Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Ludwig von Mises (1881-1973) - CHỦ NGHĨA TỰ DO TRUYỀN THỐNG 1
Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 1
Nền tảng của chính sách tự do
5. Bất bình đẳng về tài sản và thu nhập
Bất bình đẳng về tài sản và thu 
nhập là vấn đề bị phê phán nặng nề nhất. Trong xã hội có người giàu và 
người nghèo, có người rất giàu và cũng có người rất nghèo. Cách giải 
quyết cũng không có gì khó: chia đều tất cả tài sản.
Đề xuất này bị phản đối trước 
hết vì người ta cho rằng nó sẽ chẳng giúp cải tạo được tình hình vì số 
người có của phải lớn hơn rất nhiều lần số người giàu có hiện nay cho 
nên việc phân chia như thế sẽ chẳng làm tăng được mức sống của mỗi người
 thêm được bao nhiêu. Điều này dĩ nhiên là đúng nhưng không đủ. Những 
người đòi sự bình đẳng trong việc phân chia thu nhập đã bỏ qua một chi 
tiết quan trọng nhất: tổng số tài sản có thể đem phân phối, tức là thu 
nhập hàng năm của lao động xã hội, không phụ thuộc vào cách phân phối 
chúng. Số sản phẩm đang có trong xã hội không phải là hiện tượng tự 
nhiên hay xã hội độc lập với các điều kiện xã hội mà chính là kết quả 
của những định chế xã hội của chúng ta. Chỉ vì bất bình đẳng có thể tồn 
tại trong chế độ xã hội của chúng ta, chỉ vì nó thúc đẩy mọi người mang 
hết sức mình ra sản xuất và sản xuất với giá thành thấp nhất cho nên 
loài người mới có trong tay số tài sản được sản xuất ra và được tiêu thụ
 hàng năm như hiện nay. Nếu động cơ lao động đó bị phá huỷ thì năng suất
 lao động sẽ giảm đáng kể, phần đem phân phối cho mỗi cá nhân sẽ ít hơn 
rất nhiều so với phần mà một người nghèo nhất cũng nhận được hiện nay.
Tuy nhiên, bất bình đẳng trong 
phân phối thu nhập còn có một chức năng nữa, cũng quan trọng như chức 
năng vừa nói bên trên: sự xa xỉ của người giàu.
Người ta đã nói và viết rất 
nhiều điều ngu xuẩn về sự xa xỉ. Người ta phản đối việc tiêu thụ những 
món hàng xa xỉ vì cho rằng thật là bất công khi một số người sống quá 
thừa mứa trong khi những người khác lại sống trong cảnh bần hàn. Luận cứ
 này có vẻ như cũng có giá trị nào đó. Nhưng đấy chỉ là vẻ ngoài mà 
thôi. Nếu có thể chứng minh được rằng việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ
 chính là thực hiện một chức năng hữu ích trong hệ thống hợp tác xã hội 
thì luận cứ này sẽ bị coi là vô giá trị. Đấy chính là điều chúng ta sẽ 
làm trong phần dưới đây.
Dĩ nhiên là chúng ta không biện 
hộ cho việc tiêu thụ những món hàng xa xỉ bằng luận cứ mà đôi khi có 
người nói là hàng xa xỉ giúp luân chuyển tiền trong dân chúng. Nếu người
 giàu không hưởng những món xa xỉ thì người nghèo không có tiền, người 
ta nói như thế. Thật là nhảm nhí. Vì rằng nếu không có người tiêu thụ 
hàng xa xỉ thì vốn và lao động dùng cho việc sản xuất hàng xa xỉ sẽ được
 dùng cho việc sản xuất các hoàng hoá khác, thí dụ như những món hàng mà
 nhiều người tiêu thụ, những món hàng cần thiết chứ không phải là những 
món hàng “vô dụng”. 
Để có thể tạo ra được một quan 
niệm đúng đắn về giá trị xã hội của việc tiêu thụ các món hàng xa xỉ 
trước hết ta phải hiểu rằng khái niệm về xa xỉ là khái niệm tương đối. 
Xa xỉ là có cách sống tương phản rõ rệt với phần lớn dân chúng cùng 
thời. Như vậy là, quan niệm về xa xỉ là quan niệm có tính cách lịch sử. 
Nhiều thứ ta coi là thiết yếu hiện nay có thời đã từng được coi là xa 
xỉ. Trong thời Trung cổ, khi phu nhân dòng dõi quí tộc người Byzantine 
của ngài tổng trấn vùng Venise dùng món mà ngày nay chúng ta gọi là thìa
 thìa dĩa bằng vàng để gắp thức ăn chứ không dùng tay để bốc thì người 
Venise coi đấy là món hàng xa xỉ, nhạo báng cả thánh thần và họ nghĩ 
rằng nếu trời có mắt thì nhất định người đàn bà này phải mắc một căn 
bệnh khủng khiếp mới xứng: chắc chắn là họ cho rằng tiêu xài phung phí 
trái tự nhiên như thế thì nhất định sẽ bị Trời phạt. Cách đây vài ba thế
 hệ buồng tắm trong nhà được coi là xa xỉ, ngày nay gia đình công nhân 
Anh nào cũng có buồng tắm như thế cả. Ba mươi lăm năm trước chưa ai có ô
 tô, hai mươi năm trước sở hữu ô tô được coi là sống xa hoa, còn hiện 
nay ở Mĩ ngay cả công nhân cũng có xe Ford riêng. Đấy là xu hướng của 
lịch sử kinh tế. Món hàng xa xỉ hôm nay sẽ trở thành đồ dùng cần thiết 
vào ngày mai. Mọi sự cải tiến trước tiên đều là những món hàng xa xỉ của
 một ít người giàu có, nhưng sau đó một thời gian sẽ trở thành đồ dùng 
thiết yếu, được mọi người coi là đương nhiên phải như thế. Việc tiêu thụ
 những món hàng xa xỉ giúp cho nền công nghiệp phát triển và tạo ra 
những sản phẩm mới. Đấy là một trong những tác nhân làm cho nền kinh tế 
của chúng ta trở thành năng động. Nhờ có nó mà chúng ta mới có những 
cách tân, và nhờ những cách tân như thế mà đời sống của tất cả các thành
 phần dân cư trong xã hội mới được cải thiện từng bước một.
Nhưng phần lớn người ta đều 
không có cảm tình với một người vô công rồi nghề giàu có, chỉ biết ăn 
chơi chứ chẳng chịu làm bất cứ chuyện gì. Nhưng ngay cả một người như 
thế cũng thực hiện chức năng trong đời sống của cơ thể xã hội. Anh ta 
tạo ra, thí dụ cách sống xa hoa, lối sống như thế sẽ làm cho quần chúng 
nhận thức được những nhu cầu mới và khuyến khích nền công nghiệp hoàn 
thành các nhu cầu đó. Có thời chỉ có người giàu mới đi ra nước ngoài. 
Schiller chưa bao giờ được nhìn thấy những dãy núi ở Thuỵ Sĩ mà ông từng
 ca ngợi trong tác phẩm Wilhelm Tell, mặc dù chúng nằm ngay trên biên 
giới quê hương Swab của ông. Goethe chưa bao giờ thấy Paris, Vienna cũng
 như London. Hôm nay hàng trăm ngàn người đang đi du lịch, chẳng mấy nữa
 sẽ có hàng triệu người cũng sẽ đi như thế.
6. Sở hữu tư nhân và đức hạnh
Trong khi tìm cách chỉ ra chức 
năng xã hội và sự cần thiết của sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và kèm 
theo nó là hiện tượng bất đình đẳng trong phân phối thu nhập và tài sản,
 chúng tôi đồng thời cũng đưa ra bằng chứng biện hộ về mặt đạo đức cho 
sở hữu tư nhân và chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là chế độ xã hội dựa trên
 nền tảng sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.
Đức hạnh là sự tôn trọng những 
đòi hỏi tất yếu cho sự tồn tại của xã hội mà bất kì thành viên nào của 
xã hội cũng cần phải thực hiện. Một người sống cách li với thế giới thì 
không cần tuân theo bất kì qui tắc đạo đức nào. Anh ta không cần phải 
đắn đo khi làm những việc mà anh ta cho rằng có lợi cho mình vì không 
cần phải suy nghĩ xem việc đó có làm hại người khác hay không. Nhưng, là
 một thành viên trong xã hội, khi làm bất kì việc gì người ta cũng phải 
xem xét không chỉ lợi ích trực tiếp của mình mà còn phải góp phần củng 
cố xã hội mà mình đang sống nữa. Cá nhân chỉ có thể sống được nhờ sự hợp
 tác xã hội, nếu tổ chức đời sống và sản xuất xã hội bị sụp đổ thì từng 
cá nhân sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng. Trong khi yêu cầu các cá nhân quan
 tâm đến lợi ích của xã hội trong mọi hành động của mình và không được 
làm những hành động có lợi cho anh ta nhưng lại gây thiệt hại nghiêm 
trọng đối với đời sống xã hội thì không có nghĩa là xã hội yêu cầu anh 
ta phải hi sinh quyền lợi của mình cho quyền lợi của người khác. Vì sự 
hi sinh mà xã hội đòi hỏi chỉ là tạm thời: hi sinh lợi ích trực tiếp và 
tương đối nhỏ để đổi lấy lợi ích lớn hơn nhiều. Sự tồn tại của xã hội, 
sự tồn tại hiệp hội những con người hợp tác với nhau và cùng nhau chia 
sẻ một lối sống chung, đáp ứng quyền lợi của tất cả mọi người. Người nào
 hi sinh lợi ích tức thời nhằm tránh cho xã hội khỏi tình trạng hiểm 
nghèo là người hi sinh lợi ích nhỏ vì lợi ích to lớn hơn nhiều.
Ý nghĩa của sự tôn trọng quyền 
lợi của xã hội như thế lại thường bị hiểu sai. Người ta tin rằng giá trị
 đạo đức nằm ở hành động hi sinh, ở việc từ bỏ sự thoả mãn ngay lập tức.
 Người ta không chịu công nhận rằng giá trị đạo đức không phải là sự hi 
sinh, mà là mục đích của sự hi sinh; người ta cố tình gán giá trị đạo 
đức cho bản thân hành động hi sinh, cho bản thân sự từ chối. Nhưng hành 
động hi sinh phải là để phục vụ cho mục đích đức hạnh thì mới được coi 
là đức hạnh. Có sự khác nhau một trời một vực giữ một người liều mình và
 hi sinh tài sản của mình vì những mục tiêu cao quí và một người hi sinh
 tất cả những thứ đó mà chẳng mang lại lợi ích gì cho xã hội.
Tất cả những hành động nhằm giữ 
gìn trật tự xã hội đều là đức hạnh, còn những gì có hại cho nó đều là 
phi đạo đức hết. Do đó, khi ta rút ra kết luận rằng một định chế nào đó 
là có lợi cho xã hội thì không thể nói rằng nó là phi đạo đức được. Có 
thể có những ý kiến khác nhau về việc một định chế cụ thể nào đó là có 
ích hay có hại đối với xã hội. Nhưng khi đã coi định chế đó là có lợi 
thì người ta không còn có thể nói rằng nó phải bị coi là phi đạo đức vì 
một lí do không thể giải thích nào đó được nữa.
7. Nhà nước và chính phủ
Tuân thủ luật đạo đức là lợi ích
 tối cao của mọi cá nhân vì duy trì sự hợp tác xã hội mang lại lợi ích 
cho tất cả mọi người; đồng thời nó cũng buộc mọi người phải hi sinh, mặc
 dù chỉ là những hi sinh tạm thời để đổi lấy những lợi ích lớn hơn. Phải
 có một số hiểu biết sâu sắc mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự vật 
thì mới nhận thức được chuyện đó, đồng thời phải có ý chí nhất định thì 
mới thực hiện được những hành động phù hợp với nhận thức như thế. Những 
người không có nhận thức hoặc nhận thức được nhưng không có ý chí thực 
hiện thì không có khả năng tuân thủ luật đạo đức một cách tự nguyện. 
Không khác gì việc tuân thủ các qui định về vệ sinh mà các cá nhân phải 
theo vì sức khoẻ của chính mình. Một người nào đó có thể sống phóng 
túng, thí dụ như hút chích ma tuý vì không biết hậu quả của nó hoặc cho 
rằng hậu quả không là gì so với việc từ bỏ thú vui nhất thời, hoặc là 
không có đủ ý chí để điều kiển hành vi cho phù hợp với nhận thức của 
mình. Có người cho rằng xã hội cần phải sử dụng những biện pháp cưỡng 
bức để buộc những cá nhân nói trên vào đường ngay lối thẳng và trừng 
phạt bất kì kẻ nào có những hành động bất cẩn có hại cho sức khoẻ và 
cuộc sống của hắn ta. Họ nói rằng phải dùng biện pháp mạnh nhằm ngăn 
chặn những kẻ nghiện rượu và nghiện ma túy khỏi những thói hư tật xấu 
của mình và buộc họ phải tự bảo vệ sức khoẻ.
Nhưng những biện pháp cưỡng bách
 có đáp ứng được mục tiêu đề ra hay không? Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề 
này sau. Bây giờ chúng ta sẽ quan tâm đến một vấn đề khác, mà cụ thể là 
có cần buộc những kẻ có hành vi gây nguy hại cho sự tồn tại của xã hội 
phải chấm dứt những hành động như thế hay không. Người nghiện rượu và 
nghiện ma tuý chỉ gây hại cho chính mình; còn người vi phạm những qui 
tắc đạo đức điều chỉnh đời sống của con người trong xã hội gây hại không
 chỉ cho mình mà còn cho tất cả mọi người. Cuộc sống trong xã hội sẽ trở
 thành bất khả thi nếu những người muốn cho trật tự xã hội tiếp tục tồn 
tại và có hành động phù hợp với ước muốn đó không được dùng sức mạnh và 
những biện pháp cưỡng bức nhằm chống lại những kẻ sẵn sàng phá hoại trật
 tự xã hội. Một ít kẻ phản xã hội, tức là những người không muốn hoặc 
không thể thực hiện những hành động hi sinh tạm thời mà xã hội đòi hỏi, 
có thể làm cho đời sống xã hội trở thành không chịu đựng nổi. Không sử 
dụng những biện pháp cưỡng chế và sức mạnh nhằm chống lại kẻ thù của xã 
hội thì không thể sống được.
Chúng ta gọi bộ máy ép buộc và 
cưỡng chế, tức là bộ máy buộc người dân tuân thủ những qui định của đời 
sống xã hội, là nhà nước; gọi những qui định mà nhà nước phải tuân thủ 
là luật pháp; gọi những tổ chức chịu trách nhiệm quản lí bộ máy cưỡng 
chế đó là chính phủ. 
Có những môn phái tin rằng người
 ta hoàn toàn có thể từ bỏ bất kì hình thức cưỡng bức nào và có thể xây 
dựng xã hội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện tuân thủ các chuẩn mực đạo 
đức. Những người vô chính phủ cho rằng nhà nước, luật pháp và chính phủ 
đều chỉ là những định chế vô tích sự trong hệ thống xã hội, đấy là nói 
hệ thống phục vụ cho quyền lợi của tất cả mọi người chứ không phải chỉ 
phục vụ cho quyền lợi của một ít kẻ đặc quyền đặc lợi. Chỉ có chế độ xã 
hội dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới cần sử dụng bạo 
lực và cưỡng bức để tự vệ mà thôi. Nếu sở hữu tư nhân bị bãi bỏ thì mọi 
người, không trừ một ai, đều sẽ tự động tuân thủ những qui định mà sự 
hợp tác xã hội đòi hỏi.
Như đã chỉ ra bên trên, học 
thuyết đó sai lầm ngay khi nó nói về tính chất của quyền sở hữu tư nhân 
các tư liệu sản xuất. Nhưng nếu không có chuyện đó thì lí thuyết này 
cũng hoàn toàn không thể đứng vững được. Người theo phái vô chính phủ 
hoàn toàn đúng khi không phủ nhận rằng mỗi hình thức hợp tác giữa người 
với người trong xã hội trên cơ sở phân công lao động đều đòi hỏi tuân 
thủ một số qui tắc ứng xử không phải lúc nào cũng được các cá nhân hoan 
nghênh vì những qui tắc đó buộc người ta phải hi sinh, dù chỉ là trong 
một thời gian ngắn, nhưng vẫn làm cho người ta đau khổ, ít nhất là ngay 
tại thời điểm đó. Nhưng người theo phái vô chính phủ đã lầm khi cho rằng
 mọi người, không có ngoại lệ, đều sẽ tự nguyện tuân thủ các qui tắc như
 thế. Có những người bị bệnh đường ruột, họ biết rõ rằng nếu ăn một món 
nào đó thì chỉ một thời gian ngắn sau đó họ sẽ bị đau bụng, thậm chí đau
 đến mức không chịu được, nhưng họ vẫn không thể không hưởng thụ cái món
 khoái khẩu đó. Những mối quan hệ qua lại trong đời sống xã hội khó theo
 dõi hơn là tác động của thức ăn lên cơ thể con người và hậu quả cũng 
không diễn ra nhanh như thế, mà trên hết là không phải lúc nào kẻ bất 
lương cũng cảm nhận được. Có thể bỏ qua tất cả những điều đã trình bày 
mà giả định rằng mỗi người trong xã hội vô chính phủ đều có khả năng 
nhìn xa trông rộng và ý chí mạnh mẽ hơn kẻ bị bệnh đường ruột tham ăn mà
 không sợ bị coi là ngớ ngẩn hay không? Trong xã hội vô chính phủ liệu 
có thể loại bỏ hoàn toàn khả năng là một người vô tình ném que diêm đang
 cháy và gây ra hoả hoạn hoặc trong khi tức giận, ghen tuông hay thù hận
 mà xúc phạm người khác được hay không? Chủ nghĩa vô chính phủ hiểu sai 
bản chất của con người. Nó chỉ có thể trở thành hiện thực trong thế giới
 của thánh thần mà thôi.
Chủ nghĩa tự do không phải là 
chủ nghĩa vô chính phủ và cũng chẳng có gì chung với chủ nghĩa vô chính 
phủ. Người theo trường phái tự do hiểu rõ rằng không có những biện pháp 
cưỡng bách thì sự tồn tại của chính xã hội sẽ bị đe doạ và muốn bảo đảm 
được sự hợp tác hoà bình giữa người với người thì đằng sau các qui tắc 
ứng xử cần phải tuân thủ còn cần phải có sự đe doạ bằng vũ lực, nếu 
không bất cứ thành viên nào cũng có thể là mối đe doạ đối với toàn bộ 
lâu đài xã hội. Cần phải có khả năng buộc những kẻ không tôn trọng cuộc 
sống, sức khoẻ, quyền tự do cá nhân hay tài sản cá nhân của người khác 
tuân thủ những qui tắc của đời sống trong xã hội. Đấy chính là chức năng
 mà học thuyết tự do gán cho nhà nước: bảo vệ tài sản, tự do và hoà 
bình.
Một người xã hội chủ nghĩa Đức 
tên là Ferdinand Lassalle đã cố tình biến quan niệm về nhà nước trong 
cái khung chật hẹp như thế thành trò nhảm nhí bằng cách gọi nhà nước 
được xây dựng trên những nguyên tắc tự do là “nhà nước - tuần đêm”. 
Nhưng thật không hiểu nổi vì sao nhà nước - tuần đêm lại kì quặc hoặc 
tồi tệ hơn là nhà nước quan tâm đến cả việc muối dưa cải, sản xuất nút 
quần hoặc xuất bản báo? Muốn hiểu được cái ấn tượng mà Lassalle tìm cách
 tạo ra bằng nhận xét dí dỏm như thế, ta phải biết rằng người Đức cùng 
thời với ông vẫn chưa quên được nhà nước của những ông vua độc tài, với 
rất nhiều chức năng quản lí và điều tiết khác nhau, và họ vẫn còn bị 
triết học của Hegel chi phối rất mạnh, ông này lại là người đưa nhà nước
 lên vị trí của thánh thần. Nếu coi nhà nước, theo quan niệm của Hegel, 
như là “một thực thể tự ý thức về mặt đạo đức”, là “Vũ trụ trong nó và 
cho chính nó”, là “lí tính của ý chí” thì dĩ nhiên là người ta phải coi 
mọi cố gắng nhằm giới hạn chức năng của nhà nước vào việc phục vụ như là
 người gác cổng ban đêm là báng bổ rồi.
Chỉ có như thế ta mới hiểu được 
làm sao mà người ta lại có thể đi xa đến mức chỉ trích chủ nghĩa tự do 
là có thái độ căm ghét hay thù địch đối với nhà nước. Nếu tôi nghĩ rằng 
trao cho nhà nước việc quản lí ngành đường sắt, khách sạn hay hầm mỏ là 
không thích hợp thì tôi cũng không phải là “kẻ thù của nhà nước”, cũng 
như không thể coi tôi là kẻ thù của axit sulphuric chỉ vì tôi nghĩ rằng 
dù nó có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau thì cũng không 
thể dùng nó để uống hay rửa tay được.
Sẽ là sai khi nói rằng chủ nghĩa
 tự do muốn hạn chế lĩnh vực hoạt động của nhà nước hoặc về nguyên tắc 
học thuyết này căm thù mọi hoạt động của nhà nước có liên quan đến lĩnh 
vực kinh tế. Cách giải thích như thế hoàn toàn không nói lên bản chất 
của vấn đề. Quan điểm của chủ nghĩa tự do về chức năng của nhà nước là 
kết quả tất yếu của những luận cứ nhằm bảo vệ quyền tư hữu của chủ nghĩa
 này. Khi người ta đã ủng hộ quyền sở hửu tư nhân tư liệu sản xuất thì 
dĩ nhiên là người ta không thể ủng hộ quyền sở hữu công cộng tư liệu sản
 xuất, tức là ủng hộ việc giao chúng vào tay nhà nước chứ không để nằm 
trong tay sở hữu chủ tư nhân. Như vậy là, ủng hộ quyền sở hữu tư nhân tư
 liệu sản xuất cũng có nghĩa là giới hạn một cách triệt để các chức năng
 của chính phủ rồi.
Những người xã hội chủ nghĩa đôi
 khi cũng có thói quen phê phán chủ nghĩa tự do là không nhất quán. Họ 
khẳng định rằng sẽ là phi lí nếu qui định vai trò của nhà nước trong 
lĩnh vực kinh tế chỉ là bảo vệ quyền sở hữu. Thật khó hiểu tại sao trong
 khi nhà nước không được hoàn toàn trung lập thì sự can thiệp của nó lại
 bị giới hạn trong việc bảo vệ quyền của các chủ sở hữu mà thôi?
Lời phê phán bên trên chỉ có thể
 được coi là hợp lí nếu sự chống đối của chủ nghĩa tự do đối với tất cả 
các hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, không kể việc bảo vệ 
quyền sở hữu, có xuất xứ từ việc căm thù về nguyên tắc mọi hành động của
 nhà nước. Nhưng vấn đề hoàn toàn không phải như thế. Chủ nghĩa tự do 
phản đối việc mở rộng lĩnh vực hoạt động của nhà nước chính vì trên thực
 tế nó sẽ tiêu diệt quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Mà những 
người theo trường phái tự do lại coi sở hữu tư nhân là nguyên tắc phù 
hợp nhất cho việc tổ chức đời sống của con người trong xã hội.
8. Chế độ dân chủ
Như vậy là, chủ nghĩa tự do hoàn
 toàn không có ý định phủ nhận sự cần thiết của bộ máy nhà nước, hệ 
thống pháp luật và chính phủ. Liên kết nó, dù dưới bất kì hình thức nào,
 với tư tưởng của chủ nghĩa vô chính phủ là sai lầm nghiêm trọng. Đối 
với người theo trường phái tự do, nhà nước là định chế tuyệt đối cần 
thiết vì người ta giao cho nó những nhiệm vụ cực kì quan trọng: bảo vệ 
không chỉ sở hữu tư nhân mà còn bảo vệ hoà bình vì nếu không có hoà bình
 thì không thể gặt hái được toàn bộ lợi ích mà sở hữu tư nhân mang đến 
cho người ta.
Chỉ cần những lí lẽ như thế cũng
 đủ để xác định những chức năng mà nhà nước phải thực hiện nhằm đáp ứng 
lí tưởng của chủ nghĩa tự do. Nhà nước phải không chỉ đủ sức bảo vệ sở 
hữu tư nhân mà còn phải được xây dựng như thế nào đó để tiến trình phát 
triển hoà bình và uyển chuyển của xã hội không bao giờ bị những cuộc nội
 chiến, cách mạng và bạo loạn làm cho gián đoạn.
Nhiều người vẫn còn bị ý tưởng, 
có từ thời tiền tự do, cho rằng làm quan là cao quí và đáng trọng. Cho 
đến mãi thời gian gần đây, và cả hiện nay, các quan chức ở Đức vẫn được 
người ta trọng vọng, thái độ trọng vọng như thể làm quan là địa vị cao 
quí hơn cả. Sự tôn trọng của xã hội đối một chức quan hạng bét hay anh 
trung uý quèn còn cao hơn gấp nhiều lần sự tôn trọng giành cho một doanh
 nhân hay một luật sư lão làng. Các nhà văn, các nhà bác học và các nghệ
 sĩ đã nổi tiếng và được vinh danh ở nước ngoài nhưng ở trong nước lại 
chỉ nhận được sự tôn trọng tương xứng với địa vị khiêm tốn mà họ giữ 
trong bộ máy quan liêu của nhà nước mà thôi. 
Đánh giá quá cao công việc trong
 các văn phòng của bộ máy quản lí như thế thật là một việc làm thiếu căn
 cứ. Đấy là một loại quái thai, dấu vết của những ngày xa xưa, khi mà 
người dân thường còn phải sợ hoàng thân và hiệp sĩ của ông ta vì lúc nào
 cũng có thể bị bọn họ cướp bóc. Trên thực tế, dùng thời giờ để ghi hồ 
sơ trong các công sở cũng chẳng có gì hay ho hơn, vinh dự hơn hay danh 
giá hơn, thí dụ như, làm trong phòng thiết kế của một nhà máy chế tạo 
nào đó. Nhân viên thuế vụ cũng có địa vị chẳng khác gì những người trực 
tiếp làm ra tài sản mà một phần của nó đã bị thu dưới dạng thuế khoá để 
trả cho chi phí của bộ máy của nhà nước.
Quan niệm về địa vị đặt biệt và 
phẩm giá của các quan chức nhà nước là cơ sở của lí thuyết giả-dân chủ 
về nhà nước. Lí thuyết này nói rằng để cho người khác cai trị là đáng 
xấu hổ. Lí tưởng của nó là một thể chế, trong đó mọi người dân đều quản 
lí, đều chỉ huy. Dĩ nhiên là chuyện này chưa bao giờ, hiện không thể và 
sẽ chẳng bao giờ xảy ra hết, ngay cả trong một quốc gia bé tí. Có thời 
người ta đã nghĩ là lí tưởng đó đã được thực hiện ở các thành bang Hi 
Lạp thời Cổ đại và trong các bang nhỏ ở vùng núi của Thuỵ Sĩ. Nhưng hoàn
 toàn không phải như thế. Ở Hi Lạp, chỉ có một phần dân cư, tức là các 
công dân tự do, là có đóng góp phần nào vào việc cai trị; dân ngụ cư và 
nô lệ không có đóng góp gì. Ở các bang của Thuỵ Sĩ những vấn đề hoàn 
toàn mang tính địa phương đã và vẫn được giải quyết theo lối dân chủ 
trực tiếp, đấy là nguyên tắc đã được đưa vào hiến pháp. Còn tất cả các 
vấn đề vượt ra ngoài biên giới khu vực đều thuộc quyền tài phán của Liên
 bang, mà chính phủ Liên bang của nước này thì khác xa với lí tưởng về 
dân chủ trực tiếp.
Chẳng có gì phải xấu hổ khi để 
cho người khác cai trị mình. Chính phủ và bộ máy quản lí, cảnh sát và 
các cơ quan khác cũng cần các nhà chuyên môn: các quan chức chuyên 
nghiệp và các chính khách chuyên nghiệp. Nguyên tắc phân công lao động 
cũng được áp dụng cho cả các chức năng của chính phủ. Không ai có thể 
vừa làm kĩ sư vừa làm cảnh sát cùng một lúc được. Nếu tôi không phải là 
công an thì phẩm giá của tôi, sự thịnh vượng của tôi, tự do của tôi cũng
 chẳng hề giảm đi chút nào. Nếu một ít người chịu trách nhiệm bảo vệ 
những người khác thì đấy cũng không hề phi dân chủ hơn là một số người 
sản xuất giày cho những người khác vậy. Nếu các định chế của nhà nước là
 dân chủ thì chẳng có tí lí do gì để phản đối các chính khách và các 
quan chức dân sự chuyên nghiệp hết. Nhưng chế độ dân chủ là thể chế hoàn
 toàn khác với quan niệm của những kẻ mơ mộng hão huyền chuyên tán nhảm 
về dân chủ trực tiếp.
Chính phủ là một nhóm người - số
 người cai trị bao giờ cũng ít hơn số người bị trị, chẳng khác gì số thợ
 giày so với số người mua giày vậy - phụ thuộc vào sự chấp thuận của 
những người mà họ quản lí, nghĩa là sự chấp nhận bộ máy quản lí hiện 
hữu. Họ có thể coi chính phủ là một cái ác không thể tránh được, nhưng 
họ phải nghĩ rằng không nên thay đổi tình trạng hiện thời. Nhưng nếu đa 
số những kẻ bị trị tin rằng cần phải và có thể thay đổi hình thức cai 
trị và thay chế độ cũ và các quan chức cũ bằng một chế độ mới và các 
quan chức mới thì ngày tàn của chế độ cũ đã điểm. Đa số sẽ có đủ lực 
lượng để thực hiện ước vọng của họ bằng vũ lực, ngay cả trong trường hợp
 phải chống lại ý chí của chế độ cũ. Về lâu dài, nếu dư luận không ủng 
hộ, nghĩa là nếu những người bị trị không tin rằng chính phủ của họ 
thuộc loại tốt, thì không chính phủ nào có thể đứng vững được. Sức mạnh 
mà chính phủ dùng để đàn áp tinh thần phản đối chỉ có hiệu quả khi đa số
 chưa tập hợp thành phe đối lập đoàn kết nhất trí mà thôi. 
Như vậy nghĩa là trong bất kì 
thể chế nào cũng có những phương tiện để buộc chính phủ phải phụ thuộc 
vào ý chí của những người bị trị: đấy là nội chiến, cách mạng và bạo 
loạn. Nhưng đấy chính là những phương tiện mà chủ nghĩa tự do muốn 
tránh. Sự cải thiện về mặt kinh tế không thể kéo dài nếu những cuộc đấu 
đá nội bộ liên tục làm cho công việc bị gián đoạn. Tình hình chính trị 
rối loạn, tương tự như tình hình thời những cuộc chiến tranh hoa hồng ở 
nước Anh, trong vòng vài năm sẽ đẩy nước này vào hoàn cảnh nghèo đói, 
khốn quẫn nhất. Nếu người ta không tìm được biện pháp ngăn ngừa nội 
chiến thì kinh tế không thể nào phát triển được như ngày nay. Cuộc chiến
 tranh huynh đệ tương tàn, tương tự như cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, 
phải trả giá bằng rất nhiều nhân mạng và của cải. Nền kinh tế hiện nay 
của chúng ta không thể chịu đựng nổi những cơn chấn động tương tự như 
thế. Dân chúng trong các thành phố thủ đô hiện đại sẽ phải chịu nhiều 
đau khổ vì những cuộc nổi dậy, bạo loạn sẽ làm gián đoạn việc nhập khẩu 
lương thực, thực phẩm, than đá và cắt đứt đường dây diện, đường dẫn khí 
đốt, dẫn nước, chỉ nội nỗi sợ trước những rối loạn như thế đã đủ làm tê 
liệt đời sống của đô thị rồi.
Đấy là lĩnh vực mà chế độ dân 
chủ có thể thi hành chức năng xã hội của mình. Chế độ dân chủ là thể chế
 có thể buộc chính phủ phải đáp ứng các ước nguyện của những người bị 
trị mà không cần tới những cuộc đấu tranh đầy bạo lực. Trong nhà nước 
dân chủ, nếu chính phủ không thực hiện chính sách được lòng đa số thì 
người ta có thể đưa những người làm vừa lòng đa số lên cầm quyền mà 
không cần gây ra nội chiến. Bằng những cuộc bầu cử và những giàn xếp 
trong quốc hội, việc thay đổi chính phủ được thực hiện một cách êm ả, 
không có va chạm, không có bạo lực và không còn cảnh đầu rơi máu chảy 
nữa.
9. Phê phán của thuyết vũ lực 
Các chiến sĩ đấu tranh cho nền 
dân chủ trong thế kỉ XVIII khẳng định rằng chỉ có các cố đạo và các 
thượng thư mới là những kẻ vô luân, ngu ngốc và độc ác mà thôi. Còn nhân
 dân đều là những người tốt, trong sạch, cao quí và ngoài ra, còn có tài
 năng trí tuệ thiên bẩm cần thiết để bao giờ cũng biết và làm những việc
 đúng đắn. Đây dĩ nhiên là chuyện hoàn toàn nhảm nhí, chẳng khác gì 
những viên cận thần vẫn gán cho các ông hoàng của họ đủ thứ đức tính tốt
 đẹp và cao thượng. Nhân dân là tập hợp của tất cả các công dân riêng 
lẻ, và nếu có một số công dân không thông minh, không cao quí thì toàn 
thể nhân dân cũng không thể là một tập hợp thông minh và cao quí được.
Vì toàn thể nhân loại đã bước 
chân vào thời đại dân chủ với những hi vọng bị thổi phồng lên như thế 
cho nên ta sẽ không ngạc nhiên trước tâm trạng thất vọng diễn ra ngay 
sau đó. Người ta đã phát hiện ngay ra rằng các chế độ dân chủ cũng phạm 
nhiều sai lầm chẳng khác gì chế độ quân chủ hay quí tộc. So sánh phẩm 
chất giữa những người mà nền dân chủ đưa lên vị trí đứng đầu chính phủ 
và những người mà vua chúa hay hoàng đế đưa lên vị trí này nhằm thực thi
 quyền lực tuyệt đối của họ cho thấy những người cầm quyền mới cũng 
chẳng hơn gì. Người Pháp thường nói về “sức mạnh huỷ diệt của cái khôi 
hài”. Thực tế là chẳng bao lâu sau, ở đâu các chính khách của chế độ dân
 chủ đại diện cũng đã biến nó trở thành trò cười trong mắt người dân. 
Những người đại diện cho chế độ cũ dù sao cũng còn có những phẩm chất 
quí phái nhất định, ít nhất là vẻ ngoài. Còn hành vi của những người cầm
 quyền mới thì lại đáng khinh. Không gì có thể làm hại nền dân chủ cho 
bằng thái độ kiêu ngạo rỗng tuếch và giả dối trắng trợn của những người 
lãnh đạo đảng dân chủ-xã hội, những kẻ đã nắm được quyền lực sau khi chế
 độ quân chủ sụp đổ.
Như vậy là, nơi nào mà chế độ 
dân chủ giành được thắng lợi thì tại nơi đó lập tức xuất hiện học thuyết
 bài dân chủ và đây sẽ là phong trào chống đối chủ chốt. Người ta nói 
rằng để cho đa số cầm quyền là việc làm vô nghĩa. Những người tài giỏi 
nhất phải nắm quyền, ngay cả khi họ chỉ là thiểu số. Điều này có vẻ như 
là đương nhiên cho nên số người ủng hộ các phong trào bài dân chủ đủ mọi
 màu sắc càng ngày càng gia tăng. Những người mà chế độ dân chủ đưa lên 
đỉnh tháp quyền lực càng tỏ ra đáng khinh bao nhiêu thì kẻ thù của dân 
chủ càng đông thêm bấy nhiêu. 
Tuy nhiên, học thuyết phản dân 
chủ lại có những sai lầm cực kì nghiêm trọng. “Một người tài giỏi nhất” 
hay “những người tài giỏi nhất” nghĩa là thế nào? Nước cộng hoà Ba Lan 
đưa một nghệ sĩ piano bậc thầy lên nắm chính phủ vì họ coi ông là người 
Ba Lan tài giỏi nhất lúc đó. Nhưng phẩm chất của người đứng đầu nhà nước
 phải khác rất xa với phẩm chất của một nhạc sĩ. Những người phản đối 
chế độ dân chủ, khi sử dụng từ “tài giỏi nhất” chỉ muốn nói rằng một 
người hay một số người phù hợp nhất đối với công việc của chính phủ, cho
 dù họ có ít, thậm chí chẳng có kiến thức gì về nhạc hết. Nhưng điều đó 
lại dẫn ta đến vấn đề chính trị: Ai là người phù hợp nhất? Disraeli hay 
Gladstone là người phù hợp nhất? Đảng bảo thủ cho là Disraeli hợp hơn, 
còn đảng tự do thì lại bảo là Gladston hợp hơn. Nếu không phải đa số thì
 ai sẽ giải quyết vấn đề này?. 
Như thế là chúng ta đã tiếp cận 
với vấn đề quyết định của tất cả các học thuyết phản dân chủ, dù các học
 thuyết này có do hậu duệ của những nhà quí tộc hay những người bảo 
hoàng xưa cũ, những người ủng hộ phong trào công đoàn, những người 
Bolshevik hay xã hội chủ nghĩa đưa ra thì cũng thế mà thôi, mà cụ thể là
 học thuyết về bạo lực. Những người chống lại nền dân chủ ủng hộ việc 
thiểu số cướp chính quyền bằng vũ lực và cai trị đa số. Họ cho rằng vũ 
lực đủ sức cướp được chính quyền chính là đạo lí [Súng đẻ ra chính quyền
 – ND]. Họ cho rằng người tài giỏi nhất là người biết cai trị và chỉ 
huy, người thể hiện được khả năng áp đặt sự cai trị của mình lên số 
đông, dù có thể trái với ước muốn của họ. Ở đây học thuyết của tổ chức 
l’action Française đã trùng hợp với học thuyết của những người ủng hộ 
phong trào công đoàn, học thuyết của Ludendorff và Hitler, học thuyết 
của Lenin và Trotzky.
Người ta có thể đưa ra nhiều 
luận điểm ủng hộ cũng như chống báng lại các học thuyết này, tất cả phụ 
thuộc vào niềm tin mang tính triết lí hoặc tôn giáo của người nói, mà 
nói đến đức tin thì đồng thuận là việc thiên nan vạn nan. Chúng ta sẽ 
không đưa ra và cũng không thảo luận những lí lẽ ấy ở đây vì chúng sẽ 
chẳng thuyết phục được ai. Lí lẽ quyết định duy nhất là luận cứ của 
những người ủng hộ chế độ dân chủ. 
Nếu mỗi nhóm người tin rằng họ 
có đủ sức áp đặt quyền lực cho những người còn lại đều được quyền thử 
vận may thì chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận những cuộc nội 
chiến kế tiếp nhau không bao giờ dứt. Nhưng tình hình như thế không phù 
hợp với trình độ phân công lao động mà ta đã đạt được hiện nay. Xã hội 
hiện đại, đặt nền tảng trên sự phân công lao động, chỉ có thể tồn tại 
được trong một nền hoà bình bền vững. Nếu chúng ta phải chuẩn bị để đón 
nhận khả năng xảy ra những cuộc nội chiến và xung đột nội bộ kéo dài thì
 chúng ta phải trở lại với giai đoạn phân công lao động giản đơn, trong 
đó từng tỉnh, nếu không nói là từng làng, phải trở về với chính sách tự 
cấp tự túc, nghĩa là có khả năng tự kiếm sống và đứng vững được trong 
một thời gian mà không cần nhập khẩu bất cứ thứ gì từ bên ngoài. Đồng 
nghĩa với sự thụt lùi ghê gớm về năng suất lao động và trái đất chỉ có 
thể nuôi sống được một phần dân cư hiện nay mà thôi. Lí tưởng của phe 
bài dân chủ sẽ dẫn tới trật tự kinh tế như thời Trung Cổ và thời Cổ Đại.
 Mỗi thành phố, mỗi làng mạc, trên thực tế là mỗi người đều được vũ 
trang và sẵn sàng tự vệ, mỗi tỉnh đều là những khu vực càng độc lập với 
thế giới trong việc tự cấp mọi thứ hàng hoá mà họ cần thì càng tốt.
Người theo phái dân chủ cũng cho
 rằng cầm quyền phải là người giỏi nhất. Nhưng họ tin rằng khả năng cầm 
quyền của một người hay một nhóm người nên được thể hiện bằng cách 
thuyết phục dân chúng rằng họ có đủ năng lực giữ vị trí đó, để đồng bào 
của họ tự nguyện trao quyền giải quyết công việc xã hội cho họ chứ không
 phải là sử dụng vũ lực buộc người khác chấp nhận đòi hỏi của họ. Người 
nào không giành được vị trí lãnh đạo vì đuối lí hoặc không tạo được niềm
 tin thì không có lí do phàn nàn về việc dân chúng đã chọn người khác 
chứ không chọn anh ta.
Dĩ nhiên là không được và không 
cần phủ nhận rằng có những hoàn cảnh mà sức cám dỗ lôi kéo người ta xa 
rời các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do là rất lớn. Nếu những người có 
đầu óc sáng suốt nhìn thấy rằng dân tộc của họ hay tất cả các dân tộc 
trên thế giới đang bước trên con đường dẫn tới tàn phá và nếu họ nhận ra
 rằng thuyết phục đồng bào chú ý đến lời khuyên của họ là việc lảm bất 
khả thi thì họ có thể ngả sang tư tưởng cho rằng sử dụng bất kì biện 
pháp khả thi nào khác nhằm cứu mọi người khỏi thảm hoạ đều là những việc
 làm đúng đắn và hợp lí cả. Lúc đó tư tưởng về nền chuyên chế của giới 
tinh hoa, của chính phủ thiểu số nắm quyền bằng vũ lực và cai trị nhằm 
bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người có thể xuất hiện và sẽ tìm được 
những người ủng hộ. Nhưng bạo lực không phải là phương tiện để giải 
quyết các khó khăn như thế. Chế độ chuyên chế của thiểu số không thể 
đứng vững được nếu nó không thuyết phục được đa số tin rằng đấy là việc 
làm cần thiết hoặc ít nhất là tin rằng việc nắm quyền của họ là có lợi. 
Nhưng lúc đó thiểu số sẽ có thể giữ chính quyền mà không cần vũ lực nữa.
Lịch sử cung cấp cho ta nhiều 
thí dụ ấn tượng chứng tỏ rằng, về lâu dài, ngay cả những chính sách đàn 
áp dã man nhất cũng không đủ sức làm cho chính phủ như thế giữ được 
quyền lực. Chỉ cần đưa ra một thí dụ gần đây nhất và được nhiều người 
biết nhất: những người Bolshevik cướp được chính quyền ở Nga chỉ là một 
nhóm thiểu số rất nhỏ và cương lĩnh của họ cũng chẳng được mấy người ủng
 hộ. Giai cấp nông dân, tức là thành phần chủ yếu của dân Nga, không 
chấp nhận chính sách hợp tác hoá nông nghiệp của những người Bolshevik. 
Dân chúng chỉ muốn chia ruộng cho “bần, cố nông”, đấy là theo cách gọi 
của những người Bolshevik. Chính sách nông nghiệp đó, chứ không phải 
chính sách của các lãnh tụ marxist, được đem ra áp dụng. Để có thể tiếp 
tục nắm quyền, Lenin và Trotzky không những đã chấp nhận chính sách cải 
cách nông nghiệp mà còn biến nó thành một phần của cương lĩnh của chính 
mình và dùng nó làm lá chắn nhằm chống lại những cuộc tấn công, cả ở 
trong nước lẫn từ nước ngoài. Những người Bolshevik đã giành được niềm 
tin của đa số nhân dân Nga bằng cách như thế đấy. Từ khi áp dụng chính 
sách phân chia ruộng đất, chính quyền Bolshevik nhận được đồng thuận và 
ủng hộ chứ không còn đi ngược lại ý chí của đa số dân chúng nữa. Họ chỉ 
còn hai sự lựa chọn: từ bỏ cương lĩnh hay từ bỏ chính quyền. Họ đã chọn 
cái thứ nhất và tiếp tục cầm quyền. Không thể có khả năng thứ ba, tức là
 thực hiện cương lĩnh bằng vũ lực, trái với nguyện vọng của nhân dân. 
Tương tự như tất cả những nhóm thiểu số có quyết tâm và được tổ chức tốt
 khác, những người Bolshevik có thể cướp được chính quyền bằng vũ lực và
 giữ được chính quyền trong một thời gian ngắn. Nhưng về lâu dài khả 
năng nắm quyền của họ cũng chẳng hơn gì bất kì nhóm thiểu số nào khác. 
Mọi cố gắng của Bạch Vệ nhằm trục xuất những người Bolshevik đều thất 
bại vì không được đa số dân chúng ủng hộ. Nhưng ngay cả nếu thành công 
thì họ cũng phải tôn trọng ước muốn của đa số dân chúng. Sau khi việc 
chia ruộng đã được thực hiện thì Bạch Vệ cũng không thể nào thay đổi 
được nữa, trả lại ruộng bị tịch thu cho địa chủ là việc làm bất khả thi.
Chỉ những nhóm tìm được sự đồng 
thuận của những người bị trị thì mới có thể thiết lập được chế độ có 
tuổi thọ lâu dài mà thôi. Kẻ, muốn thấy thế giới được cai trị theo những
 tư tưởng của hắn, sẽ buộc phải tìm cách chi phối tư tưởng của con 
người. Về dài hạn, bắt dân chúng tuân phục chế độ mà họ không chấp nhận 
là việc làm bất khả thi. Kẻ cố tình làm điều đó bằng vũ lực cuối cùng 
nhất định sẽ bị thất bại và những cuộc đấu tranh do hắn kích động sẽ gây
 ra nhiều tai hoạ hơn là một chính phủ tồi tệ nhất nhưng được nhân dân 
ủng hộ có thể làm. Làm trái ý người ta thì làm sao người ta hạnh phúc 
cho được?
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp


 
 
 07:20
07:20
 Hoàng Phong Nhã
Hoàng Phong Nhã 
 
 Posted in:
 Posted in:   
 
 
0 nhận xét:
Đăng nhận xét