Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014
Chiến tranh kinh tế Nga – Phương Tây trong lịch sử
20:41
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tác giả: Lê Hùng (tổng hợp)
Từ 0h00 ngày 12/9, EU quyết định áp đặt biện phạt
trừng phạt kinh tế mới với Nga do cáo buộc là Nga có những hành động can
thiệp tại Đông Ukraina. Những biện pháp trừng phạt mới này sẽ bao gồm:
hạn chế các ngân hàng và doanh nghiệp Nga tiếp cận thị trường vốn châu
Âu, nhất là các doanh nghiệp thuộc ngành dầu khí, hạn chế xuất khẩu vào
Nga các mặt hàng công nghệ cao, cấm đi lại và đóng băng tài sản với
nhiều quan chức cấp cao của Nga.
Những tuyên bố trên ngay lập tức có tác dụng. Thị
trường chứng khoán Nga bắt đầu chao đảo, tỷ giá đồng rúp – đô la Mỹ ngày
16/9 đã xuống thấp kỷ lục 38 rúp/01 đô la Mỹ (cụ thể là 38,68 rúp), đối
với đồng euro – tỷ giá đã là 50,5 rúp/01 euro.
Moscow cũng đã có các biện pháp đáp trả – cấm nhập
thực phẩm (thịt, sữa, cá, rau và củ quả) một năm nhằm chống lại Mỹ, EU,
Na Uy, Australia và Canada, ước tính ngăn khoảng 9 tỷ USD hàng nông
nghiệp xuất khẩu sang Nga. Thủ tướng Nga D.Medvedev tuyên bố có thể sẽ
áp dụng các biện pháp đáp trả “phi đối xứng” mới.
Dĩ nhiên, các biện pháp cấm vận bao giờ cũng là con
dao hai lưỡi, cả hai bên đều chịu thiệt hại nhưng vấn đề là ở chỗ là
thiệt hại của mỗi bên đến đâu và sức chịu đựng của mỗi bên đến mức độ
nào. Cũng không nên quên một điều là lợi thế thường nằm ở bên “chủ động
tấn công”.
Trên thực tế, đây không phải là lần “trao đổi” các
biện pháp trừng phạt đầu tiên và chắc chắn cũng không phải là lần cuối
cùng. Kể từ khi Liên Xô (Nga là chủ thể thừa kế hợp pháp) được thành lập
cho đến nước Nga hiện nay đã có nhiều “cuộc chiến tranh thương mại”.
Trong khi các chuyên gia kinh tế đang làm các việc dự
đoán, đánh giá của họ, chúng ta hãy điểm qua những “cuộc chiến tranh
thương mại” giữa hai bên.
1. Cuộc chiến tranh thương mại lần thứ nhất
Cuộc chiến tranh thương mại lần thứ nhất bắt đầu ngay
sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công: Các nước ANTANTA (Pháp,
Anh..) phong tỏa thương mại nước cộng hòa non trẻ này ngay từ năm 1918.
Tình hình đặc biệt nghiêm trọng đối với khu vực xuất khẩu truyền thống
của Nga – đó là xuất khẩu ngũ cốc.
Nước Nga Xô Viết chỉ được dỡ bỏ một phần các lệnh cấm
vận thương mại vào năm 1921 với việc ký thỏa thuận thương mại tạm thời
với Anh, và sau đó là với Đức và Mỹ. Cái giá phải trả cho bước đột phá
này là vô cùng đắt: Nước Nga Xô Viết phải trả cho các mặt hàng nhập khẩu
bằng vàng ròng.
Mãi đến cuối những năm 20, nhờ có NEP (Chính sách kinh
tế mới), cán cân ngoại thương của Liên Xô mới được cân bằng – xuất khẩu
tương đương với nhập khẩu. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Xô Viết đã có được
một bài học đắt giá về thế nào là phong tỏa (cấm vận) thương mại.
Liên Xô thực hiện đường lối công nghiệp hóa đất nước
vào những năm cuối thập kỷ 20 không chỉ xuất phát từ những kế hoạch đầy
tham vọng là đuổi kịp các nước phát triển hàng đầu trên thế giới mà còn
xuất phát từ chủ trương tự đảm bảo cho mình những sản phẩm thiết yếu.
Dĩ nhiên, điều đó không thể thực hiện được nếu không
xây dựng được một ngành công nghiệp nặng mạnh: chế tạo máy, chế tạo máy
công cụ, công nghiệp luyện kim loại đen và kim loại màu và v.v.
Những “bài học” về cấm vận thương mại vẫn còn nguyên
giá trị và làm cho giới lãnh đạo Xô Viết khẳng định quyết tâm xây dựng
nền kinh tế Xô Viết chủ yếu theo hướng “tự cung tự cấp”.
Trong suốt thời kỳ sau đó, tỷ lệ kinh tế ngoại thương
trong tổng sản phẩm quốc dân, trừ một sô rất ít trường hợp ngoại lệ –
không bao giờ vượt quá 10% trong khi đối với các nước có nền kinh tế thị
trường thì con số này thường từ 30 đến 45%.
Liên Xô chỉ thoát khỏi thế bị bao vây thương mại vào
đầu những năm 30 do có cuộc Đại suy thoái kinh tế tại Mỹ và các nước
Phương Tây khác. Vào giai đoạn này, tất cả các nước đều muốn buôn bán
với Nước Nga Xô Viết để cứu nền kinh tế đang khủng hoảng của mình.
Như đã nói ở trên, vào thời gian này giới lãnh đạo Xô
Viết cũng đã bắt đầu triển khai kế hoạch công nghiệp hóa – muốn thế phải
mua trang thiết bị từ nước ngoài: năm 1931 tỷ lệ nhập khẩu máy và các
trang thiết bị của Liên Xô chiếm 30 % thị trường nhập khẩu máy móc và
trang bị thế giới, và vào năm 1932, – lên đến 50%.
Tuy nhiên, để nhập khẩu máy và trang thiết bị cũng như
thuê chuyên gia để lắp đặt và vận hành, cần phải trả bằng ngoại tệ. Mặt
hàng duy nhất mà Nước Nga Xô Viết có thể xuất khẩu để thu ngoại tệ lúc
đó là ngũ cốc. Cái giá phải trả cho “công nghiệp hóa” (xuất khẩu ngũ cốc
để mua trang thiết bị) là nạn đói khủng khiếp vào đầu những năm 30.
Có thể nói, ở một chừng mực nhất định nào đó, “công
nghiệp hóa” cùng những hệ lụy “tác dụng phụ” của nó chính là hậu quả
gián tiếp từ chính sách cấm vận của các nước ANTANTA.
2. Liên minh thương mại và cuộc chiến tranh dầu mỏ
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Liên Xô bắt đầu
tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại. Sự xuất hiện của các nước xã hội
chủ nghĩa sau chiến tranh đã dẫn tới việc thành lập một liên minh kinh
tế mới kể từ thời điểm thành lập Liên Xô: Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV).
Nhờ tăng cường buôn bán giữa các nước thành viên và cả
sự phân công lao động trong nội bộ SEV, liên minh này đã đảm bảo an
toàn về kinh tế cho tất cả các nước thành viên trước những cú sốc về
chính trị, kinh tế cùng các nguy cơ của một cuộc chiến tranh thương mại
mới.
Từ thời điểm này, kinh tế đối ngoại của Liên Xô (xuất
khẩu máy móc, trang bị và nguyên liệu để công nghiệp hóa các đồng minh,
nhập khẩu hàng tiêu dùng và lương thực- thực phẩm) tập trung vào các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước thành viên SEV.
Trong những năm 50, 80% thu nhập từ ngoại thương của
Liên Xô là từ các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó 55% là với các nước
thành viên khối SEV. Đến “triều đại” Khrushov, nền kinh tế Xô Viết có
hai đặc điểm nổi bật: một mặt – đó là mối quan hệ thương mại với các
nước Phương Tây mà trước hết là Mỹ được tăng cường. Mặt khác – đây cũng
chính là thời kỳ mà nền nông nghiệp Xô Viết bắt đầu xu hướng đi xuống,
trước hết là trong sản xuất ngũ cốc – dẫn tới tình trạng thiếu lương
thực tại Liên Xô.
Liên Xô đã không thể giải quyết được tình trạng này
cho đến tận khi sụp đổ và giới lãnh đạo Xô Viết buộc phải nhập khẩu một
số lượng lớn ngũ cốc, và sau đó là các mặt hàng lương thực thực phẩm
khác (Nga hiện nay cũng vậy).
Hơn nữa, việc nhập khẩu các mặt hàng này từ Mỹ, Canada
và các nước Phương Tây khác được thực hiện trong những điều kiện ngặt
nghèo không kém gì các cuộc chiến tranh thương mại.
Việc phát hiện dầu mỏ ở Tây Sibiri vào những năm 60 có
thể coi là bước ngoặt đối với Liên Xô. Chính thời điểm này trong giới
lãnh đạo Xô Viết bắt đầu diễn ra các cuộc tranh luận về khả năng thay
đổi tỷ lệ đầu tư vào nhóm A (công nghiệp nặng sản xuất các phương tiện
sản xuất) và nhóm B (sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng).
Nhóm thứ nhất (ủng hộ đầu tư cho nhóm “B”) cho rằng
đến thời điểm đó Liên Xô đã đạt được sự cân bằng tên lửa – vũ khí hạt
nhân với Mỹ và như vậy đã giải quyết cơ bản nhiệm vụ đảm bảo an ninh cho
đất nước.
Từ thực tế như vậy, cần phải sử dụng tiền bán dầu để
hỗ trợ nâng cao mức sống của người dân (đang thấp hơn nhiều so với các
công dân Phương Tây) và để phát triển sản xuất lương thực – thực phẩm và
các mặt hàng tiêu dùng khác – có nghĩa là ưu tiên đầu tư cho nhóm B.
Những người phản đối (ủng hộ ưu tiên đầu tư nhóm “A”)
lại cho rằng, bằng số ngoại tệ thu được từ bán dầu, Liên Xô có thể mua
được tất cả các mặt hàng lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng cần thiết
từ nước ngoài – mà trước hết từ các nước khối SEV.
Nếu ưu tiên đầu tư cho nhóm “B” thì trong trường hợp
“ngày mai xảy ra chiến tranh”, dòng vốn đầu tư phải nhanh chóng chuyển
sang sản xuất vũ khí khiến Liên Xô phải “tái cơ cấu” khẩn cấp nền công
nghiệp – một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Cuối cùng, những người thuộc
nhóm A đã thắng và Liên Xô đã phải trả một cái giá quá đắt cho quyết
định này.
Chính nó (quyết địnhưu tiên nhóm A) đã làm cho nền
kinh tế Xô Viết trở nên không năng động và thiếu sức sống – nền kinh tế
chủ yếu dựa vào xuất khẩu tài nguyên và cho đến nay, nước Nga vẫn chưa
khắc phục được tình trạng này.
Thế nhưng vào đầu những năm 70, “định hướng tài
nguyên” vẫn chưa đem lại tai họa, ngược lại nó còn mang đến cho Liên Xô
những lợi ích không nhỏ. Sau cuộc chiến tranh Ai cập và Syria với Israel
năm 1973, các nước Arập khai thác dầu mỏ nằm trong thành phần OPEC tiến
hành “cuộc chiến tranh thương mại dầu mỏ” chống lại Mỹ và các nước Châu
Âu ủng hộ Israel. Mỹ bị cấm vận dầu mỏ, còn Châu Âu – bị tăng số tiền
phụ thu khi nhập khẩu dầu.
Chỉ trong vòng 3 tháng – từ tháng 11/1973 (bắt đầu cấm
vận) giá dầu mỏ trên thị trường thế giới đã tăng từ 3 USD/thùng lên 12
USD/thùng và vẫn tiếp tục tăng. Một số nhà phân tích Phương Tây đến bây
giờ vẫn cho rằng cuộc chiến tranh “dầu mỏ” mà các nước Arập đồng minh
của Liên Xô tiến hành chống Israel cùng việc giá dầu trên thế giới tăng
là một “chiến dịch kinh tế- thương mại đặc biệt” do Liên Xô- lúc này
đang là một nước xuất khẩu dầu vào thị trường Châu Âu, khởi xướng.
Bất luận thế nào chăng nữa, “cuộc khủng hoảng dầu mỏ”
những năm 70, giá dầu tăng đã có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế
Xô Viết. Tốc độ tăng trưởng GDP của Liên Xô trong những năm 70 luôn cao
hơn các đối thủ cạnh tranh trong “khối tư bản chủ nghĩa” lúc này đang bị
sốc nặng vì hậu quả của cuộc khủng hoảng dầu, mức sống và chất lượng
sống của đại bộ phận người dân Xô Viết không ngừng tăng lên. Thặng dư
thương mại luôn dương.
Tuy nhiên, ở một bình diện khác thì chính sách kinh tế
dựa vào xuất khẩu nguyên liệu và vũ khí đồng thời nhập khẩu hàng tiêu
dùng và lương thực- thực phẩm đã làm cản trở sự phát triển công nghệ của
các lĩnh vực kinh tế “không ưu tiên” của đất nước – mà cụ thể là nông
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng đường bộ và đường sắt cùng một loạt các
ngành công nghiệp chủ chốt khác.
3. Ủy ban CCMEC và luật Jackson- Vanik
Đến đầu những năm 80 Liên Xô đã là một người khổng lồ
trên trường quốc tế. Nhưng cũng chính vào thời điểm này nền kinh tế Xô
Viết đã nhiễm 2 loại virus chết người. Loại virus thứ nhất chính là luật
Jackson-Vanik (của Mỹ) năm 1974 hạn chế thương mại, trước hết là các
mặt hàng lưỡng dụng và các sản phẩm công nghệ cao.
Về lý do công khai, bộ luật này được áp dụng chống lại
các nước gây khó khăn cho sự di cư của công dân nước mình – cụ thể đối
với Liên Xô thì đó là việc nước này ngăn trở người Do thái xuất cảnh
hoặc đi định cư ở nước khác. Dĩ nhiên, đây chỉ là cái cớ.
Trước đó, ngay từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh
năm 1949 Mỹ đã đưa ra sáng kiến cùng các nước Phương Tây thành lập Ủy
ban điều phối kiểm soát xuất khẩu (Coordinating Committee for
Multilateral Export-CCMEC), có nhiệm vụ hạn chế các giao dịch buôn bán
với Liên Xô. Đây chính là một cuộc chiến tranh thương mại công khai.
CCME với thành phần gần như tất cả các nước NATO,
thường xuyên lập và chốt danh mục các công nghệ và sản phẩm “chiến lược”
cấm xuất khẩu vào các nước “Khối phía đông” đồng thời kiểm soát việc
thực hiện các lệnh cấm này.
Trong những năm 70, trong bối cảnh Liên Xô đạt được sự
tăng trưởng đáng kể tiềm lực kinh tế và quân sự (Phương Tây đang bị
khủng hoảng liên quan đến tăng giá dầu mỏ), các danh mục cấm của CCMEC
luôn được bổ sung thêm, và việc thực hiện lệnh cấm được kiểm soát nghiêm
ngặt.
Hậu quả của chính sách này đối với Liên Xô là các
ngành kinh tế “phi quân sự” của nước này chỉ nhập khẩu được từ Phương
Tây các trang thiết bị và công nghệ “hạng hai”. Và đây là một nguyên
nhân rất quan trọng làm cho các ngành công nghiệp “hòa bình” Xô Viết
ngày càng tụt hậu về công nghệ.
Loại virus chết người thứ hai chính do nền kinh tế Xô
Viết gây ra và tự viêm nhiễm. Vấn đề là ở chỗ, ngoài nguyên tắc “đầu tư
những gì còn lại” cho lĩnh vực dân sự của nền kinh tế, giới lãnh đạo
Liên Xô cũng đồng ý với các tổ hợp nghiệp quốc phòng không áp dụng các
công nghệ công nghiệp quốc phòng cho lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng.
Trong khi đó Phương Tây rất chú trọng kết nối các Tổ
hợp công nghiệp quốc phòng với các ngành sản xuất hàng dân dụng: những
phát minh trong lĩnh vực này ngay lập tức được ngành khác ứng dụng và
thành quả thường là luôn xuất hiện những công nghệ và mặt hàng mới từ sự
kết nối như vậy.
Liên Xô đã không làm như thế và hậu quả là: do không
có đủ nguồn lực để tự phát triển công nghệ (trong đó có cả việc đầu tư
cho các công tác nghiên cứu khoa học và công tác nghiên cứu khoa học –
thiết kế – thử nghiệm) các ngành kinh tế dân dụng của Liên Xô buộc phải
hoặc là sao chép công nghệ Phương Tây hoặc là mua trang thiết bị của
Phương Tây.
Mà như đã nói ở trên, việc nhập khẩu trang thiết bị cũng như bị điều chỉnh rất chặt chẽ bởi CCME và luật Jackson-Vanik.
Vì lý do đó mà khả năng cạnh tranh của các sản phẩm
xuất khẩu Liên Xô (trừ nguyên liệu, sản phẩm quân sự và một số sản phẩm
công nghệ cao khác như một số máy móc và máy công cụ) bắt đầu sụt giảm.
Và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Liên Xô không chỉ
sụt giảm trên thị trường “tư bản”, mà ngay cả trên thị trường các nước
“anh em” trong khối SEV. Liên Xô dần dần thua thế giới tư bản trong cuộc
cạnh trạnh thương mại toàn cầu.
4. Cuộc chiến tranh bí mật
Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 Phương Tây
quyết định tiến hành một cuộc chiến tranh tổng thể chống Liên Xô trên
tất cả các mặt trận. Nhà tư tưởng và cha đẻ của cuộc chiến tranh này
chính là Zbigniew Kazimierz Brzeziński (gốc Ba Lan – sinh năm 1928) từ
năm 1977 là Cố vấn an ninh quốc gia của chính quyền J.Carter.
Chính ông này là tác giả của hệ tư tưởng khẳng định
vai trò thống trị thế giới của Mỹ và là người có câu nói nổi tiếng “Liên
Xô – người khổng lồ có đôi chân đất sét”. Ông ta cũng là tác giả của ý
tưởng gây sức ép với Liên Xô thông qua việc thiết lập “vòng cung Hồi
giáo gây mất ổn định” ở biên giới phía nam Liên Xô.
Và bắt đầu vào những năm 1978-1980. đã có một loạt
thay đổi rất nhạy cảm đối với Liên Xô tại các nước láng giềng: tại Iran,
những người Hồi giáo lên nắm quyền. Tại Afghanistan, chiến tranh bắt
đầu với sự tham gia của binh sỹ Xô Viết, còn tại Ba Lan “công đoàn Đoàn
kết” xuất hiện và bắt đầu hoạt động manh.
Cũng bắt đầu từ năm 1980, Liên Xô ngày càng phải dành
nhiều hơn các nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu để chi cho việc bảo vệ
biên giới với Iran tại các nước Cộng hòa Turmenistan và Uzbekistan, cho
tiến hành chiến tranh ở Afghanistan và để hỗ trợ ngoại tệ cho đồng minh
Ba Lan đang ở bờ vực của một cuộc bùng nổ chính trị-xã hội.
Theo đánh giá của các chuyên gia, từ năm 1981 Liên Xô
phải chi cho cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 3,5 đến 5 tỷ đôla mỗi
năm, cho hỗ trợ kinh tế Ba Lan (và sau này là Tiệp Khắc và các nước khối
SEV bị khủng hoảng) – từ 2 đến 4 tỷ đôla mỗi năm.
Đầu năm 1981, tổng thống mới của Mỹ là R.Rigan nhậm
chức với tuyên bố Liên Xô là “đế quốc tội ác” và cần phải bị tiêu diệt.
Kế hoạch làm suy yếu Liên Xô được giao cho Giám đốc CIA W. Casey.
W.Casey sau này đã nói về nhiệm vụ được giao như sau: “tiến hành một
cuộc chiến tranh bí mật lớn làm phá sản Liên Bang Xô Viết”.
Mùa thu năm 1981, theo chỉ thị của W.Casey, các chuyên
viên CIA đã lập một danh mục các trang thiết bị và công nghệ mà Liên Xô
đang rất cần để cấm xuất khẩu những mặt hàng này. Ngay trong tháng 10,
Cục Hải quan Mỹ đã bắt đầu chiến dịch đặc biệt Exodus (Cuộc ra đi hàng
loạt) nhằm áp dụng các hạn chế trong trao đổi công nghệ với các nước xã
hội chủ nghĩa.
Trước đó, mùa xuân năm 1981, W.Cayce đề nghị (đúng hơn
là yêu cầu) một loạt các doanh nghiệp lớn của Mỹ cam kết hợp tác với
CIA (để chống Liên Xô) và bắt đầu cho loan tin đồn khắp Châu Âu về việc
Ba Lan không có khả năng thanh toán, và như vậy, cần phải khẩn cấp “rút
lại” các khoản tín dụng đã cấp cho Ba Lan trước đây.
Tháng 7/1981, Hội đồng các ngân hàng Mỹ dưới sự chủ
trì của phó chủ tịch “The Chase Manhattan Bank” R.Robinson đã tiến hành
thương thảo với 400 ngân hàng quốc tế. Các bên đã thống nhất đòi Ba Lan
phải thanh toán ngay khoản nợ tín dụng của nước này là 2,7 tỷ đôla.
Moscow buộc phải có biện pháp hỗ trợ Ba Lan để nước
này khỏi rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị không thể kiểm soát được.
Mùa thu năm 1981, Liên Xô buộc phải cấp cho Ba Lan khoản hỗ trợ 4,5 tỷ
đôla. Mặc dù vậy, khủng hoảng chính trị ở Ba Lan vẫn không hề có hy vọng
được giải quyết: Ngày 13/12/1981, Chính phủ Ba Lan ban bố tình trạng
thiết quân luật.
Mỹ cáo buộc là việc thiết quân luật ở Ba Lan là “do
sức ép của Moscow”, và ngày 29/12/1981, R.Rigan tuyên bố Mỹ cấm các công
ty Mỹ tham gia vào các dự án kinh tế Xô Viết.
Những biện pháp cấm vận này trước hết liên quan đến
việc xây dựng đường ống dẫn khí Xô Viết tuyến Uranda- Pomara- Uzgorod
chạy tới Tiệp Khắc và sau đó kết nối với mạng đường ống dẫn khí Châu Âu.
Đường ống này nếu được đưa vào sử dụng sẽ làm tăng đáng kể lượng khí
đốt của Liên Xô xuất khẩu sang Châu Âu (và dĩ nhiên là tăng nguồn thu
ngoại tệ cho Liên Xô).
Các biện pháp cấm vận của Mỹ còn nhằm vào các dự án
khai thác các mỏ khí đốt tại Sakhalin có sự tham gia của Nhật Bản: tại
các mỏ này, có sử dụng các công nghệ và trang thiết bị của Tập đoàn Mỹ
General Electric, Dresser Industries, Schlumberger và các tập đoàn khác.
Hướng của các đòn tấn công đã được Mỹ lựa chọn rất
chính xác: hai tuyến đường ống đẫn khí đốt có thể tạo cho Liên Xô mức
tăng trưởng ngoại thương khoảng 30 tỷ đôla, có nghĩa là tăng gần gấp đôi
tổng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu của Liên Xô.
Còn một điều không kém phần quan trọng nữa là tăng sự
phụ thuộc của Châu Âu vào khí đốt Xô Viết: sẽ là gần 60% tổng số khí đốt
mà Châu Âu sử dụng. Dĩ nhiên, Mỹ không thể để điều này xảy ra.
Các chuyên gia của W.Casey được giao nhiệm vụ tìm các
phương án cung cấp khí đốt khác cho Châu Âu để có thể thuyết phục các
nước này khước từ tham gia vào các dự án xuất khẩu khí đốt của Liên Xô.
Nhưng đối với Châu Âu, những dự án đường ống khí đốt mới này cũng cần
thiết cho mình không kém gì Liên Xô: không chỉ vì cần khí đốt, mà còn vì
khủng hoảng kinh tế và để giải quyết nạn thất nghiệp gia tăng.
Chính vì thế mà Châu Âu đã sẵn sàng cung cấp cho Liên
Xô các khoản tín dụng ưu đãi, và quan trọng hơn là đảm bảo cung cấp
trang thiết vị và vật liệu với điều kiện là Liên Xô sẽ trả sau một phần
bằng khí đốt.
Các hợp đồng cung cấp trang thiết bị này không chỉ có
tác động tích cực đến công nghiệp và thương mại mà còn tạo ra hàng chục
nghìn việc làm cho Châu Âu trong bối cảnh nạn thất nghiệp tràn làn. Vì
những lợi ích của mình, các nhà lãnh đạo Châu Âu đã không “tuân lệnh” Mỹ
trong trường hợp này.
Tại Hội nghị thượng đỉnh NATO đầu năm 1982, ngoại
trưởng các nước hàng đầu Châu Âu tuyên bố là họ sẽ không vi phạm các
biện pháp trừng phạt của nước Mỹ nhưng vẫn tiếp tục tham gia vào các dự
án khí đốt Xô Viết. Dòng khí đốt dù là màu “đỏ” nhưng đối với Châu Âu
vẫn quan trọng hơn là cuộc đấu tranh với “đế chế tội ác”.
5. “Cuộc chiến tranh giữa các vì sao” và cuộc chiến tranh dầu mỏ lần thứ hai
Tháng 6/1982, Tổng thống R.Rigan công bố quyết
định áp dụng các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với tất cả các công ty
và các nước sử dụng giấy phép sản xuất cũng như trang thiết bị, máy móc
và vật liệu được sản xuất có ứng dụng công nghệ Mỹ nếu hợp tác với Liên
Xô.
Quyết định này của Mỹ đã gây nên một làn sóng phản đối
mạnh mẽ tại Châu Âu, nhưng lần này ít có nước nào dám chống lại. Và
không lâu sau đó các dự án công nghiệp Xô Viết (trước hết là dự án đường
dẫn khí đốt) đối mặt với nguy cơ Phương Tây cắt giảm cung cấp các mặt
hàng công nghệ cao đã được thỏa thuận từ trước.
Nếu như vào cuối những năm 70 tỷ lệ hàng hóa công nghệ
cao trong xuất khẩu của Mỹ vào Liên Xô vượt 30%, thì đến năm 1982, tỷ
lệ này chỉ còn 7%. Xu hướng như vậy cũng bắt đầu xuất hiện trong quan hệ
kinh tế với Châu Âu.
Một cuộc chiến tranh thương mại- công nghệ cao quy mô
lớn giữa Mỹ và Liên Xô lại bắt đầu. Giới lãnh đạo Liên Xô cũng bắt đầu
áp dụng các biện pháp đáp trả như: mua các mẫu trang thiết bị và công
nghệ cần thiết qua “các nước thứ ba”, sử dụng gián điệp công nghiệp để
thu thập các thông tin công nghệ.
Các nhà khoa học Xô Viết bắt đầu tiến hành các công
trình nghiên cứu khoa học bí mật, dựa vào các mẫu và tài liệu công nghệ
thu thập được tiến hành nghiên cứu nhanh chóng để chế tạo các loại trang
thiết bị của Liên Xô có tính năng tương tự như các trang thiết bị- máy
móc vật liệu của Phương Tây.
Mỹ đáp trả bằng cách tiến hành một chiến dịch cung cấp
các thông tin giả bằng nhiều phương thức khác nhau mà đỉnh điểm chính
là cho công bố “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI) hay còn được gọi
là “Chiến tranh giữa các vì sao” vào đầu năm 1983.
Mục đích của chương trình nói trên – theo các tuyên bố
công khai là: thiết kế một hệ thống phòng thủ chống tên lửa toàn diện
bố trí cả trên vũ trụ để có thể vô hiệu hóa tiềm lực tên lửa-hạt nhân
của Liên Xô. Chương trình này, có thể nói ngay là hoang đường vào thời
điểm đó: những phương hướng cơ bản của nó nếu như có thể thực hiện được
về mặt nguyên tắc công nghệ thì cũng còn phải trong một tương lai rất xa
nữa.
Tuy nhiên, Liên Xô đã tỏ ra cực kỳ quan ngại trước
chương trình này của Mỹ. Giới lãnh đạo Xô Viết buộc phải cắt giảm các
khoản đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế để dành một nguồn lực rất lớn về
tài chính, vật liệu, khoa học và công nghệ để tìm “biện pháp đáp trả
cuộc chiến tranh giữa các vì sao”.
Đòn tiếp theo của Mỹ giáng vào Liên Xô là trong lĩnh
vực tiền tệ. Các khoản thu ngoại tệ chủ yếu của Liên Xô đều từ thị
trường dầu mỏ, nơi mà mọi giao dịch thanh toán đều được thực hiện bằng
đồng đôla Mỹ. Từ mùa thu năm 1984, trong vòng một năm Mỹ đã phá giá đồng
đôla tới 25%.
Từ thời gian đó, Liên Xô nhận được từ xuất khẩu dầu mỏ
bằng đồng đôla đã giảm giá tới 1/4 và vẫn nhập khẩu hàng tiêu dùng và
trang thiết bị từ Châu Âu bằng các đồng tiền đang lên giá của các nước
này. Thặng dư thương mại Liên Xô ngày càng giảm.
Chính vào thời điểm “nhạy cảm” này Casey và “các đồng
nghiệp” tiến hành “vòng thuyết phục” tiếp theo nhằm thuyết phục lãnh đạo
các ngân hàng lớn nhất trên thế giới là kinh tế Xô Viết trước sau “sẽ
sụp đổ” và việc cấp cho Liên Xô các khoản tín dụng dài hạn mới- là một
quyết định chứa đựng nhiều rủi ro không thể biện minh được.
Tháng 3/1985, M.Gorbachev giữ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
Tháng 4/1985, Hội nghị Trung ương ĐCS Liên Xô họp và
đưa ra các mục tiêu của chiến lược “cải tổ”. Nguyên nhân dẫn đến việc
giới lãnh đạo Xô Viết đồng ý thay đổi là những khó khăn kinh tế mà Liên
Xô đang phải đối mặt.
Việc quá tập trung các nguồn lực chủ yếu để đối đầu
với Mỹ đã làm tổn hại nặng cho nền kinh tế: Liên Xô phụ thuộc hoàn toàn
vào nhập khẩu ngũ cốc, bơ và thịt bắt đầu phải cấp theo tem phiếu, giá
các mặt hàng tiêu dùng liên tục tăng.
Nhưng điều quan trọng nhất – khoảng cách tụt hậu công
nghệ so với Phương Tây ngày càng tăng. Lại cũng chính vào thời điểm này,
Mỹ đã thành công trong việc gây sức ép với Saudi Arabia để đánh sụp
“chỗ dựa” của nền kinh tế Xô Viết. Mùa hè năm 1985, Saudi Arabia đã mở
kho dự trữ dầu và tăng sản lượng khai thác và xuất khẩu dầu.
Đến cuối năm 1985, sản lượng khai thác dầu của Saudi
Arabia tăng từ 2 triệu thùng/ngày lên 10 triệu thùng/ngày – giá dầu trên
thế giới giảm từ 30 xuống còn 12 đôla/thùng. Chỉ riêng thiệt hại do giá
dầu giảm của Liên Xô trong những tháng đó đã là hơn 10 tỷ đôla.
Lại cũng trong khoảng thời gian này Liên Xô mất gần 2
tỷ đôla tiền xuất khẩu vũ khí –lý do: Iran, Iraq và Lybia do khoản thu
nhập từ xuất khẩu dầu bị suy giảm đột ngột nên đã không thể thanh toán
khoản tiền nhập khẩu vũ khí cho Liên Xô.
Người dân Liên Xô đã bắt đầu không thể mua được một số
mặt hàng Phương Tây (lương thực – thực phẩm, chi tiết máy, hàng tiêu
dùng) vì giá quá cao. Mùa hè năm 1986, Liên Xô đã phải tăng lượng xuất
khẩu dầu mỏ lên 5 lần nhưng cũng chỉ mua được một khối lượng trang thiết
bị của Tây Đức như cách đó một năm trước.
Kết quả là, bắt đầu từ năm 1985, thâm hụt ngân sách
của Liên Xô ngày càng lớn (từ 18 tỷ rúp năm 1985 lên đến 76 tỷ rúp năm
1990, trong khi tổng thu ngân sách hơn 400 tỷ rúp một chút). Thực tế đó
buộc chính phủ lại phải tìm các khoản vay mới từ bên ngoài. Đây là thời
điểm Liên Xô đã rơi vào cái “bẫy lương thực”.
Nước này ngập sâu vào nợ nần để trả các khoản nhập
khẩu lương thực nhưng cũng không đủ thỏa mãn hoàn toàn các nhu cầu trong
nước. Các quầy hàng trồng rỗng đã trở thành một trong những nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết. Cuộc đối đầu giữa hai
siêu cường và kết quả thì như mọi người đã biết.
Một cuộc chiến tranh thương mại nữa lại bắt đầu, nhưng lần này là giữa Nga và Mỹ.
Để kết thúc bài này, xin giới thiệu với bạn đọc một
vài ý trong bài báo của V.Krashenhinnhikova, giám đốc Trung tâm báo chí
và nghiên cứu Hãng thông tấn Moscow “Nước Nga ngày nay” với tiêu đề: “R.Rigan chống Liên Xô, B.Obama chống Nga: kế hoạch như nhau – còn kết quả?” ngày 13/8/2014:
“Chính quyền Rigan trong những năm 80 đã thực hiện một
kế hoạch mật với mục tiêu là làm suy yếu đáng kể Liên Xô. Kết quả là
Liên Xô đã biến mất trên bản đồ chính trị thế giới. Những biện pháp mà
Chính quyền B.Obama hiện nay đang áp dụng đối với Nga có rất nhiều điểm
trùng lặp với chiến lược của R.Rigan.
Nhưng mục tiêu chiến lược của Washington với Nga là
không thay đổi: làm suy yếu nước Nga và nếu như có thể được, tiếp tục
làm tan rã nước Nga. Việc giải quyết “vấn đề Nga” trong 2 năm trở lại
đây càng trở nên cấp thiết đối với Phương Tây vì Nga đang lấy lại được
sức mạnh và hành động hoàn toàn độc lập với Mỹ trong hàng loạt các vấn
đề:
Syria, Iran, hạn chế khả năng của các nhóm thân Phương
Tây ngay bên trong nước Nga, Crimea và Ukraine v.v . Và một điều quan
trọng nữa theo quan điểm của Washington là Nga đã vượt quá giới hạn cho
phép – thành lập các định chế quốc tế mới trong khuôn khổ BRICS.
Còn kết cục cuộc chiến mới như thế nào? Nó sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là ở bản thân nước Nga”.
Nguồn: Báo Đất Việt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét