Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014
Chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật
22:08
Hoàng Phong Nhã
No comments
22:00
Chủ nghĩa hậu hiện đại
(post modernisme) xuất hiện cuối những năm 70, đầu tiên là ở Mỹ. Những
đồ đệ của khuynh hướng này quan niệm rằng, nghệ thuật cần phải đến với
tầng lớp bình dân nhiều hơn, cần những chất liệu "tầm thường - thô
nhám", những biện pháp đa thanh, đa sắc, nhiều "sân chơi" và trò giải
trí để dễ đi vào lòng người.
Một nhận định chung cho bối cảnh triết
học phương Tây vào nửa đầu thế kỷ XX là sự ra đời của nhiều khuynh hướng
nghệ thuật, khả dĩ đáp ứng nhu cầu, tâm trạng, hoài vọng của công
chúng; đồng thời phản ánh thực trạng xã hội khủng hoảng sau hai cuộc đại
thế chiến tàn khốc. Những giá trị đạo đức, lòng tin vào tương lai, văn
hóa truyền thống, sự tồn tại của các nền văn minh. Nhiều nhà tư tưởng dự
báo cảnh "hoàng hôn của văn minh châu Âu", nhà triết học Mỹ gốc Nhật
Phucuiama nói đến "sự tận cùng của lịch sử" mang âm hưởng bi quan v.v...
Tất cả đều đặt ra nhiều câu hỏi với câu
nói bất hủ của Hămlét: "Tồn tại hay không tồn tại" thời hậu chiến? Và
nếu tồn tại thì như thế nào? Thế là một loạt "chủ nghĩa" (isme) trong
nghệ thuật mọc lên như nấm. Không phải tất cả đều phi lý, bởi phi lý là
cách nói khác của hữu lý. Không phải không bổ ích, vì chúng có "hạt nhân
hợp lý".
Từ đó cho đến 50 năm cuối của thế kỷ
trước, triết học, văn học, nghệ thuật đặt ra những vấn đề có tầm vĩ mô
nhân loại: Vừa ra khỏi chiến tranh, loài người đã đứng trước bối cảnh
"Chiến tranh lạnh", sự đối đầu giữa hai hệ thống ý thức tư tưởng, môi
trường sinh thái bị hủy hoại, môi trường nhân văn bị khủng hoảng, những
hệ giá trị mới của đời sống nhân loại đang ngổn ngang, chờ đợi sự quy
chuẩn.
Người ta chờ đợi sự cất cánh của văn
học, nghệ thuật. Xem ra là khó, bởi vì văn hóa đang bị coi nhẹ, tiếng
nói của hình thái ý thức này trở nên yếu ớt. Những nhà khoa học kiệt
xuất, những nhà văn hóa bậc thầy có "quyền uy" - có tiếng nói trọng
lượng đối với những vấn đề khẩn thiết của loài người, bảo vệ chính
nghĩa, ngăn ngừa những hành động phiêu lưu chính trị - ngày càng ít dần.
Ngay cả ở phương Tây, văn hóa thượng lưu chưa phải đã ở ngôi thứ danh
dự. Người ta nói đến "sự hao hụt trí tuệ", sự thiếu vắng những quyết
sách có tính chiến lược về văn hóa…
Có nhà văn hóa lớn nào, nhà khoa học lỗi
lạc nào (ngay cả những vị được giải thưởng Noben) có thể so sánh giá
trị thực tế với một võ sĩ quyền Anh, một ngôi sao bóng đá chuyển nhượng
từ câu lạc bộ này sang câu lạc bộ khác với giá 25 triệu USD đến 47 triệu
USD!? (1) Ở bên đó, nhà văn, nghệ sĩ muốn sống phải viết các loại tiểu
thuyết trinh thám, truyện vụ án, các loại pop - mass (đĩa hát, bài hát
bình dân), best - seller (cuốn sách, đĩa hát bán chạy nhất). Xã hội
không đánh giá đúng bản chất và vị thế của văn hóa thì văn hóa tìm cách
"trả thù", hoặc là sa vào chủ nghĩa thực dụng, vụ lợi, bất mãn xã hội
hoặc tìm nơi trú ẩn của tôn giáo.
Trước tình thế đó, các trào lưu triết
học nghệ thuật tìm cách đổi mới. Không phải ngẫu nhiên mà bất cứ thứ
triết học nào muốn tồn tại, muốn kéo dài "tuổi thọ" đều mang thêm từ néo
(néo - positivisme: chủ nghĩa thực chứng mới; néo - conservatisme: chủ
nghĩa bảo thủ mới; néo - realisme: chủ nghĩa hiện thực mới).
Ngay cả thần học, giáo lý đạo Cơ đốc
muốn có số giờ giảng dạy chiếm 1/3 chương trình cũng phải được cải cách.
Giữa các trường phải có xu hướng liên kết, bổ sung cho nhau: Hội thảo
chủ nghĩa và phân tâm học đã được tạp chí Lanouvelle critique tổ chức
vào năm 1970; chủ nghĩa hiện sinh có nhiều quan điểm đồng tình với chủ
nghĩa Mac, đặc biệt J.P.Sattre có nhiều hoạt động chính trị, văn hóa
mang tầm quốc tế, có thiện cảm với nhiều nước xã hội chủ nghĩa, mà tác
phẩm Unsoleil un Viet Nam Một mặt trời một Việt Nam) v.v… là những ví
dụ.
Trong thế kỷ trước, ngoài chủ nghĩa hiện
thực thế kỷ XX và các biến thái của nó còn là thời kỳ của chủ nghĩa
tiên phong gồm có: Đầu thế kỷ là chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa trừu tượng,
chủ nghĩa thực chứng; còn nửa sau thế kỷ là chủ nghĩa siêu thực, pop -
art, soc - art, hippining… đều có chung quan điểm: Sự đối lập giữa hoàn
cảnh với con người (2).
Nhiều quan niệm mới mẻ về vị thế của
triết - mỹ hiện đại. Nhà triết học không phải là người nắm chân lý, mà
chỉ là người bạn của chân lý đang đi trên con đường dẫn tới chân lý bằng
các phương tiện đối thoại, tiếp biến văn hóa, giao lưu, hội nhập. Tri
thức, thông tin, sản phẩm trí tuệ, giá trị đạo đức, kỹ thuật tư duy…
không chỉ của riêng ai. Tất cả, nói như Fean Paul Vernan đều được mang
ra quảng trường, chịu sự phê bình và tranh cãi của công luận (3). Chủ
nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật ra đời trong bối cảnh đó.
Đến những năm 80, khi mà số đông cho
rằng, thế giới xung quanh ta không phải lúc nào cũng bất biến, thì trong
nghệ thuật bắt đầu hình thành một giai đoạn "nổi loạn" mới của chủ
nghĩa tiên phong, tức là chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu phổ biến rộng và
có nhiều xu hướng.
Thật vậy, vào cuối những năm 80, đầu 90,
trên bản đồ thế giới bắt đầu thay đổi sắc màu, đường biên giới: Bức
tường Berlin sụp đổ, sự tan rã của Liên bang Xôviết, những cuộc chiến
tranh cục bộ ở Apganixtang, Karabắc, Tsecnhia, Casơmia, Liên bang Nam Tư
cũ v.v… Trong khi khối quân sự Vácsava ly khai, chia rẽ thì khối NATO
liên kết với nhau trên diễn đàn chính trị quốc tế.
Một trong những đặc điểm phổ quát của
chủ nghĩa hậu hiện đại là sự giải cấu trúc bao trùm mọi bình diện văn
hóa, là giai đoạn nghệ thuật mang tính biến thái về đối tượng, phương
thức, chất liệu nghệ thuật và xác định rằng, con người không chịu đựng
được sức ép của hoàn cảnh xã hội, thì phải trở thành post - man (hậu
nhân) (tạm dịch. HSV). Hệ biến thái của các xu hướng nghệ thuật giai
đoạn hậu hiện đại có đặc điểm giống nhau, nhưng cũng có rất nhiều điểm
khác biệt.
Chủ nghĩa hậu hiện đại bao gồm nhiều xu
hướng phi hiện thực, là kết quả phủ định của phủ định. Nghệ thuật hậu
hiện đại từ chối nghệ thuật hàn lâm nghệ thuật cổ điển, nhưng đến cuối
thế kỷ XX thì chính hậu hiện đại lại trở thành truyền thống. Một số nghệ
sĩ hậu hiện đại quay trở lại với nghệ thuật tiền hiện đại và sáng tác
theo phong cách mới. Ví dụ như sự phối khí, chỉnh điệu các nhạc phẩm cổ
điển, hoặc vay mượn những phương thức, kỹ thuật của các tác giả cổ điển.
Pop - art (nghệ thuật bình dân hay đại
chúng) là một xu hướng của hậu hiện đại chủ trương dân chủ hóa việc
thưởng thức, giải trí, tôn trọng nhu cầu tiếp nhận hàng loạt, nhu cầu
đám đông. Biện pháp sonority (tiếng Ý sonore tức là thanh âm). Trong âm
nhạc bình dân là trò chơi âm sắc, thanh điệu, thể hiện cái tôi của nhạc
sĩ, cách diễn xuất phóng đãng của ca sĩ. Biện pháp Aleatory (tiếng
Latinh = alea) là trò chơi trong thế giới đầy rẫy những tình huống ngẫu
nhiên, may rủi (4).
Pop - art được nhà phê bình Mỹ L.Alouaem
tung ra vào năm 1965. Nó có đặc điểm là sự đối lập giữa cái đại chúng
và cái thượng lưu, là sự phản ứng đối với các tác phẩm phi vật thể. Thẩm
mỹ hóa thế giới đồ vật bình thường, tìm kiếm những giá trị nghệ thuật ở
bất cứ vật thể nào: Chiếc lốp cũ ôtô, những mảnh giấy báo, những chiếc
máy điện thoại, những chiếc bếp gas, những mảnh quảng cáo dán bên ngoài
chiếc hộp, v.v…
Các nhà lý luật pop - art đinh ninh
rằng, mỗi một vật thể đánh mất ý nghĩa sơ khai, đưa lại cho vật thể
những phẩm chất mới bằng con đường tổ chức, sắp đặt để đám đông có thể
tiếp nhận, cảm thụ. Nghệ sĩ mong muốn tìm kiếm cái sặc sỡ, tính trực
quan, tính phổ cập trong sáng tạo bằng việc sử dụng thi pháp dùng nhãn
hiệu, thương hiệu, quảng cáo. Họ cũng có lý lẽ theo lôgic thẩm mỹ của
mình: Thời cổ đại, những bình, lọ là để hạt giống, những chum, vại là
đựng rượu vang; nhưng với hậu hiện đại, các vật thể trên được trưng bày
trong các tủ lồng kính tại một số bảo tàng lớn. Chúng lập tức gây những
hiệu quả nghệ thuật bất ngờ.
Tại Bảo tàng Nghệ thuật Des Moines (một
thành phố giáp với Canada) được xây dựng với quy mô hoành tráng tốn gần
10 tỷ USD; bên cạnh nhiều tác phẩm nổi tiếng của một số danh họa như
Leonardo da Vinci, Van Gogh, Léger, Goia, Gauguin, Picasso là một "tác
phẩm" giá khoảng 800.000 USD với bố cục ba chiếc máy hút bụi được xếp
hình tam giác lệnh nhau về độ cao, được đựng trong một tủ kính trong
suốt đặt ở giữa căn phòng rộng… (Xem Hữu Ước - Ký sự chọn lọc, NXB Hội
Nhà văn, 2002, tr.161-163).
Ở nước ta, vào đầu năm Đinh Sửu, 1997,
tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, với tinh thần "trăm hoa đua nở", các cơ
quan quản lý cho phép nhóm nghệ sĩ tạo hình trưng bày cuộc triển lãm thể
nghiệm hậu hiện đại gồm những "phòng tranh" treo lủng lẳng xô màn bôi
quệt phẩm màu xanh đỏ, gậy gộc, mảnh sành, chum lọ, xoong, nồi chảo
thủng… Kết quả chỉ gây nên sự phản cảm, sự tò mò, tâm lý chuộng lạ của
người xem, chứ chẳng đem lại hiệu quả cảm thụ gì.
Đến cuối những năm 60 trở đi, pop - art
tràn sang châu Âu với những tên như nhóm "Tượng hình mới" (Nouvelle
Figaration), "hiện thực mới" v.v… Có thể nhận dạng hai thể loại cơ bản
của pop - art: Sử dụng những chất liệu như những sản phẩm công nghiệp có
sẵn: Biển chỉ đường, bánh xe, bao bì, vỏ đồ hộp v.v…; thể hiện những
mẫu hình hàng loạt, cụ thể, giống nhau, lặp đi lặp lại kiểu áp phích,
tranh hoạt hình, bài hát, điệu nhảy v.v…
Giới phê bình Mỹ tôn vinh A.Warhol là
"người cha của pop - art". Đường công danh của ông bắt đầu từ năm 1962
khi mà chủ thầu I.Blum tổ chức cuộc triển lãm tác phẩm ông tại Los -
Andgeles. Ngoài ra còn có các họa sĩ R.Rauschen - berg, R.Lichtenstein,
F.Dine, C.Oldenburg… Ở Anh là Hamilton, P.Blake, B.Kitay, ở một nước
khác là K.Klapheck, G.Erró, H.Telemaque, M.Raysse…
Công bằng mà nói, văn hóa nước Mỹ với bề
dày chỉ 200-300 năm chưa phải là lãnh địa của các loại "mốt", "isme" mà
chính là văn hóa Pháp đã từng thống trị nghệ thuật thế giới: Còn nước
Nga? Theo Iu.Bôrép, trước rất lâu các họa sĩ Mỹ tuyên bố xu hướng pop -
art thì ở Nga vào những năm 1919, Đavi Burliuc với nhóm nghệ thuật vị
lai đã đi khắp nhiều tỉnh nước Nga trong thời kỳ nội chiến để tổ chức
những cuộc triển lãm lưu động theo xu hướng pop - art. Bấy giờ, tại một
thành phố người ta quảng cáo cuộc triển lãm của những nhà vị lai. Nhưng
do giao thông bị trục trặc, các bức tranh của V.Shcơlôpxki không chở đến
được theo đề nghị của ông, tại triển lãm nhiều hiện vật có liên quan
tới pop - art đã được trưng bày, trong số đó có đôi bít tất của
Shcơlôpxki đặt trong khung kính được coi là tác phẩm xuất sắc (5).
Việc đánh giá nghệ thuật pop - art ở
phương Tây cũng có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Một số nhà phê bình cho
đó là sự chống đối nghệ thuật, xuyên tạc nghệ thuật, là sự xúc phạm tất
cả những gì đồng nghĩa với cái hài hòa. Số khác thì coi pop - art là
tấm gương của đời sống xã hội Mỹ, là sự phản ánh những ước mơ của người
tiêu dùng. Số thứ ba coi là phương thức thể hiện bản chất trừu tượng của
những vật thể thông dụng. Số sau cùng thì cho pop - art là sự tuyên
truyền quảng cáo hàng hóa, phản ánh thái độ sùng bái vật chất (kể cả khi
nó đã thành phế phẩm).
Mỹ học của pop - art là mỹ học vụ lợi,
khẳng định sự sùng bái vật chất, coi thường những giá trị phi vật thể.
Xu hướng pop - art chủ yếu được phát triển trong nghệ thuật tạo hình (có
thể một số yếu tố trong kiến thức, âm nhạc, thể loại giải trí) hướng về
người tiêu dùng đám đông. Họ cần thay đổi thị hiếu thẩm mỹ bằng những
tĩnh vật được làm "đẹp" bằng các bố cục vật thể, hàng hóa. Ngôn ngữ tạo
hình được thay thế bằng chất liệu công nghiệp. Cái đẹp được thay thế
bằng cái lợi ích, nhu cầu tinh thần được thay thế bằng tâm lý ham muốn
vật chất, sự đòi hỏi tiêu dùng hàng hóa.
Tất cả những điều trình bày nói trên,
cho phép chúng tôi nghĩ rằng, pop - art rất ít liên quan đến văn học,
văn chương. Một số ý kiến (6) cho "pop" đột nhập vào văn học cao sang,
viện dẫn truyện Lụa của A.Baricco - một nhà văn Italia "có khí vị hậu
hiện đại", rồi cả văn Nguyễn Huy Thiệp cũng "rất pop", thơ Trần Dần đã
"có hơi hướng hậu hiện đại" v.v… theo chúng tôi, sợ e không có cơ sở, ít
sức thuyết phục, dễ bị nghi là suy diễn.
--------
(1) Iu.Bôrép: Xem thêm Mỹ học, NXB "Astreli", Matxcơva, 2005, tr.748.
(2) Như trên, tr.620
(3) V.M.Megiuep: Ý niệm văn hóa, NXB Tiến bộ - Truyền thống, Viện Triết học (Viện Hàn lâm khoa học Nga), Matxcơva, 2006, tr.375.
(4) Iu.Borép: tr.618.
(5) Như trên: tr.608.
(6) Xem Hoàng Ngọc Hiến: Tiếp nhận những
cách tân của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, tạp chí Nhà
văn số 3/2009, tr.28, 29
Theo CÔNG AN NHÂN DÂN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét