số Hoa Kỳ ở Nam Á và Trung Đông, từ 18.000 lên 212.000 từ năm
2000 đi ngược với việc rút vĩnh viễn gần 40.000 quân khỏi châu Âu,
34.000 khỏi Nhật Bản và Nam Triều Tiên, và 10.000 khỏi châu Mỹ Latin
trong thời kỳ này. Khi các lực lượng Mỹ về nhà từ những cuộc chiến tranh
hiện tại – và một số lớn họ sẽ về trong tương lai gần, bắt đầu từ
40.000 lính từ Iraq và 33.000 từ Afghanistan vào năm 2012 – số lính Mỹ
được triển khai trên toàn thế giới sẽ ít hơn bất kỳ thời gian nào kể từ
những năm 1930. Tháng Sáu Tổng thống Barack Obama đã đúng khi ông nói
"Cơn thủy triều chiến tranh đang rút xuống."
3.
"Chiến tranh đã man rợ hơn đối với dân thường?"
Khắc nghiệt hơn.
Tháng Hai 2010, một máy bay không kích của NATO bắn trúng một ngôi nhà ở
quận Marja của Afghanistan, giết ít nhất chín thường dân trong ngôi nhà
đó. Tấn thảm kịch đó đã kéo theo lời buộc tội và tạo nên tin tức, dẫn
đến chỉ huy tối cao của NATO trong nước này phải xin lỗi Tổng thống
Afghanistan Hamid Karzai. Phản ứng này cho thấy rõ chiến tranh đã thay
đổi như thế nào. Trong Thế Chiến II, quân đồng minh ném bom giết hàng
trăm nghìn dân thường ở Dresden và Tokyo không phải do tình cờ, mà là
một vấn đề chiến thuật; Đức, tất nhiên, giết hàng triệu dân thường. Và
ngày nay khi dân thường gặp nguy hiểm, thì có nhiều người lo lắng cho họ
hơn. Số tiền nhân đạo chi cho việc sơ tán tính theo đầu người đã lên
theo giá thực từ 150 $ vào đầu những năm 1990 đến 300$ vào năm 2006.
Tổng số viện trợ nhân đạo quốc tế đã tăng từ 2 tỉ $ năm 1990 lên 6 tỉ $
năm 2000 (theo tuyên bố của các nước viện trợ) và 18 tỉ $ năm 2008. Đối
với những người bị kẹt trong cảnh giao tranh, chiến tranh ngày nay đã
nhân đạo hơn trước.
Tuy
nhiên nhiều người vẫn khăng khăng cho rằng tình hình là ngược lại.
Chẳng hạn, các công trình có căn cứ vững chắc về gìn giữ hòa bình trong
các cuộc nội chiến (công trình được giải thưởng của Roland Paris Vào lúc kết thúc chiến tranh và Chiến tranh và Xây dựng Hòa bình
của Michael Doyle và Nicholas Sambanis) cũng như những báo cáo
tiêu-chuẩn-vàng về xung đột từ Ngân hàng Thế giới và Ủy ban Carnegie về
Phòng ngừa Xung đột Chết người, cho chúng ta biết 90 phần trăm những
người chết trong các cuộc chiến tranh ngày nay là thường dân trong khi
mười phần trăm là quân đội – nghịch đảo với cách đây một thế kỷ và "một dấu chỉ độc ác về sự biến dạng của xung đột vũ trang" cuối thế kỷ 20, như nhà khoa học chính trị Kalevi Holsti diễn tả.
Tất
nhiên là độc ác – nhưng may mắn là nó không đúng. Huyền thoại này xuất
phát từ Báo cáo Phát triển con người của LHQ năm 1994, nó đã hiểu sai
công trình mà nhà nghiên cứu Thụy điển Christer Ahlström đã làm năm 1991
và ảnh hưởng nguy hại của chiến tranh vào đầu thế kỷ 20 được cô đúc lại
một cách ngẫu nhiên với số người chết, bị thương và phải tản cư nhiều
hơn nhiều ở cuối thế kỷ 20. Một phân tích thận trọng hơn năm 1999 của
nhà nghiên cứu William Eckhardt cho thấy tỉ lệ quân đội chết so với dân
thường là 50-50, như trong nhiều thế kỷ (mặc dầu có sự khác nhau giữa
các cuộc chiến tranh). Nếu bạn không may là một dân thường trong một
vùng chiến sự thì tất nhiên những thống kê này không dễ chịu cho lắm.
Nhưng trên quy mô toàn thế giới, chúng ta đang có tiến bộ trong việc
giúp cho những người dân thường bị hại vì chiến tranh.
|[1]
|Nguyên văn: Last year more Americans died from falling out of bed than
in all U.S. wars combined (Đây là một căn bệnh về rối loạn giấc ngủ,
người bệnh ngã từ trên giường xuống trong khi ngủ).
Còn 1 kì
Joshua S. Goldstein là giáo sư danh dự về quan hệ quốc tế tại Đại học Tổng hợp Hoa Kỳ và là tác giả cuốn: Thắng cuộc chiến tranh về chiến tranh: Sự giảm xung đột vũ trang trên toàn thế giới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét