Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Ludwig von Mises (1881-1973) - CHỦ NGHĨA TỰ DO TRUYỀN THỐNG 4
07:23
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 2
Chính sách kinh tế tự do
7. Các tập đoàn kinh tế, tập đoàn độc quyền, và chủ nghĩa tự do
Những người phản đối chủ nghĩa
tự do khẳng định rằng trong thế giới ngày nay không còn những điều kiện
tiên quyết nhằm thực thi cương lĩnh của chủ nghĩa tự do nữa. Chủ nghĩa
tự do đã từng khả thi, đấy là khi mà trong mỗi lĩnh vực sản xuất đều có
rất nhiều công ty trung bình, cạnh tranh quyết liệt với nhau. Còn hiện
nay, vì các tập đoàn kinh tế lớn và các công ty độc quyền đã kiểm soát
toàn bộ thị trường cho nên chủ nghĩa tự do không còn đất dụng võ nữa.
Không phải các chính trị gia mà chính là xu hướng phát triển không gì có
thể ngăn chặn được của hệ thống tự do kinh doanh đã giết nó.
Quá trình phân công lao động đã
tạo cho mỗi đơn vị sản xuất một chức năng riêng biệt. Sản xuất còn phát
triển thì quá trình này sẽ không bao giờ ngưng. Chúng ta đã bỏ qua giai
đoạn khi một nhà máy sản xuất tất cả máy móc từ lâu rồi. Hiện nay nhà
máy chế tạo máy mà không chuyên sản xuất một số loại máy móc nhất định
thì không thể nào cạnh tranh nổi. Cùng với việc chuyên môn hoá, lĩnh vực
phục vụ của một người cung cấp riêng biệt sẽ phải tiếp tục mở rộng mãi
lên. Thị trường do một nhà máy dệt chuyên sản xuất một vài loại vải phải
rộng hơn là thị trường được cung ứng bởi một người thợ dệt làm ra tất
cả các loại vải. Không nghi ngờ gì rằng quá trình chuyên môn hoá sản
xuất sẽ diễn ra trong tất cả các loại hình xí nghiệp có thị trường trên
toàn thế giới. Nếu quá trình phát triển này không bị chủ nghĩa bảo hộ và
những biện pháp bài tư bản khác cản trở thì kết quả sẽ là trong mỗi
lĩnh vực sản xuất sẽ chỉ còn một ít công ty, thậm chí một công ty chuyên
sản xuất với mức độ chuyên nghiệp hoá cực kì cao và cung cấp cho toàn
thế giới.
Hiện nay, dĩ nhiên là đấy còn là
điều xa lạ với chúng ta vì tất cả các chính phủ đều thi hành chính sách
nhằm cắt nền kinh tế thế giới thành những mảnh nhỏ, trong đó, bằng
những loại thuế xuất nhập khẩu và những biện pháp bảo trợ khác, người ta
cố tình giữ lại hoặc thành lập mới những công ty không thể cạnh tranh
nổi trên thị trường tự do. Người ta cho rằng những chính sách nhằm chống
lại việc tập trung hoá năng lực sản xuất như thế là nhằm bảo vệ người
tiêu dùng khỏi sự bóc lột của những tổ hợp độc quyền.
Để xem xét giá trị của luận điểm
này ta sẽ giả sử rằng việc phân công lao động trên thế giới đã tiến xa
đến mức việc sản xuất mỗi một mặt hàng đều tập trung trong tay một hãng
duy nhất và người tiêu dùng, với tư cách là người mua bao giờ cũng phải
đối mặt với một người bán hàng duy nhất. Trong những điều kiện như thế,
nếu theo lí thuyết kinh tế thiếu cân nhắc thì người sản xuất sẽ có thể
treo giá thật cao để được lợi nhuận khổng lồ và như vậy là làm giảm đáng
kể mức sống của người tiêu dùng. Dễ dàng nhận thấy rằng đây là ý tưởng
hoàn toàn sai lầm. Giá cả độc quyền, nếu đấy không phải là do những hành
động can thiệp của chính phủ, chỉ có thể giữ được nếu kiểm soát được
các loại khoáng sản và những nguồn lực cần thiết khác. Lợi tức của một
công ty sản xuất độc quyền riêng biệt mà lớn hơn lợi tức của các công ty
khác thì chắc chắn sẽ thúc đẩy sự hình thành các công ty cạnh tranh, và
cạnh tranh là nhằm loại bỏ thế độc quyền và đưa giá và lợi tức về tiêu
chuẩn chung.
Tuy nhiên các công ty độc quyền
trong các lĩnh vực sản xuất không thể trở thành hiện tượng đại trà được
vì ở mỗi trình độ phát triển của nền kinh tế số vốn được đầu tư và số
lao động tham gia vào sản xuất – và kết quả là số sản phẩm xã hội – là
đại lượng cho trước. Có thể giảm vốn đầu tư và lao động tham gia sản
xuất trong một hay một số lĩnh vực sản xuất nhằm làm gia tăng giá bán
trên một đơn vị sản phẩm và lợi nhuận gộp của một nhà độc quyền hay một
số nhà độc quyền bằng cách cắt bớt sản lượng. Vốn và lao động được giải
phóng sẽ chảy vào các lĩnh vực sản xuất khác. Nhưng nếu tất cả các ngành
đều tìm cách cắt giảm sản xuất để bán được giá cao hơn thì số vốn và
lao động được giải phóng sẽ được cung ứng với giá thấp hơn và sẽ tạo ra
động lực cho việc hình thành những xí nghiệp sản xuất mới, những xí
nghiệp này sẽ đập tan vị thế độc quyền của các xí nghiệp khác. Đấy là lí
do vì sao ý tưởng về những tập đoàn hay công ty độc quyền bao trùm lên
tất cả là ý tưởng không thể nào đứng vững được.
Các công ty độc quyền thật sự
chỉ có thể được hình thành bằng cách kiểm soát đất đai và tài nguyên.
Quan điểm cho rằng tất cả đất canh tác trên hành tinh này đều có thể tập
trung vào tay một công ty độc quyền duy nhất chẳng đáng được đem ra bàn
thảo. Chúng ta sẽ chỉ xem xét những công ty độc quyền hình thành do
kiểm soát được những cơ sở khai khoáng. Trên thực tế đã có những công ty
độc quyền kiểu đó, đấy là những công ty khai thác một số khoáng sản
không quan trọng lắm và những cố gắng nhằm giành độc quyền khai thác các
loại khoáng sản khác cũng có thể sẽ đem lại thành công trong tương lai.
Điều đó có nghĩa là chủ nhân của những khu mỏ và những khu vực khai
thác đó sẽ nhận được giá thuê đất cao hơn, còn người tiêu dùng thì giảm
tiêu thụ và sẽ tìm những vật liệu thay thế cho những loại vật liệu đã
trở nên đắt đỏ. Công ty độc quyền toàn cầu trong lĩnh vực dầu mỏ sẽ dẫn
đến gia tăng nhu cầu đối với thuỷ điện và than đá ..v.v.. Từ quan điểm
của nền kinh tế thế giới cũng như sub specie aeternitatis [từ quan điểm
của vĩnh cửu -tiếng Latinh – ND], điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ sử
dụng những loại nguyên liệu đắt tiền một cách tiết kiệm hơn và như thế
là sẽ để lại cho các thế hệ tương lai nhiều hơn là trong nền kinh tế
thiếu vắng độc quyền.
Con ngáo ộp độc quyền, thường
xuất hiện trong tâm trí mỗi khi người ta nói tới sự phát triển kinh tế
một cách tự do, không phải là điều đáng lo. Các công ty độc quyền toàn
cầu chỉ có thể thực sự khả thi đối với một vài sản phẩm thuộc ngành khai
khoáng. Chưa thể nói được là hậu quả sẽ tốt hay xấu. Đối với những
người trong khi xem xét những vấn đề kinh tế nhưng vẫn chưa giải thoát
khỏi cảm giác đố kị thì những công ty độc quyền này được coi là có hại
vì mang lại cho chủ nhân của chúng lợi nhuận quá cao. Còn những người
tiếp cận với vấn đề mà không có thái độ chấp trước thì sẽ thấy rằng các
công ty này buộc người ta phải sử dụng một cách tiết kiệm những nguồn
nguyên liệu hạn chế mà con người đang nắm trong tay. Nếu thực sự có thái
độ đố kị đối với lợi tức của nhà tư bản độc quyền thì người ta có thể
đánh thuế thu nhập từ những mỏ đó và đưa vào ngân quĩ quốc gia, đấy là
cách làm an toàn và không sợ có những hậu quả tiêu cực đối với nền kinh
tế.
Khác với các công ty độc quyền
toàn cầu vừa nói, đã có các công ty độc quyền trên bình diện quốc gia và
quốc tế. Hiện nay đấy là những công ty đáng quan tâm vì chúng không
xuất phát từ xu hướng phát triển tự nhiên của hệ thống kinh tế, khi hệ
thống này được hoạt động một cách tự chủ, mà là sản phẩm của những chính
sách kinh tế bài tự do. Những cố gắng nhằm bảo đảm địa vị độc quyền đối
với một số mặt hàng trong tất cả các trường hợp chỉ có thể trở thành
khả thi vì mức thuế xuất nhập khẩu cao, có tác dụng chia cắt thị trường
thế giới thành những thị trường quốc gia nhỏ bé. Ngoài những công ty
này, chỉ còn những tập đoàn do các ông chủ nắm được một số nguồn lực tự
nhiên mà chi phí vận tải cao giúp ngăn chặn được sự cạnh tranh của các
công ty từ những khu vực khác là đáng quan tâm mả thôi.
Bàn về hậu quả của các tập đoàn,
các tổng công ty hay xí nghiệp chuyên cung cấp cho thị trường một loại
hàng hoá nào đó mà nói rằng công ty độc quyền “kiểm soát” thị trường hay
“áp đặt” giá cả là sai lầm căn bản. Công ty độc quyền không kiểm soát,
nó cũng chẳng có khả năng áp đặt giá cả. Ta chỉ có thể nói đến kiểm soát
thị trường hay áp đặt giá cả cho một mặt hàng nếu đấy là loại hàng hoá
cực kì cần thiết, theo đúng nghĩa đen của từ này, đối với người tiêu
dùng và hoàn toàn không thể thay thế được bằng bất cứ món hàng nào khác.
Điều này rõ ràng là không đúng đối với bất cứ loại hàng hoá nào. Chẳng
có loại hàng hoá nào lại có thể có ý nghĩa sống còn đối với những người
sẵn sàng mua nó trên thị trường.
Việc hình thành giá cả độc quyền
khác với việc hình thành giá cạnh tranh là ở chỗ: trong những điều kiện
rất đặc biệt, công ty độc quyền có thể thu được lợi nhuận lớn hơn nhờ
bán một số lượng hàng hoá ít hơn với giá cao hơn (chúng ta gọi đấy là
giá cả độc quyền) là bán với giá mà thị trường sẽ quyết định, nếu có
nhiều người bán hơn tham gia cạnh tranh (ta gọi đấy là giá cạnh tranh).
Giá độc quyền chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện đặc biệt: giá
tăng nhưng cầu không giảm mạnh đến mức có thể ngăn chặn được lợi nhuận
ròng quá cao từ việc bán ít hàng hơn với giá cao hơn. Nếu quả thật người
ta có thể giành được vị trí độc quyền trên thương trường và sử dụng nó
để tạo ra giá cả độc quyền thì lợi tức trong lĩnh vực này sẽ cao hơn lợi
tức trung bình.
Có thể xảy ra hiện tượng là mặc
dù lợi tức cao như thế nhưng vẫn không xuất hiện các xí nghiệp mới cùng
loại bởi vì người ta sợ rằng sau khi giá giảm từ độc quyền xuống cạnh
tranh thì các xí nghiệp này sẽ không đem lại lợi nhuận tương xứng. Tuy
nhiên người ta phải tính đến khả năng là những ngành có liên quan có thể
nhảy vào sản xuất món hàng do một công ty nào đó nắm độc quyền với giá
tương đối thấp và trở thành những hãng cạnh tranh. Và, dù thế nào đi nữa
thì những ngành sản xuất các món hàng thay thế cũng sẽ lợi dụng những
hoàn cảnh thuận lợi như thế nhằm mở rộng sản xuất của chính mình. Tất cả
những tác nhân như thế làm cho một công ty không nắm được độc quyền
kiểm soát những loại nguyên liệu thô đặc thù trở thành công ty độc quyền
trong một lĩnh vực sản xuất là chuyện khó có thể xảy ra. Những công ty
như thế chỉ có thể xuất hiện nhờ những biện pháp hành chính như bằng
sáng chế, thuế xuất nhập khẩu, ưu đãi về thuế khoá, môn bài và những ưu
tiên ưu đãi khác, hoặc những ưu tiên ưu đãi tương tự khác. Mấy chục năm
trước người ta thường nói tới độc quyền trong lĩnh vực giao thông vận
tải. Hệ thống môn bài có tác dụng tới mức độ nào đối với sự độc quyền
trong lĩnh vực này vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Hiện nay
nói chung người ta đã không còn lo lắng nhiều về vấn đề này nữa. Ô tô
và máy bay đã trở thành những phương tiện cạnh tranh đầy thách thức đối
với ngành đường sắt. Nhưng ngay cả trước khi các phương tiện đó xuất
hiện thì việc sử dụng đường thuỷ cũng đã đặt ra mức trần đối với giá vé
mà đường sắt có thể thu trên một số tuyến đường rồi.
Quan điểm của nhiều người hiện
nay cho rằng các công ty độc quyền sẽ giết chết những điều kiện tiên
quyết cho việc thực thi lí tưởng tư do của chủ nghĩa tư bản chẳng những
là một sự thổi phồng quá đáng mà còn là sự thiếu hiểu biết thực tế nữa.
Dù có xuyên tạc và vặn vẹo vấn đề độc quyền như thế nào thì chúng ta vẫn
luôn luôn đi đến kết luận rằng giá cả độc quyền chỉ có thể xảy ra nếu
người ta kiểm soát được những nguồn lực tự nhiên đặc chủng nào đó hoặc
những qui định của pháp luật và bộ máy hành chính tạo ra những điều kiện
cần thiết cho sự hình thành các doanh nghiệp độc quyền. Nếu kinh tế
được phát triển một cách tự do thì, ngoại trừ ngành khai khoáng và một
vài lĩnh vực có liên quan, xu hướng cản trở cạnh tranh sẽ không có đất
sống. Ý kiến thường được người ta đưa ra nhằm chống lại chủ nghĩa tự do
là những điều kiện cạnh tranh từng tồn tại trong thời kì khi mà nền kinh
tế học cổ điển và ý tưởng tự do vừa mới xuất hiện đã không còn giữ thế
thượng phong nữa là ý kiến hoàn toàn không đúng. Muốn tái lập những điều
kiện đó thì chỉ cần thực hiện một vài yêu cầu của chủ nghĩa tự do, mà
cụ thể là: tự do thương mại trong từng nước và giữa các nước với nhau.
8. Quan liêu hoá
Người ta cũng thường nói rằng
điều kiện cần cho việc thực thi lí tưởng tự do của xã hội đã không còn
trong một khía cạnh nữa. Trong những doanh nghiệp lớn, càng ngày càng có
nhiều lao động hơn; đấy là hiện tượng tất yếu do sự tiến bộ của quá
trình phân công lao động tạo ra. Nghĩa là trong quá trình làm việc các
doanh nghiệp này sẽ càng ngày càng giống như bộ máy quan liêu của chính
phủ, một bộ máy mà những người theo trường phái tự do coi là đối tượng
phê phán của mình. Càng ngày bộ máy càng trở thành cồng kềnh hơn và ít
cởi mở hơn đối với sáng kiến. Việc lựa chọn người lên các vị trí lãnh
đạo sẽ không còn được thực hiện trên cơ sở khả năng chuyên môn, được thể
hiện trong công việc, mà sẽ tuân theo những tiêu chí hoàn toàn mang
tính hình thức như trình độ học vấn hoặc thâm niên công tác và nhiều khi
chỉ là kết quả của sự thiên vị. Như vậy nghĩa là, cuối cùng thì đặc
điểm nổi bật, phân biệt giữa xí nghiệp tư nhân với xí nghiệp nhà nước đã
biến mất. Nếu trong thời đại của chủ nghĩa tự do cổ điển việc phản đối
sở hữu nhà nước dựa trên cơ sở là nó làm tê liệt tất cả các sáng kiến và
giết chết niềm vui trong lao động còn có lí thì hiện nay, khi doanh
nghiệp tư nhân cũng quan liêu không kém, mô phạm không kém và hình thức
không kém doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, điều đó đã không còn đúng
nữa.
Muốn biết giá trị của những ý
kiến phản bác như thế, trước hết ta phải làm rõ bộ máy quan liêu và giải
quyết công việc theo lối quan liêu thực chất là gì và chúng khác với
công ty kinh doanh và công việc kinh doanh của doanh nghiệp ở chỗ nào.
Sự đối lập giữa tâm lí kinh doanh và tâm lí quan liêu cũng chính là mâu
thuẫn trong lĩnh vực trí tuệ giữa chủ nghĩa tư bản - sở hữu tư nhân tư
liệu sản xuất – và chủ nghĩa xã hội - sở hữu công cộng tư liệu sản xuất.
Người nào nắm trong tay nhân tố sản xuất, dù đấy là của anh ta hay do
anh thuê của người khác, cũng phải luôn luôn tìm cách sử dụng chúng sao
cho có thể đáp ứng được những nhu cầu, mà trong hoàn cảnh đã cho, được
coi là khẩn thiết nhất của xã hội. Nếu không làm như thế, anh ta sẽ bị
lỗ và trước tiên là, như một người chủ và một doanh nhân, anh ta phải
giảm bớt hoạt động và cuối cùng là bị đẩy ra khỏi thương trường. Anh ta
sẽ không còn là chủ, cũng chẳng còn là doanh nhân nữa, anh ta sẽ trở về
hàng ngũ của những người chỉ còn một thứ để bán, đấy là sức lao động.
Anh ta cũng không còn trách nhiệm lèo lái sản xuất vào những hướng mà
theo quan điểm của người tiêu dùng là đúng đắn nữa.
Tính toàn lời lỗ, tức là công
việc kế toán và sổ sách - giúp cho doanh nhân và nhà tư sản kiểm tra mỗi
bước đi với những chi tiết nhỏ nhặt nhất, bằng độ chính xác cao nhất,
và nhìn thấy hiệu ứng của mỗi thương vụ đối với kết quả tổng hợp của
doanh nghiệp. Tính toán tiền nong và hạch toán giá thành là công cụ trí
thức quan trọng nhất của doanh nhân tư sản và chính Goethe chứ không
phải ai khác đã tuyên bố rằng hệ thống kế toán kép là “một trong những
phát minh tuyệt vời nhất của trí tuệ của con người”. Goethe có thể nói
như thế vì ông không có thái độ ghen tị đối với doanh nhân như những
người cầm bút nhỏ nhen khác. Nhưng chính những người này lại tạo thành
dàn đồng ca suốt ngày gào lên rằng thường xuyên tính toán và lo lắng về
lời lỗ là tội lỗi nhục nhã nhất.
Tính toán tiền nong, kế toán và
thống kê số hàng sản xuất và bán được cho phép ngay cả các doanh nghiệp
lớn nhất và phức tạp nhất kiểm soát một cách chính xác kết quả công việc
của từng bộ phận và bằng cách đó hình thành nhận định về mức độ đóng
góp của người đứng đầu mỗi bộ phận đối với thành tích chung của doanh
nghiệp. Đấy là kim chỉ nam đáng tin cậy trong việc xác định thái độ đối
với người lãnh đạo những bộ phận khác nhau. Ta có thể biết giá trị của
họ và mức lương phải trả cho họ. Việc thăng tiến lên những vị trí cao
hơn và có trách nhiệm hơn là do kết quả đã được thể hiện trên những vị
trí thấp hơn. Khi có thể dùng hạch toán giá thành để kiểm tra được hoạt
động của người lãnh đạo từng bộ phận thì ta có thể theo dõi một cách kĩ
lưỡng hoạt động của doanh nghiệp trên từng lĩnh vực cũng như hiệu quả
của những biện pháp tổ chức cụ thể và những biện pháp khác.
Dĩ nhiên là mức độ chính xác của
việc kiểm soát không phải là vô giới hạn. Khác với việc đánh giá người
lãnh đạo, ta không thể xác định được thành công hay thất bại của từng
người trong mỗi bộ phận. Ngoài ra, phương pháp tính toán cũng không xác
định được đóng góp của một số bộ phận vào thành quả chung: không thể
đánh giá những việc mà bộ phận nghiên cứu, phòng luật, ban thư kí, phòng
thống kê ..v.v.. làm được theo cách, thí dụ như, đánh giá mức độ hoàn
thành công việc của bộ phận bán hàng hay bộ phận sản xuất được. Kết quả
của các bộ phận như nghiên cứu, phòng luật ..v.v.. có thể giao cho
trưởng các bộ phận đó đánh giá, còn kết quả của những bộ phận như sản
xuất và bán hàng thì giao cho tổng giám đốc doanh nghiệp, vì những người
có trách nhiệm đưa ra những đánh giá như thế (tổng giám đốc hoặc lãnh
đạo các bộ phận) nhìn thấy rõ các điều kiện của thị trường và quan tâm
đến sự chính xác của những đánh giá do họ đưa ra – thu nhập của họ phụ
thuộc vào hiệu quả của công việc mà họ chịu trách nhiệm.
Trái ngược với các doanh nghiệp
loại này, tức là những doanh nghiệp mà mỗi thương vụ đều được kiểm soát
bằng cách tính lời và lỗ, là bộ máy quản lí hành chính nhà nước. Tính
toán không thể nào chỉ ra được rằng một vị quan toà (cái gì đúng với một
vị quan toà thì cũng đúng với bất kì quan chức cao cấp nào khác) đã
hoàn thành nhiệm vụ tốt hay là xấu. Không thể nào xác định được – đấy là
nói xác định trên cơ sở những tiêu chí khách quan – là một huyện hay
một tỉnh được quản lí tốt hay xấu, với chi phí cao hay chi phí thấp. Như
vậy là, đánh giá hoạt động của các quan chức là đánh giá mang tính chủ
quan, và vì vậy mà là ý kiến tuỳ tiện. Ngay cả vấn đề là một phòng ban
nào đó có cần thiết hay không, nhân viên của nó quá nhiều hay quá ít, và
liệu tổ chức của nó có phù hợp với mục đích đặt ra hay không cũng chỉ
có thế được giải quyết trên cơ sở những tính toán chứa đựng một số yếu
tố chủ quan.
Chiến tranh là lĩnh vực quản lí
nhà nước duy nhất mà tiêu chí thành công hay thất bại là không thể tranh
cãi được. Nhưng ngay cả ở đây ta cũng chỉ có thể nói rằng chiến dịch đã
thành công hay không mà thôi. Còn câu hỏi về việc bố trí lực lượng
trước khi trận đánh diễn ra đã có đóng góp như thế nào vào kết quả của
chiến dịch, năng lực hoặc sự thiếu năng lực của những người chỉ huy
trong quá trình tiến hành chiến dịch đã ảnh hưởng tới kết của chung cuộc
như thế nào, những biện pháp mà họ đưa ra chính xác đến mức nào, thì
không thể nào trả lời dứt khoát và chính xác được. Có những vị tướng
được vinh danh vì những chiến công, nhưng trên thực tế những vị này đã
làm tất cả mọi việc có lợi cho kẻ thù, họ đã chiến thắng chỉ vì hoàn
cảnh thuận lợi đủ sức áp đảo được những sai lầm của họ. Và đôi khi người
ta đã lên án những vị chỉ huy thua trận nhưng chính những người đó đã
đưa ra những quyết định thiên tài nhằm ngăn chặn thất bại chung cuộc
không thể tránh khỏi.
Người quản lí doanh nghiệp tư
nhân chỉ giao cho các nhân viên mà ông ta phân cho những nhiệm vụ độc
lập một chỉ thị duy nhất: kiếm được nhiều lợi nhuận nhất. Tất cả những
gì ông ta có thể nói với họ đều nằm trong mệnh lệnh duy nhất này và chỉ
cần theo dõi sổ sách kế toán là ông ta đã có thể kiểm tra một cách dễ
dàng và chính xác mức độ hoàn thành của họ. Người lãnh đạo tổ chức hành
chính có một vị thế hoàn toàn khác. Ông ta giao cho những người dưới
quyền nhiệm vụ mà họ phải thực hiện, nhưng ông ta không thể biết chính
xác là những phương tiện được sử dụng trong hoàn cảnh đó có thật sự phù
hợp và tiết kiệm nhất hay không. Nếu ông ta không phải là một người toàn
trí toàn năng trong tất cả các công sở và văn phòng trực thuộc thì ông
ta không thể nào biết được là có thể đạt được kết quả như thế với chi
phí thấp hơn về lao động và vật tư hay không. Không cần thảo luận ở đây
sự kiện là kết quả công việc không được thể hiện bằng những con số mà
chỉ có thể đánh giá một cách gần đúng. Vì chúng ta không xem xét những
biện pháp quản lí hành chính từ quan điểm những hiệu ứng phụ mà nó gây
ra mà chỉ xem xét từ ảnh hưởng mà chúng tạo ra đối với hoạt động của bộ
máy quan lí, vì vậy mà chúng ta chỉ quan tâm tới kết quả nhận được trong
tương quan với chi phí bỏ ra mà thôi.
Vì không thể xác định được mối
tương quan như thế theo kiểu hạch toán thương mại cho nên người lãnh đạo
cơ quan quản lí hành chính phải cung cấp cho các nhân viên dưới quyền
những chỉ dẫn mà họ buộc phải thực hiện. Trong những chỉ thị như thế
người ta đã dự liệu trước, một cách chung nhất, biện pháp giải quyết
công việc. Nhưng ngay cả trong những trường hợp khẩn trương vẫn phải
được cấp trên đồng ý thì mới có thể chi tiêu - thủ tục quả là rất nặng
nề và kém hiệu quả, nhưng chẳng còn cách nào khác. Nếu mỗi đơn vị cấp
dưới, mỗi người lãnh đạo các phòng ban, mỗi cơ quan quản lí ngành đều
được quyền chi số tiền mà họ cho là cần thì chẳng bao lâu chi phí cho bộ
máy quản lí sẽ phình lên vô giới hạn. Không được quên rằng đấy là hệ
thống có nhiều khiếm khuyết nghiêm trọng và hoạt động rất kém. Nhiều
khoản chi tiêu lãng phí, nhưng nhiều khoản cần thiết lại không được chi
vì khác với tổ chức thương mại, bộ máy hành chính không thể tự điều
chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh. Đấy là bản chất của nó.
Ấn tượng của quá trình quan liêu
hoá được thể hiện rõ nhất ở các quan chức, tức là người đại diện của
nó. Thuê lao động trong doanh nghiệp tư nhân không phải là hành động gia
ơn mà là một thương vụ, cả hai bên - cả người lao động lẫn người sử
dụng lao động - đều có lợi. Người sử dụng lao động phải cố gắng trả
lương tương xứng với giá trị lao động bỏ ra. Nếu không làm như thế, ông
ta có nguy cơ mất người - người lao động sẽ bỏ việc để đến làm cho doanh
nghiệp cạnh tranh, trả lương cao hơn. Đến lượt mình, muốn không mất
việc, người lao động cũng phải cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao sao
cho tương xứng với đồng lương. Vì thuê mướn không phải là hành động gia
ơn mà là một thương vụ cho nên người lao động không phải lo mất việc nếu
bị chủ không ưa. Đuổi người lao động làm việc có hiệu quả trên cơ sở
yêu ghét là tự làm hại mình chứ không phải làm hại người công nhân vì
anh ta sẽ dễ dàng tìm được việc tương tự ở đâu đó.
Có thể dễ dàng giao cho người
đứng đầu mỗi bộ phận quyền thuê mướn hoặc cho thôi việc vì dưới áp lực
của việc kiểm tra hoạt động, do bộ phận kế toán và hạch toán thực hiện,
anh ta sẽ phải lo lắng làm sao cho bộ phận của mình thu được lợi nhuận
cao nhất và vì vậy mà anh ta phải giữ cho bằng được những người lao động
xuất sắc nhất, đấy cũng là vì lợi ích của chính anh ta. Nếu vì tức giận
mà anh ta cho nghỉ việc người không đáng phải nghỉ, nếu hành động của
anh ta xuất phát từ những tính toán cá nhân chứ không phải là tính toán
khách quan thì chính anh sẽ là người gánh chịu hậu quả. Rút cục lại là
anh ta sẽ bị thiệt nếu bộ phận do anh ta phụ trách không còn hoạt động
tốt như xưa nữa. Như vậy là, việc đưa tác nhân giá trị của lao động –
tác nhân phi vật chất – vào quá trình sản xuất đã diễn ra một cách trôi
chảy.
Trong tổ chức hành chính vấn đề
hoàn toàn khác hẳn. Trong trường hợp này, vì không thể xác định được
đóng góp của từng bộ phận và vì vậy cũng tức là không xác định được đóng
góp của từng người, ngay cả khi người đó giữ địa vị lãnh đạo thì cũng
thế, cho nên hiện tượng thiên vị và thành kiến cá nhân cả trong việc đề
bạt lẫn trả lương mới thịnh hành đến như thế. Sự kiện là việc can thiệp
của những cá nhân đóng vai trò nhất định trong việc bổ nhiệm vào các
chức vụ của nhà nước không phải là do những người có quyền bổ nhiệm
thiếu nhân cách mà là do ngay từ đầu đã không có những tiêu chí khách
quan cho việc xác định những phẩm chất cá nhân cho việc bổ nhiệm như
thế. Dĩ nhiên là cần phải bổ nhiệm những người giỏi nhất, nhưng vấn đề
là: Ai là người giỏi nhất? Nếu câu hỏi này cũng dễ trả lời như câu hỏi
người công nhân luyện kim hay người thợ sắp chữ xứng đáng nhận lương là
bao nhiêu thì sẽ không còn gì mà bàn nữa. Nhưng vấn đề ở đây không dễ
dàng như thế cho nên việc lựa chọn người mới có sự tuỳ tiện.
Nhằm giữ cho sự tuỳ tiện như thế
không vượt quá những giới hạn nhất định, người ta cố gắng đặt ra một số
điều kiện mang tính hình thức cho việc bổ nhiệm và thăng chức. Việc
được bổ nhiệm vào một chức vụ nào đó thường phụ thuộc vào bằng cấp, phải
vượt qua một số kì thi và có thời gian công tác nhất định trong những
vị trí khác; còn muốn thăng tiến thì phải có thâm niên công tác. Đương
nhiên là những biện pháp này không thể nào thay thế được cho việc tìm
người phù hợp nhất bằng biện pháp tính toán lời lỗ. Sẽ là thừa khi cố
tình nhấn mạnh rằng chẳng có gì bảo đảm là việc học hành, thi cử, và
thâm niên của ứng cử viên sẽ giúp ta lựa chọn đúng. Ngược lại: hệ thống
này ngăn chặn ngay từ đầu những người giỏi và nhiệt tình, không cho họ
cơ hội giữ những vị trí thích hợp với khả năng của họ. Chưa bao giờ và
chưa có người nào thực sự có giá trị leo lên được những nấc thang cao
nhất bằng cách đi theo con đường học hành theo đúng qui định và bước dần
lên những nấc thang có sẵn. Ngay cả ở Đức, đất nước đặt trọn niềm tin
vào các quan chức của mình, thì thuật ngữ “người quan chức hoàn hảo”
cũng vẫn được sử dụng để chỉ một người nhu nhược và vô tích sự, dù là
một người đầy thiện ý.
Như vậy nghĩa là, biểu hiện đặc
thù của quản lí hành chính quan liêu là không thể dùng lời hay lỗ để
đánh giá thành tích và hậu quả, nó buộc phải sử dụng những biện pháp
hoàn toàn không thích hợp trong việc điều hành công việc và những qui
định mang tính hình thức trong việc thuê mướn nhân viên. Tất cả những
khuyết tật được cho là của bộ máy quản lí hành chính quan liêu - cứng
nhắc, thiếu năng động, và bất lực trước những vấn đề mà một doanh nghiệp
tìm kiếm lợi nhuận dễ dàng giải quyết - đều là kết quả của thiếu sót
mang tính nền tảng này mà ra. Dù sao mặc lòng, khi mà hoạt động của nhà
nước còn nằm trong lĩnh vực hẹp mà chủ nghĩa tự do dành cho nó thì sự
hạn chế của bộ máy quản lí hành chính quan liêu chưa biểu lộ một cách rõ
ràng. Những hạn chế như thế chỉ trở thành vấn đề nghiêm trọng đối với
toàn bộ nền kinh tế của đất nước khi chính phủ - và dĩ nhiên là điều này
cũng đúng đối với các chính quyền thành phố và các cơ quan hành chính
địa phương khác – tìm cách xã hội hoá tư liệu sản xuất và tham gia tích
cực vào hoạt động sản xuất, thậm chí là tham gia buôn bán nữa.
Dĩ nhiên là doanh nghiệp nhà
nước, đấy là nói doanh nghiệp nhằm mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận, có
thể sử dụng các tính toán bằng tiền khi phần lớn các doanh nghiệp vẫn
còn nằm trong tay tư nhân và vì vậy mà vẫn còn thị trường và giá cả thị
trường. Trở ngại duy nhất đối với quá trình hoạt động và phát triển của
nó là những người quản lí xí nghiệp - vốn là các quan chức nhà nước –
không hết mình với công việc; khác hẳn với những người quản lí doanh
nghiệp tư nhân, quyền lợi cá nhân của họ chẳng được cũng chẳng mất khi
doanh nghiệp thành hay bại. Vì vậy mà giám đốc doanh nghiệp quốc doanh
không được quyền đưa ra những quyết định quan trọng. Vì ông ta không
phải gánh chịu những mất mát do chính sách của mình gây ra cho nên trong
một số trường hợp ông ta có thể dễ dàng mạo hiểm mà người giám đốc tư
nhân thực sự có trách nhiệm không dám làm vì ông ta cũng phải chia sẻ
thiệt hại. Vì vậy mà quyền lực của giám đốc doanh nghiệp nhà nước phải
bị hạn chế. Trong bất kì trường hợp nào, dù đấy có là những qui định
cứng nhắc hay quyết định của ủy ban kiểm tra hay chấp thuận của cơ quan
quản lí cấp trên thì quản lí theo lối hành chính quan liêu cũng cồng
kềnh và không có khả năng tự điều chính cho phù hợp với hoàn cảnh cho
nên ở đâu doanh nghiệp nhà nước cũng mắc hết thất bại này đến thất bại
khác.
Trên thực tế, hiếm khi nào doanh
nghiệp nhà nước chỉ tìm kiếm mỗi lợi nhuận và để sang một bên các mục
tiêu khác. Nói chung, thường thì doanh nghiệp nhà nước còn phải theo
đuổi một số mục tiêu “quốc gia” và những mục tiêu khác nữa. Thí dụ,
người ta tin rằng nó sẽ sử dụng vật tư và sản phẩm nội địa hơn là sản
phẩm nhập khẩu. Người ta đòi ngành đường sắt phải thiết lập hệ thống giá
cả nhằm phục vụ cho chính sách thương mại của chính phủ, và xây dựng
cũng như vận hành những tuyến đường không mang lại lợi nhuận nhưng góp
phần vào việc phát triển kinh tế ở một số khu vực nhất định, đồng thời
xây dựng những tuyến đường theo những tính toán chiến lược và những tính
toán khác nữa.
Khi để cho những tác nhân như
thế can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp thì tất cả những biện pháp
kiểm soát dựa trên tính toán giá thành, và lời lỗ sẽ không thể áp dụng
được nữa. Cuối năm, khi đệ trình bản cân đối tài chính bất lợi, viên
giám đốc tuyến đường sắt quốc doanh có quyền nói: “Nếu theo quan điểm
của doanh nghiệp tư nhân chuyên hướng vào lợi nhuận thì dĩ nhiên là
tuyến đường do tôi lãnh đạo đã bị lỗ. Nhưng nếu ta xem xét những tác
nhân như chính sách kinh tế quốc gia và chính sách quốc phòng thì không
được quên rằng tuyến đường này đã làm được nhiều việc giá trị mà không
thể đưa vào tính toán lời lỗ được”. Trong những hoàn cảnh như thế, việc
tính toán lời lỗ sẽ mất hết giá trị trong việc đánh giá thành tích của
doanh nghiệp. Vì vậy mà, ngay cả khi không có những tác nhân khác với xu
hướng tác động tương tự thì đường sắt cũng phải quản lí một cách quan
liêu, hệt như quản lí trại giam hay sở thuế vụ vậy.
Khi còn chuyên tâm và chỉ hướng
đến lợi nhuận thì không doanh nghiệp tư nhân nào, dù to hay nhỏ, lại có
thể trở thành tổ chức quan liêu được. Triệt để tuân theo nguyên tắc tối
đa hoá lợi nhuận giúp cho ngay cả các công ty cực kì lớn cũng có thể xác
định được một các chính xác vai trò và đóng góp của từng thương vụ và
của mỗi phong ban vào kết quả chung cuộc. Khi doanh nghiệp chỉ hướng đến
lợi nhuận thì nó sẽ tránh được tất cả những khiếm khuyết của chủ nghĩa
quan liêu.
Quá trình quan liêu hoá doanh
nghiệp tư nhân mà chúng ta đang chứng kiến hiện nay chính là kết quả của
chính sách can thiệp, tức là chính sách buộc họ phải tính đến những tác
nhân mà nếu được tự do quyết định chính sách thì những tác nhân đó sẽ
không có bất cứ vai trò gì trong hoạt động kinh doanh của họ. Khi một
công ty phải để ý đến những định kiến chính trị và và những tình huống
nhạy cảm đủ mọi loại mới mong tránh được phiền phức do các cơ quan khác
nhau của nhà nước gây ra thì chẳng bao lâu sau công ty đó sẽ thấy rằng
họ không còn có thể xây dựng những tính toán của mình trên cơ sở lời lỗ
nữa. Thí dụ như một số doanh nghiệp công ích ở Mĩ, nhằm tránh xung đột
với dư luận xã hội và xung đột với các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành
pháp nắm dưới ảnh hưởng của chính phủ, đã thực hiện chính sách không
thuê những người Thiên chúa giáo, người Do Thái, người vô thần, người
theo thuyết tiến hoá của Darwin, người da đen, người Ireland, người Đức,
người Ý và tất cả dân mới nhập cư. Khi mà nhà nước thực hiện chính sách
can thiệp thì muốn tránh rắc rối, tất cả các doanh nghiệp đều phải tìm
cách thích ứng với ước muốn của chính quyền. Kết quả là những tác nhân
như thế và những tác nhân khác, vốn xa lạ với nguyên tắc tìm kiếm lợi
nhuận, càng ngày càng có vai trò lớn hơn trong hoạt động quản lí doanh
nghiệp, trong khi việc tính toán chính xác và hạch toán giá thành lại có
vai trò ngày càng giảm đi và doanh nghiệp tư nhân càng ngày càng bắt
chước mô hình quản lí của doanh nghiệp quốc doanh với một bộ mày cồng
kềnh và những qui định đầy tính hình thức. Tóm lại, doanh nghiệp tư nhân
đã quan liêu hoá.
Như vậy là, quá trình quan liêu
hoá các doanh nghiệp lớn không phải là kết quả của xu hướng vốn thuộc về
bản chất của quá trình phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nó
chính là hậu quả tất yếu của chính sách can thiệp. Không có sự can thiệp
của chính phủ thì ngay cả các công ty lớn nhất cũng có thể hoạt động
hệt như các doanh nghiệp nhỏ, tức là thuần tuý kinh doanh.
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét