Sự ra đời của chính sách khủng bố
Phần
lớn các tín đồ Hồi giáo không
phải là người theo phái chính
thống và phần lớn những người
chính thống không phải là kẻ
khủng bố , nhưng đa số những tên
khủng bố ngày nay đều là người
Hồi giáo và họ hãnh diện xưng
mình là người Hồi giáo . Điều này
cũng dễ hiểu , người Hồi giáo
than phiền rằng khi các phương
tiện truyền thông cho rằng các
phong trào và hành động khủng bố
mang tính"Hồi giáo" và đặt
câu hỏi tại sao các phương tiện
truyền thông lại không gọi các
tay khủng bố và hành động
khủng bố của người Ireland và xứ
Basque là"Cơ đốc". Câu trả
lời đơn giản và rõ ràng - bởi
vì họ không cho mình là như thế .
Sự than phiền của người Hồi giáo
khá dễ hiểu , nhưng nên hướng sự
than phiền đó về phía những kẻ
tạo ra tin tức , thay vì về phía
những người tường trình . Usama bin
Ladin và các đệ tử Al-Qa’ida của
ông ta có thể không đại diện cho
đạo Hồi , và nhiều lời phát
biểu và hành động của họ mâu
thuẫn hòan tòan với các nguyên
tắc cơ bản và giáo lý của Hồi
giáo , nhưng tất cả những điều
trên lại do chính nền văn minh
Hồi giáo sản sinh ra , cũng như
Hitler và chủ nghĩa Quốc xã phát
sinh từ chính thế giới Cơ đốc
( Christendom ) , và chúng cũng phải
được xét trong chính khung cảnh
văn hóa , tôn giáo và lịch sử .
Có
nhiều hình thái cực đoan Hồi
giáo thịnh hành hiện nay. Được
biết nhiều nhất là nhóm cấp tiến
có chủ trương lật đổ là Al-Qa’ida
và những nhóm tương tự tại các
nước Hồi giáo ; nhóm chủ trương
chính thống ưu tiên ( pre-emptive
) của chế độ Saudi và cuộc cách
mạng nhằm thay đổi định chế
của tầng lớp lãnh đạo đang
cầm quyền tại Iran . Tất cả các
nhóm này đều có 1 điểm chung đó
là có nguồn gốc Hồi giáo , nhưng
một số lại đi chệch rất xa nguồn
gốc này .
Tất
cả các nhóm cực đoan khác nhau
đều thần thánh hóa hành động
của họ thông qua cách trích
dẫn đầy đạo lý trong bản văn
Hồi giáo , nhất là kinh Qur’an
và các truyền thuyết về Đấng
tiên tri , và tất cả 3 nhóm đều
được cho mình là chân thực hơn ,
thuần khiết hơn , trong sáng hơn
và sát với Hồi giáo hơn so
với hình thái đạo Hồi đang
được đại đa số những người Hồi
giáo thực hành và được phần
lớn , tuy không phải là tất cả ,
giới lãnh đạo tôn giáo chuẩn nhận
.Tuy nhiên , những nhóm này lại
tùy nghi lựa chọn và diễn giải
những bản văn thiêng liêng. Ví dụ
, khi nghiên cứu những lời dạy
của Đấng tiên tri , họ không sử
dụng các phương pháp được thử
thách qua thời gian do các nhà
luật học và thần học phát triển
để kiểm định tình chính xác và
chân thực của các truyền thuyết
truyền khẩu , thay vào đó họ
chấp nhận hay gạt bỏ ngay cả
những bản văn thiêng liêng tùy
theo nội dung có phù hợp
hoặc mâu thuẩn với lập trường
hiếu chiến và giáo điều của họ
hay không . Một số còn đi xa hơn
nữa đòi "hủy bỏ" hoặc"thủ tiêu"một số vần thơ trong kinh Qur’an
. Lý luận đưa ra để biện minh cho
điều này là những vần thơ trên
được mặc khải vào những năm đầu
khi Đấng Tiên tri bắt đầu sứ
mệnh của mình cho nên có thể
được thay thế bằng những mặc khải
sau này , có thể là vì chín
chắn hơn.
Một
ví dụ minh họa cho những sự
chệch hứơng là sắc lệnh tôn giáo
( fatwa) nổi tiếng do Ayatollah
Khomeini đưa ra vào ngày 14 tháng
2/1989 để chống lại nhà văn Salman
Rushdie vì ông này viết quyển sách
Những vần thơ quỉ
. Trong fatwa ,
Ayatollah Khomeini thông
báo"cho tất cả các
tín đồ Hồi giáo mộ đạo trên
thế giới rằng dòng máu
của tác giả quyển sách
này… quyển sách đã được
biên sọan , in ấn
và xuất bản đều chống
lại đạo Hồi , chống Đấng tiên
tri và kinh Qur’an ,
cũng như những ai tham gia vào
việc xuất bản
dù biết rõ nội
dung quyển sách ,
đều được coi là phải trả giá
vì hành động của mình . Ta kêu
gọi tất cả các tín đồ
Hồi giáo phải giết chúng
cho nhanh , ở bất cứ nơi nào
gặp được chúng ,
để cho không còn có kẻ nào dám
xúc phạm đến tính
thiêng liêng của Hồi giáo . Ai
hy sinh khi thực hiện
điều này sẽ được coi là
tử vì đạo"Để ứng
trước cho phần thưởng trên thiên
đàng , 1 quĩ từ thiện tại Tehran
treo giải thưởng 20 triệu tuman
( khỏang 3 triệu USD thời đó
theo giá chính thức , tương ứng
với 170.000 USD giá chợ đen ) cho
người Iran , hoặc 1 triệu USD
cho người nước ngoài nào giết
được Salman Rushdie . Vài năm sau
đó , quĩ trên có tăng thêm tiền
thưởng , tuy tin này không được xác
nhận.
Dĩ
nhiên là , đối với nhiều độc giả
không nắm vấn đề tại châu Âu cho
rằng "ban bố 1 fatwa" cũng
tương đương với việc "đưa ra 1
hợp đồng"- tức là nhắm vào 1
nạn nhân , hứa thưởng bằng tiền
khi giết được . Cũng giống như
madrasa , từ fatwa , theo cách
hiểu thông thường trên thế giới
, có ý nghĩa hòan tòan tiêu cực .
Trên thực tế , đây là 1 điều cực
kỳ vô lý .Fatwa là 1 từ kỹ
thuật trong luật học Hồi giáo
để chỉ 1 ý kiến về luật hoặc
việc áp dụng 1 điểm nào của luật
. Trong shari’a , fatwa tương đương
với responsa prudentium
của luật La mã . Nhà luật học
Hồi giáo được phép ban bố 1
fatwa được gọi là mufti ,
đây là 1 phân từ chủ động
( active participle ) có cùng gốc
từ . Khi sử dụng 1 fatwa để
kết án tử hình và chiêu mộ kẻ
giết người , chính vị Aytollah này
đã di chệch khá xa chuẩn mực
Hồi giáo .
Sự chệch hứơng này không những
nằm ở phán quyết và sự tuyên
án , mà còn ở ngay bản chất của
lời buộc tội . Xúc phạm đến Đấng
tiên tri - là lời buộc tội dành
cho Salman Rushdie - chắc chắn là 1
vi phạm theo luật Hồi giáo , và
các luật gia Hồi giáo thảo luận
khá cặn kẻ về lời cáo buộc này .
Hầu như tất cả các ý kiến thảo luận
đều tập trung vào vấn đề một
người dân không theo đạo Hồi
sống tạị 1 nước Hồi giáo và
người này xúc phạm đến Đấng tiên
tri . Các luật gia chú ý nhiều
đến định nghĩa thế nào là một sự
vi phạm , luật làm chứng và hình
phạt thích hợp . Họ đều ái ngại
rằng những lời buộc tội dành cho
sự vi phạm này không nên được
sử dụng như là 1 công cụ để trả
thù riêng , và nhấn mạnh cần
phải xem xét cẩn thận các chứng
cứ trước khi tuyên án . Đa số cho
rằng hình thức đánh đòn bằng roi
và giam giữ có thời hạn là đủ để
trừng phạt - mức độ đánh đòn
bằng roi nhiều hay ít và thời
gian bị giam phụ thuộc vào
mức độ nặng nhẹ của sai phạm .
Khó mà nghĩ đến trừơng hợp 1 tín
đồ Hồi xúc phạm đến Đấng tiên
tri và thật ra cũng rất hiếm
gặp . Nếu có, thì hành động này
tương ứng với sự phản đạo .
Đây
là 1 lời buộc tội đặc biệt
chống lại Salman Rushdie . Phản
đạo là 1 tội trọng theo luật Hồi
giáo , đối với đàn ông đây là tội
chết .Nhưng nên nhớ là ở đây đề cập
đến luật . Luật pháp Hồi
giáo là 1 hệ thống luật và tư pháp
, không phải chỉ có treo cổ và
khủng bố . Luật này đề ra các qui
trình theo đó 1 người bị tố cáo
vi phạm sẽ được mang ra xét xừ
, đối mặt với nguyên cáo ,
và có cơ hội tự bào chữa .
Thẩm phán theo đó sẽ đưa ra phán
quyết , và nếu thấy người bị tố
cáo có tội , sẽ tuyên án .
Tuy
nhiên cũng còn có 1 quan
điểm khác , do một thiểu số
các luật gia chủ trương , cho
rằng một tín đồ Hồi giáo xúc
phạm đến Đấng tiên tri là 1 lỗi
rất nặng , phải trực tiếp hành
hình ngay , và có thể , đúng ra
là phải , bỏ qua tất cả các
thủ tục buộc tội , xét xử , và
kết án . Quan điểm này căn cứ
theo 1 lời dạy được gán cho
chính Đấng tiên tri nói ra ,
nhưng chưa được công nhận rộng
rãi là đúng như vậy :’ Nếu có
kẻ lăng mạ ta , tín đồ Hồi giáo
nào nghe được đều phải giết hắn
ngay". Thậm chí trong số các nhà
luật học chấp nhận tính chân thực
của lời dạy này , cũng có sự bất
đồng . Một số người cho rằng cần
có một số hình thức thủ tục
hoặc thẩm quyền , và nếu
không được phép, thì việc hành
quyết không qua thủ tục chỉ là
mưu sát và đã là mưu sát tức là
phạm tội cần phải xử . Những
người khác cho rằng lời dạy
như được chép lại đã chỉ rõ rằng
việc hành quyết ngay , bỏ qua thủ
tục dành cho kẻ phạm thánh không
những hợp với luật mà còn là 1
điều bắt buộc , và ai mà
không thực hiện theo lời dạy này
, thì coi như chính họ cũng
phạm lỗi . Thậm chí những thẩm
phán cổ điển theo nhóm cực đoan và
nghiêm khắc nhất chỉ đòi hỏi 1
tín đồ Hồi giáo phải giết kẻ nào
xúc phạm đến đấng tiên tri khi
chính bản thân mình nghe thấy . Họ
không nói gì đến việc thuê người
đi giết vì nghe qua người khác
xúc phạm đến Đấng tiên tri tại
1 đất nước khác xa xôi .
Việc
thần thánh hóa hành động giết
người nêu trong fatwa của
Khomeini là 1 hình thức cao
hơn trong việc thực hiện – và
tôn sùng - việc ám sát liều chết.
Nếu
ta nghiên cứu tài liệu lịch sử
, ta sẽ thấy phương cách tiến hành
chiến tranh của Hồi giáo không
khác nhiều với phương cách của
người Cơ đốc , hoăc của người Do
thái trong những thời kỳ rất xa
xưa và thời kỳ rất cận đại khi
sự lựa chọn này mở ra trước mặt họ .
Trong lúc người Hồi giáo , có lẽ
thường xuyên hơn so với người Cơ
đốc , tuyên chiến với tín đồ
của các tôn giáo khác nhằm đưa
họ vào quĩ đạo của Hồi giáo ,
người Cơ đốc – không tính đến
trường hợp các cuộc Thập tự chinh
- có khuynh hướng tham gia các
trận chiến đấu nội bộ tôn giáo để
chống lại những kẻ ly giáo hoặc
kẻ theo dị giáo . Còn người Hồi
giáo , hiển nhiên là căn cứ
theo những hành động chínhtrị
và quân sự của người sáng lập ,
sẽ chọn 1 quan điểm thực tiển
hơn là những gì được ghi trong
sách Phúc âm về các mối liên hệ
xã hội và nhà nước . Quan điểm
của họ gần với quan điểm
được ghi trong các sách thuộc
Cưu Ước , và các học thuyết về
việc trừng phát người Amalekites
, hơn là với quan điểm của Đấng
Tiên tri và của Phúc âm . Người
Hồi giáo không được dạy là
phải chìa má trái nếu đã bị
tát má phải , hoặc rèn lưỡi gươm
thành lưỡi cày và rèn giáo
thành kéo tỉa cây (Isaiah 2:4) .
Tuy nhiên , những lời giáo huấn
này không cản được người Cơ đốc
gây ra một lọat các cuộc chiến
đẩm máu bên trong thế giới Cơ
đốc và chiến tranh xâm lược ra
nước ngoài.
Điều
này tạo ra 1 vấn đề lớn hơn
liên quan đến thái độ của tôn
giáo đối với bạo lực và vũ
lực, và nhất là đối với hành vi
khủng bố .Tín đồ của nhiều giáo
phái có lúc viện dẫn đến tôn
giáo khi ra tay thực hiện
việc giết người , lẻ tẻ hoặc hàng
lọat . Thậm chí có 2 từ phát xuất
từ các phong trào như thế từ
các tôn giáo phương Đông đã đi
trở thành tiếng Anh : thug (
kẻ sát nhân ) từ Ấn độ , và
assassin ( kẻ ám sát ) từ
Trung đông , cả 2 từ này đều gợi
nhớ đến những giáo phái cuồng
tín tôn thờ hành động đi giết
những ai mà họ xem là kẻ thù
của niềm tin của mình
Thực
hành và sau đó là lý thuyết về
hành động ám sát trong thế giới
Hồi giáo xuất hiện từ rất sớm ,
từ các cuộc tranh giành quyền
lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo . Trong
số 4 vị Caliph đầu tiên của đạo Hồi
, thì 3 vị đã bị ám sát , vị
thứ 2 do 1 tên nô lệ Cơ đốc căm
giận giết chết , vị thứ 3 và thứ
4 do những tín đồ sùng đạo
nổi lọan giết chết vì những kẻ
này tự cho mình là đao phủ
thực hiện ý muốn của Thượng đế .
. Vấn đề trở nên bức xúc vào năm
656 C.E khi các phiến lọan Hồi
giáo ám sát ‘Uthman , vị Caliph
thứ 3. Cuộc chiến đầu tiên trong
1 lọat các nội chiến là về vấn đề
liệu những kẻ giết người đã làm
xong hoặc xem thường điều răn
của Chúa . Luật và truyền thống
Hồi giáo ghi rất rõ ràng về
nhiệm vụ phải phục tùng người lãnh
đạo Hồi giáo . Nhưng họ cũng trích
dẫn 2 câu nói theo họ là của Đấng
Tiên tri :”Không được phục tùng
gây tội ác"và" Không được phục
tùng kẻ nào chống lại Đấng Tạo hóa
: . Nếu nhà cai trị ra lệnh trái
với luật của Thượng đế , thế thì
không cần phải tuân phục nũa . Ý
niệm giết kẻ độc tài - cách lọai
bỏ kẻ độc tài được coi là hợp lệ -
không phải do Hồi giáo sáng tác ;
mà chính đã có từ rất xa xưa , đều
có ở người Do thái , Hy lạp , và
La mã , và những ai thực hiện
hành động này thường được ca ngợi
như những bậc anh hùng.
Các
thành viên của giáo phái Hồi
giáo , phái Ám
sát ( assassin
đi từ gốc Ả -rập Hashishiyya
) , họat động mạnh ở Iran ,
và sau đó ở Syria từ thế kỷ thứ
11 đến thế kỷ 13 , dường như là
những người đầu tiên đã chuyển
đổi 1 hành động được đặt theo
tên của họ sang thành 1 hệ thống
và 1 ý thức hệ . Trái với sự
tin tưởng thông thường , các nỗ
lực của họ trước tiên không nằm
vào các chiến binh Thập tự
chinh nhưng là để chống lại các
nhà lãnh đạo Hồi giáo , những người
mà theo họ là bọn sóan ngôi vô đạo
.Về mặt này , bọn Ám sát đúng
là bậc tiền bối thực sự của
những tên được gọi là khủng bố Hồi
giáo ngày nay , bởi vì một số
trong nhóm này công khai bày tỏ
quan điểm như thế. Cái tên
Hashishiyya , có nghĩa là
người hít cần sa ( hashish ) , vốn
do các kẻ thù Hồi giáo của họ đặt
cho . Còn chính họ , họ gọi
mình là fidayeen , từ
tiếng Ả -rập fida’i - người
sẵn sàng hy sinh cuộc sống
cho sự nghiệp.
Sau
khi phái ám sát bị đàn áp và
tiêu diệt vào thế kỷ 13 , cái tên
này không còn được sử dụng . Cho
đến giữa thế kỷ 19, từ này mới
được một nhóm mưu phản người Thổ
đem ra sử dụng lại , nhóm này âm
mưu lật đổ và , nếu có thể được ,
ám sát vua Sutan . Âm mưu bị lộ ,
các tay chủ mưu bị ngồi tù . Từ
này tái xuất hiện tại Iran , do
nhóm gọi là Fida’iyan –i Islam
, tức là fida’i của Islam ,
là 1 nhóm khủng bố tôn giáo chính
trị tại Tehran . Nhóm này từ khi
bắt đầu họat động năm 1943 , cho
đến lúc bị đàn áp năm 1955 , đã
tiến hành một số vụ mưu sát chính
trị . Sau khi ám sát Thủ tướng
Iran không thành công vào tháng
10 năm 1955, họ đều bị bắt , truy
tố và những kẻ đầu đảng bị xử tử .
Từ những năm 1960 trở đi , từ
này được phái chủ chiến PLO
( Tổ chức Giải phóng Palestin)
làm sống lại , để chỉ những tay tham
gia họat động khủng bố trong tổ
chức Palestin.
Về
cả 2 mặt , việc chọn lựa vũ khí
và chọn ra nạn nhân , phái Ám sát
khác rất nhiều với những người kế
tục hiện nay. Đối tượng của ho
luôn luôn là 1 người , là lãnh
đạo cao cấp về chính trị , quân sự ,
tôn giáo , kẻ được coi như là
nguồn gốc của cái ác . Chỉ có
người này , và chỉ một mình
người này , mới bị giết. Hành
động này không phải là khủng bố
theo nghĩa thông dụng hiện nay
nhưng đúng ra chỉ là ám sát có
mục tiêu . Vũ khí luôn luôn chỉ
là chiếc dao găm . Sát thủ không
thèm sử dụng thúôc độc , nỏ và
những vũ khí khác có thể sử
dụng từ xa , và sát thủ cũng
không mong -hoặccó ý định , hoặc
ước muốn - được sống sót sau khi
thực hiện nhiệm vụ mà khi làm
xong , hắn ta sẽ được thưởng công
trên Thiên đàng. Nhưng dù với
bất cứ tình huống nào , họ cũng
không hề tự sát , mà chỉ chết
trong tay kẻ thù . Cuối cùng
những căn cứ họat động mạnh của
họ tại Iran và Syria bị nhóm quân
sự phá hủy . Cũng có nhiều khả
năng là nhóm ám sát hiện đại một
ngày nào đó cũng sẽ bị đánh bại ,
nhưng với nhiều khó khăn và lâu
dài . Các tay Ám sát thời trung cổ
thuộc nhóm cực đoan , cách biệt
rất xa với dòng Hồi giáo chủ
đạo . Nhưng với những kẻ bắt
chứơc này nay ,điều này không còn
đúng .
Thế
kỷ 20 đã làm sống lại những họat
độngnhư thế tại vùng trung đông ,
dưới nhiều hình thức và các mục
đich khác nhau và chính họat động
khủng bó cũng đã trải qua nhiều
giai đoạn . Vào những năm cuối
cùng của đế quốc Anh , nước Anh
đế quốc đối diện với nhiều
phong trào khủng bố tại các
thuộc địa vùng Trung đông , nơi
có 3 nền văn hóa : người Hy
lạp tại Cyprus , người Do thái
tại Palestin, và người Ả -rập tại
Aden . Động cơ của 3 nhóm này là
chủ nghĩa quốc gia , hơn là vì tôn
giáo . Dù rằng họ rất khác nhau
về hòan cảnh xuất phát và tình
huống chính trị , nhưng về chiến
thuật họ lại có những điểm tương
đồng cơ bản . Mục đích của họ
là thuyết phục đế quốc thấy rằng
không đáng phải đổ máu để bám
víu khu vực này . Phươngpháp của
họ là tấn công các cơ sở quân sự ,
và trong chừng mực , nhân viên và
cơ sở hành chính . Tất cả 3 nhóm
đều họat động trong phạm vi lãnh tổ
của mình và thường thì họ cố
tránh gây thương vong cho người
không liên can . Cả 3 nhóm đều
đạt được mục tiêu mong muốn của
họ .
Đối với bọn khủng bố kiểu mới ,
việc tàn sát thường dân vô
tội và không liên can không
phải là "tổn thất phụ ( collateral
damage ) mà là mục tiêu chính .
Điều không tránh khỏi là, phản
công chống lại những tên khủng bố
- có bao giờ chúng mặc đồng
phục - lại cũng nhắm vào các
thường dân.Chính sự mù mờ này đã
giúp rất nhiều cho bọn khủng bố
và những kẻ có cảm tình với chúng .
Nhờ
sự phát triển rất nhanh của các
phương tiện truyền thông , nhất
là qua truyền hình , những hình
thái họat động khủng bố gần đây
không nhắm vào các mục tiêu kẻ
thù chuyên biệt và giới hạn
nhưng nhắm vào dư luận tòan cầu
. Mục tiêu chủ yếu của chúng
không phải là nhằm đánh bại hoặc
thậm chílà suy yếu kẻthù về mặt
quân sự , nhưng để cho ai cũng
biết đến họ và tạo ra sự sơ
hãi – đó là 1 chiến thắng về mặt
tâm lý . Hình thức họat động
khủng bố tương tự cũng được một
số nhóm tại Đức , Ý , Tây ban nha
và Ireland áp dụng . Tổ chức giải
phóngPalestine(PLO) nằm trong
nhóm thi hành theo kiểu này thành
công và bền bỉ nhất .
PLO
được thành lập năm 1964 nhưng đến
năm 1967 mới đóng vai trò quan
trọng , sau khi quân đội khối Ả
-rập bị thất trận trong cuộc chiến
- 6 -ngày . Chiến tranh qui
ứơc thất bại , đây là lúc thử
tìm phương pháp khác . Mục tiêu
trong hình thức đấu tranh vũ trang
này không phải là các cơ sở quân
sự hoặc các cơ quan chính phủ
vốn được bảo vệ cẩn mật , nhưng lại
là những nơi công cọng , có
đông nggười tụ tập , đa số là dân
thường và các nạn nhân không
nhất thiết phải có liên quan đến
kẻ thù chính thức . Một số ví dụ
của chiến thuật này như , vụ cướp 3
máy bay vào năm 1970 – 1 của
Thụy sĩ , 1 của Anh , và 1 của Mỹ
- 3 chiếc này đều được đưa tới
Amman ; vụ mưu sát các vận động
viên Israel tại Thế vận hội
Munich ; vụ chiếm đóng tòa Đại
sứ Saudi Arabia tại Khartoum và
giết chết ở đây 2 nhà ngoại
giao Mỹ và 1 của Bỉ ; vụ cướp
tàu du lịch Achille Lauro
của Ý vào năm 1985 đã giết chết
một hành khách tàn tật . Những
vụ tấn công khác nhắm vào trường
học , nơi mua sắm , discotheque
, và thậm chí còn nhắm vào các
khách sắp hàng chờ tại các phi
trừơng châu Âu . Những họat động
này cùng với nhiềuchiến dịch
khác do PLO thực hiện đã đạt
được mục tiêu trước mắt của họ
khá thành công - đưa được các
hàng tin dòng đầu trên các báo
và trên màn ảnh nhỏ . Đôi khi
các họat động này dành được
sự ủng hộ to lớn từ những nơi
không ngờ tới và làm cho các
thủ phạm đóng vai trò quan trọng
trong những căng thẳng quốc tế .
Có điều hơi ngạc nhiên là có kẻ
khác được khuyến khích làm theo
gương của họ. Bọn khủng bố Ả -rập
của những năm thuộc thập niên 1970
và 1980 tuyên bố thẳng thừng là
họ phát động chiến tranh vì lý
tưởng quốc giaPalestine hoặc Ả
-rập , chứ không phải vì Hồi giáo .
Thật vậy , một tỉ lệ khá lớn
các nhà họat động và lãnhđạo PLO
là người Cơ đốc.
Nhưng dù họ có thành công về mặt
truyền thông , PLO lại không đạt
được các kết qủa đáng kể tại nơi
mà họ quan tâm - tạiPalestine .
Tại các quốc gia Ả -rập , trừ
Palestine, các phái theo chủ
nghĩa dân tộc đều đạt được mục
đích - đó là làm cho các nhà
cai trị nước ngọai bại trận và
cuốn xéo , là thành lập được chủ
quyền quốc gia với sự cai trị của
các nhà lãnh đạo dân tộc .
Có lúc , những từ như tự do và độc
lập được coi như ít nhiều đồng
nghĩa và thay thế cho nhau được .
Tuy nhiên , qua kinh nghiệm buổi
đầu sau khi đạt được độc lập lại
cho thấy rằng đây là 1 sai lầm buồn
. Độc lập và tự do rất khác nhau
,và lắm khi đạt được cái này ;
lại có nghĩa là chấm dứt cái
kia , và sự thay chỗ cho các vị
chúa tễ ngoại bang bằng 1 bạo
chúa trong nước , lão luyện hơn,
gần gũi hơn , và độc đóan
không giới hạn .
Sự
cần thiết có 1 lời giải thích mới
cho biết cái gì sai , và có
chiến lược để uốn nắn càng
ngày càng trở nên bức thiết và
sôi sục . Cả 2 vấn đề đều được
tìm thấy , trong tình cảm và
bản sắc tôn giáo . Sự lựa chọn
này không mới . Vào nửa đầu
thế kỷ 19 , khi các đế quốc châu
Âu tiến công vào nhiều vùng đất
Hồi giáo, thì sự kháng cự đáng
kể nhất đối với sự tiến công này
nổ ra dưới chiêu bài tôn giáo .
Người Pháp tại Algeria , người Nga
tại vùng Caucase , người Anh tại Ấn
độ , tất cả đều phải đối mặt với
những vụ nổi dậy lớn vì tôn giáo
, những vụ này chỉ bị dẹp tắt
sau những cuộc đàn áp dài ngày và
đầy gian khổ.
Một
giai đọan mới trong việc huy động
tôn giáo bắt đầu bằng 1 phong
trào gọi là chủ nghĩa tòan Hồi
giáo ( pan-Islamism) theo ngôn ngữ
phương Tây . Manh nha vào những
năm thuộc thập kỷ 1860 và 1870 ,
phong trào này học hỏi phần nào
tấm gương của người Đức và người
Ý đã chiến đấu thành công thống
nhất đất nước trong những năm đó
. Những người Hồi giáo cùng thời
khi bắt chứơc tấm gương trên chỉ
nhận mình là tìn đồ đạo Hồi và
đã định nghĩa mục tiêu chiến đấu
của mình bằng những từ ngữ tôn
giáo và cho cộng đồng hơn là
chủ nghĩa dân tộc và ái quốc
, là những từ vẫn còn xa lạ vào
lúc ấy . Nhưng với sự bành trứơng
của ảnh hưởng và giáo dục phương
Tây , những ý tưởng chủ nghĩa quốc
gia và ái quốc này bén rễ và
một thời gian sau chi phối cả 2
mặt chiến đấu và tư tưởng tại
các nước Hồi giáo . Tuy nhiên ,
về tôn giáo , bản sắc và sự trung
thành vẫn còn được cảm nhận sâu
đậm và được thể hiện trong nhiều
phong trào tôn giáo , nhất là
nhóm Huynh đệ Hồi giáo . Khi các ý
thức hệ thế tục bị thất bại một cách
tệ hại , thi những phong trào tôn
giáo trên lại đóng vai trò quan
trọng mới , đứng ra chiến đấu và
nhiều chiến sĩ của các phong
trào này vốn là các nhà họat
động theo chủ nghĩa dân tộc đã
thất bại .
Đối
với nhóm chủ trương chính thống
cũng như nhóm theo chủ nghĩa dân
tộc , các chủ đề về lãnh thổ đều
quan trọng nhưng dưới 1 hình thức
khác, nan y hơn. Lấy ví dụ , đối
với nhóm chính thống nói chung ,
không có hòa bình hoặc nhân nhượng
gì với Israel cả , bất cứ sự
nhượng bộ nào cũng là 1 bước để
tiến tới giải pháp cuối cùng thực
sự - đó là sự xóa sổ nhà nước
Israel ,trả lại đất đất cho
ngườiPalestineHồi giáo , những người
chủ thật sự , còn đối với kẻ xâm
lăng , chỉ có cái chết hoặc trục
xuất . Tuy nhiên , điều này không
có nghĩa là đã làm thỏa mãn các
yêu cầu của nhóm chính thống, yêu
cầu của họ bao gồm mọi vùng đất
tranh chấp khác - thậm chí khi
chiếm được cũng chỉ là 1 phần
trong cuộc chiến đấu lâu dài
nhằm thống trị tòan thế giới.
Chiến
thuật cũ được giữ lại phần lớn ,
phần có tính mạnh bạo trội hơn
nhiều .Khi chiến thắng cũng như
khi thất bại , bọn khủng bố tôn
giáo áp dụng có cải tiến những
phương pháp do các nhà họat động
theo chủ nghĩa dân tộc vào thế kỷ
20 đưa ra , nhất là việc họ không
hề động lòng khi tàn sát những
người vô tội . Sự dững dưng này
đạt đến mức độ mới trong chiến
dịch khủng bố do Usama bin Ladin
t phát động vào đầu thập niên 1990
. Ví dụ đầu tiên là vụ đánh bom 2
tòa đại sứ Mỹ tại Đông Phi vào năm
1998 . Để giết 12 nhà ngọai giao
Mỹ , các tên khủng bố không do
dự tàn sát trên 200 người Phi , đa
số là tín đồ Hồ giáo , tình cờ
có mặt gần đó . Trong số báo ngay
sau những vụ tấn công này , tờ
báo tiếng Ả -rập Al-Sirat al-
Mustaqim của nhóm chính thống ,
xuất bản tại Pittsburg,
Pennsylvania , bày tỏ sự đau buồn
đối với các"tử vì đạo", những
người hy sinh tính mạng trong
các hiến dịch trên và còn đăng
tên những kẻ này theo danh sách
được văn phòng Al Qa’ida tại
Peshawa , Pakistan cung cấp. Người
viết bày tỏ hy vọng"rằng Thượng
đế sẽ… cho chúng ta gặp họ trên
thiên đàng". Sự coi rẻ mạng
người ởmức độ cao hơn là cơ sở
cho những hành động thực hiện tại
New York và Washington vào này 11
tháng 9 năm 2001.
Một
khuôn mặt đáng chú ý trong các
chiến dịch trên là kẻ khủng bố
liều chết . Đây là 1 sự phát triển
mới . Những kẻ khủng bố theo chủ
nghĩa dân tộc của thập niên 1960
và 1970 thường không để mình
cùng chết với nạn nhân mà bố trí
tấn công từ xa . Nếu rủi có bị
bắt , tổ chức của họ thường cố
gắng , đôi khi thành công , tổ chức
giải cứu bằng cách bắt con tin và
hăm dọa sẽ giết hoặc làm hại con
tin . Những sát thủ vì động cơ tôn
giáo , nhất là nhóm Ám sát , không
sợ chết khi làm nhiệm vụ nhưng họ
không hề tự sát . Cũng gặp tình
huống này với các binh sĩ con
nít người Iran trong trậnchiến
1980-1988 chống lại Iraq, bọn
chúng tay chỉ cầm 1 quyển sổ
thông hành lên thiên đường , băng
qua bãi mìn , để dọn đường cho
quân đội chính qui .
Có 1 kiểu mới khi thực hiện
nhiệm vụ tự sát theo đúng nghĩa
của từ này dường như được các tổ
chức tôn giáo như Hamas và
Hiabullah đưa ra đầu tiên , từ
năm 1982 trở đi khi tiến hành một
số vụ như thế tạiLiban và Israel.
Họ tiếp tục trong súôt thập niên
1980 và 1990 , tạo tiếng vang
đến các vùng khác , như tại đông
Thổ nhĩ kỳ , tại Ai câp , tại Ấn độ
, và tại Sri Lanka . Theo cáctin
tức có được , dường như những ứng
viên được chọn thực hiện các
nhiệm vụ này , trừ vài ngọai lệ ,
đều là nam thanh niên , ít tuổi ,
nghèo , xuất thân từ các trại tị
nạn. Họ nhận được 2 phần thưởng
-một sau khi chết , được hưởng ân
phứơc trên thiên đang ,được mô tả
cụ thể ; một trên đời này , là
phần thưởng vật chất , tiền bạc
cho gia đình . Một cải tiến đáng
chú ý là sử dụng phụ nữ để đánh
bom liều chết- do nhóm khủng bố
người Kurd tại Thổ nhĩ kỳ năm
1996-1990 và tạiPalestine từ
tháng giêng 2002 .
Không
giống như các chiến binh thần
thánh hoặc ám sát thời trung cổ ,
là những người sẵn sàng chịu chết
trong tay kẻ thù khi bị bắt ,
những kẻ khủng bố liều chết chết
bởi chính bàn tay của mình . Điều
này đặt ra một câu hỏi quan trọng
về giáo lý Hồi giáo . Các sách luật
Hồi giáo nói rất rõ về đề tài tự
sát . Đây là 1 trọng tội và sẽ
bị trừng phát dưới hỏa ngục đời
đời dưới dạng nếu anh đã tự sát
the kiểu nào thì sẽ bị trừng phạt
theo kiểu đó . Những dòng sau đây
, căn cứ theo lời truyền miệng
của Đấng tiên tri , làm rõ điều
này :
Những
người có thẩm quyền đầu tiên phân
biệt rõ giữa việc đối diện cái
chết trong tay kẻ thù và chết
bởi chính tay mình . Có 1 truyền
thuyết rất xa xưa về hình thức
gọi là hadith quasi , tức
là lời của chính Thượng đế do
Đấng tiên tri trích dẫn , cho
thấy 1 ví dụ điển hình . Đấng
tiên tri có mặt khi một người
tự kết liễu đời mình vì quá
đau đớn do bị thương rất nặng
khi tham gia thánh chiến . Do
vậy Thượng đế phán"kẻ tôi tớ
của ta đã qua mặt ta khi tự tay
lấy đi linh hồn của hắn ; vì thế
hắn sẽ không được lên thiên
đàng" Cũng theo một truyền
thuyết xa xưa khác , Đáng tiên tri
từ chối đọc kinh cầu nguyện trước
thân xác của 1 người bị giết bởi
chính bàn tay của mình .
2
đặc điểm nổi bật trong các
cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 và
những hành động tương tự khác : sự
sẳn sàng tự sát của các thủ phạm
và tính tàn nhẫn của những kẻ
sai phái họ , bao gồm kẻ được
giao nhiệm vụ lẫn với vô số các
nạn nhân . Liệu những đặc điểm
này có mặt nào được coi là
phù hợp với đạo Hồi ?
Câu
trả lời rõ ràng là không .
Sự giết chóc nhẫn tâm hàng ngàn
người tại Trung tâm thương mại thế
giới (WTC ) bao gồm nhiều người
không phải là người Mỹ , trong số
đó có nhiều tín đồ đạo Hồi đến
từ các quốc gia Hồi giáo , không
hề được biện minh bởi luật pháp
hoặc học thuyết Hồi giáo và
không hề có tiền lệ trong lịch sử
Hồi giáo . Thực vậy , không có mấy
hành động mang đầy cái ác một
cach cố ý và bừa bãi như thế
trong lịch sử nhân lọai . Đó không
những chỉ là tội ác đối với nhân
lọai và chống lại văn minh ; mà
đó cũng là những hành động – theo
quan điểm Hồi giáo - có tính báng
bổ , đối với những kẻ nhúng tay
vào các tội ác như thế lại cho rằng
việc làm của mình nhân danh Thượng
đế , Đấng tiên tri và lời dạy
của người .
Nhiều
người Ả -rập và tín đồ Hồi giáo bị
sốc và kinh sợ đối với vụ tấn
công Trung tâm thương mại thế giới
khi thấy sự tàn phá và chết chóc
khủng khiếp , kèm theo sự hổ
thẹn và giận dữ khi sựtấn công
này được ra tay nhân danh họ và
nhân danh đức tin của họ . Đây
là phản ứng của nhiều người-
nhưng không phải là của tất cả.
Có đủ những tường thuật và cả
hình cảnh cảnh vui mừng trên các
đường phố tại các thành phố Ả
-rập và các nước Hồi giáo khác khi
nghe sự việc xảy ra tại New York .
Về một mặt nào đó , phản ứng này
có tính ganh ghét - một tình cảm
khá phổ biến , dưới một hình
thức câm lặng hơn , tại châu Âu .
Trong đám kẻ nghèo và khốn khổ ở
đây , có người cảm thấy hài lòng
- thậm chí có người còn vui sứơng-
khi thấy người Mỹ giàu có và tự
mãn được cho một bài học.
Còn
phản ứng của báo chí Ả -rập đối
với vụ tàn sát tại New York và
Washington là 1 sự cân bằng khó
chịu giữa chấp nhận và từ chối ,
khá giống với phản ứng của họ đối
với nạn diệt chủng Do thái tại châu
Âu trong thế chiến thứ 2 ( Holocaust) . Về nạn diệt chủng ,
có 3 quan điểm không phải là ít
gặp trên các phương tiện truyền
thông tiếng Ả -rập: sự việc này
chưa bao giờ xảy ra ; bị phóng đại
quá đáng ; đáng đời bọn Do thái .
Về quan điểm thứ 3 , một số nhà
báo táo gan còn trách là Hitler
đã không làm xong công việc .
Không ai công nhận rằng vụ
phá họai tòa nhà Trung tâm thương
mại thế giới là chưa bao giờ xảy
ra , qua thời gian ai cũng công
nhận là vụ này vốn do các tay
chuyên nghiệp dàn dựng . Ý kiến
hiện nay của các nhà bình luận
Hồi giáo , dù không phải là tất
cả , biện giải rằng không có
tìn đồ Hồi giáo hoặc người Ả -rập
nào làm việc này . Thay vào đó
, họ đưa ra những cách giải thích
khác . Trong số đó bao gồm bọn Mỹ
theo chủ nghĩa người da trắng là
siêu đẳng , ý muốn nói đến vụ
Oklahoma do Timothy McVeigh ;
những người chống đối tòan cầu hoá
; người châu Âu , người Tàu và
những người chống đối kế họach
lá chắn phòng thủ tên lửa ;
người Nga tìm cách trả thù cho sự
sụp đổ của Liên xô ; người Nhật
muốn trả thù vụ Hiroshima cố cựu ;
và nhiều lý do đại lọai như thế .
Một tay bình luận thậm chí còn
cho rằng vụ tấn công 11/9 là do
Tổng thống Bush dàn dựng , nhằm
đánh lạc hướng vụ việc ông ta thắng
cử bởi"một thiểu số nhỏ nhoi
không đủ để bầu 1 nhân viên hội
đồng xã tại miền Thượng Ai cập"
Bình luận gia này cũng gán Colin
Powell là kẻ đồng phạm của 2
đời Tổng thống Bush .
Cho
tới nay , lời giải thích phổ biến
nhất , với ít nhiều thay đổi ,
qui kết tội ác là do kẻ thù ưu
ái của họ - đó là Israel , là
Mossad ( theo một số người , có
sự tiếp tay của CIA) , là hội Trưởng
lão Israel , hoặc đơn giản và
đầy đủ nhất , là"bọn Do thái".
Làm như thế cho phép họ ngay lập
tức nâng cao ý nghĩa của vụ tấn
công và đồng thời cũng gạt
phắt sự liên quan của mình .
Động cơ để đổ thừa cho người Do
thái là nhằm làm cho người Ả
-rập và tín đồ Hồi giáo nói
chung vô can và để chia rẽ
người Do thái và người Mỹ , Một
bình luận viên người Jordan đóng
góp 1 chủ đề bổ sung khá thú
vị- là "các tổ chức Zion" gây
ra vụ tấn công này để Israel lấy
cớ phá huỷ đền thờ Aksa Mosque ,
trong khi cả thế giới đang tập trung
chú ý vào nước Mỹ . Cách giải
thích này không ngăn được - ngược
lại , còn khuyến khích - quan
điểm phổ biến về sự việc xảy
ra, đó là tuy gây tội ác ,
nhưng cũng chỉ là ác giả ác báo
cho người Mỹ mà thôi . Có lẽ phản
ứng mãnh liệt nhất - và công
khai nhất - là của tờ tuần báo
của nhóm Hamas, Al-Risala
, tại Gaza , trong số ngày
13/9/2001” Đấng Allah đã đáp
lời cầu nguyện của chóng con”.
Khi
toàn bộ sự kinh hoàng của vụ tấn
côn được biết rõ hơn , một số
cây bút muốn kết tội những kẻ
chủ mưu và bày tỏ lòng trắc ẩn
đối với nạn nhân . Nhưng ngay cả
những người này cũng không chịu bỏ
cơ hội để tố cáo rằng chính người
Mỹ đã tự gây hoạ cho chính mình .
Họ đưa ra 1 bảng liệt kê dài và
chi tiết những tội ác mà người Mỹ
đã làm , bắt đầu bằng việc
chinh phục , chiếm đất làm thuộc
địa và đưa dân đến định cư -
là những từ gây xúc động lòng
người - Tân thế giới cho đến
ngàynay , cũng như danh sách những
nạn nhân đã chết vì sự tham
lam và tàn bạo của người Mỹ tại
châu Á, châu Phi , và châu Mỹ La
tinh.
Usama
bin ladin đã nói rõ cách mà ông
ta cảm nhận cuộc chiến đấu khi
luôn gọi kẻ thù của mình là"đám thập tự binh". Nên nhắc lại
rằng , các Thập tự binh cũng
chẳng phải là người Mỹ hoặc người
Do thái; mà chính là các tín đồ
Cơ đốc tham gia thánh chiến để
dành lại những nơi linh thiêng
đã bị chiếm mất tại các vùng đất
thuộc đạo Cơ đốc . Trong ‘ bức
thư gởi cho nước Mỹ" vào tháng
11/2002 được gán cho Usama bin
Ladin , có nêu chi tiết nhiều
tội ác không những chỉ do chính
phủ Mỹ mà còn do nhân dân Mỹ nhúng
tay vào , và thư này nêu rõ dưới
7 tiêu đề"Những điều chúng tôi
kêu gọi các người và những
điều chúng tôi muốn tù các người". Việc đầu tiên là đi theo
Hồi giáo ; việc thứ 2"các người
ngưng ngay sự áp bức , dối trá ,
thói vô đạo đức và truỵ lạc "; việc thứ 3" nhìn nhận rằng
nước Mỹ là"một quốc gia không có
cá tính hoặc nguyên tắc"; việc
thứ 4 , chấm dứt ủng hộ Israel
tạiPalestine, người Ấn độ tại
Kashmir , người Nga chống lại người
Chechen , và chính quyền Manila
chống lại người Hồi giáo tại
miền nam Philippin; điều thứ 5"
thu dọn đồ đạc và cuốn xéo khỏi
đất nước của chúng ta . Điều này
được coi như là lời khuyên có lợi
cho người Mỹ" đừng để chúng ta
buộc phải gởi các ngươi về nước
khi nằm trong quan tài"; điều thứ
6"ngưng ủng hộ các nhà cầm
quyền thối nát tại đất nước chúng
ta . Đừng xía vào việc chính
trị và phương pháp giáo dục của
chúng ta . Hãy để bọn ta yên ,
nếu không sẽ còn gặp chúng ta
tại New York và Washington ; thứ 7 ,
nên giao tiếp với người Hồi giáo
trên cơ sở quyền lợi và lợi ích
cùng có lợi , thay vì dựa trên
các chính sách nô dịch, cướp
bóc và chiếm đóng . Lá thư
chấm dứt bằng những lời báo cho
người Mỹ biết rằng, nếu họ không
nghe những lời khuyên trên , họ
sẽ bị đánh bại như tất cả các
Thập tự binh trước kia , và"số
phận của họ cũng sẽ giống như bọn
Liên xô sau khi tháo chạy khỏi
Afghanistan , lại phải đối đầu
với sự thất bại về quân sự , sụp
đổ chính trị , tụt nhào về ý thức
hệ và phá sản kinh tế”.
Bảng
cáo trạng dành cho Mỹ trong lá
thư này rất cặn kẻ . Ngoài bảng
liệt kê quen thuộc nêu rõ các mối
bất bình cụ thể , còn có một loạt
những tố cáo chung và riêng .
Những mối bất bình này đều có
nguồn gốc lắm vẻ và dễ truy tìm ,
phản ánh các ý thức hệ kế tiếp
nhau đã tác động đến các chính trị
gia và các chính sách vùng
Trung đông qua nhiều thời kỳ khác
nhau . Một số ý thức hệ đã có từ
thời Quốc xã Nazi , tức là sự suy
đồi và sự thống trị cuối cùng
của người Do thái ; một số từ
thời chịu ảnh hưởng Liên xô , như
sự tham lam và bóc lột của chủ
nghĩa tư bản . Một số nhiều là ý
thức hệ gần đây của châu Âu và
thậm chí có nguồn gốc từ Mỹ , và cả
phe tả lẫn phe hữu . Trong số đ
ócó vấn đề ô nhiễm toàn cầu và
việc Mỹ không ký vào thoả ước
Kyoto ; sự thối nát về chính trị
qua việc tài trợ khi tranh cử ;
việc dành đặc quyền đặc lợi cho"giống da trắng" và những ý
thức hệ từ cánh hữu , là chủ
nghĩa tân Quốc xã , là lời cảnh
báo của Benjamin Franklin về
nguy cơ Do thái làm giảm ưu
thế của giống da trắng . Vai
trò mang điềm gỡ của người Do
thái được nhấn mạnh trong
hầu hết những lời cáo buộc trên .
Ngay
cả những giá trị được khoa
trương về lối sống Mỹ cũng
trở thành tội lỗi và tội ác . Sự
giải phóng phụ nữ được coi là
hành động suy đồi và đem phụ nữ
sử dụng như là "sản phẩm hàng
hoá". Bầu cử tự do có nghĩa là
người Mỹ tự do chọn người lãnh
đạo và vì thế họ phải chịu
trách nhiệm và phải chịu tội cho
những hành động sai trái của
những người lãnh đạo này - tức là
không còn có "kẻ đứng ngoài vô
tội"nữa . Tệ hại hơn cả là sự
tách rời giữa nhà thờ và nhà
nước :” Đáng lẽ đất nước của các
người phải được cai trị bằng
Shariah của đấng Allah được ghi
trong hiến pháp và trong luật
, thì các người lại soạn ra
luật theo ý của mình . các
người tách tôn giáo ra khỏi chính
trị , đi ngược lại bản chất thanh
khiết khẳng định rằng Quyền Tối
thượng là của Thượng đế và Đấng
tạo hoá". Nói tóm lại ," các
người đang sống trong 1 nền văn
minh tệ hại nhất trong lịch sử
nhân loại" Lời phán xét này
còn đáng chú ý hơn nữa khi nó
xuất hiện vào lúc các chế độ độc
tài Quốc xã và Liên xô vẫn
còn hiễn hiện trong ký ức – đó
là chưa nói tới các chế độ chuyên
chế xa xưa được ghi trong sử
mà bin Ladin và đồng bọn thường
viện dẫn.
Lý do cơ bản là hiện nay nước
Mỹ được coi như là nước cầm
đầu phương Tây , của thế giới
Cơ đốc , hoặc nói chung là”
thế giới của những kẻ không có
đạo". Theo nghĩa này , Tổng
thống Mỹ được coi như là người
nối nghiệp của một chuỗi dài
các nhà cầm quyền – tính từ các
hoàng đế Byzantine tại
Constantinople , các hoàng đế LaMã
Thần thánh tại Vienna, Nữ hoàng
Victoria và các đấng quân vương
tại Châu Âu . Ngày nay cũng như
trong quá khứ , thế giới của
những kẻ Cơ đốc không có đạo được
coi như là lực lượng duy nhất
đáng gờm đã cạnh tranh và ngăn
cản sự bành trướng được thần
thánh cho phép của người Hồi giáo
, lực lượng này chỉ kháng cự và làm
chậm nhưng không ngăn cản được
sự chiến thắng cuối cùng , không
thể khác được , và toàn diện
của đạo Hồi .
Không
có gì để nghi ngờ là sự hình
thành tổ chức Al- Qa’ida và
những lời tuyên chiến liên tục
của Usama bin Ladin đã đánh
dấu khởi điểm của 1 giai
đoạn mới đầy tai hoạ trong
lịch sử đạo Hồi và chủ nghĩa
khủng bố . Lý do cho các hành
động của bin Ladin , do chính ông
ta giải thích rất rõ , là sự
hiện diện của Mỹ tại Arabia
trong cuộc chiến vùng Vịnh - là
1 sự xúc phạm đến Thánh địa Hồi
giáo- và việc nước Mỹ sử dụng
Saudi Arabia làm căn cứ để tấn
công Iraq. Nếu Arabia là địa
điểm có tính tượng trưng nhất
trong thế giới Hồi giáo , thì
Baghdad chiếm vị trí thứ 2 , vì
là kinh đô của Caliph trong
vòng nửa thiên niên kỷ và là
bối cảnh của những trang hào
hùng nhất trong lịch sử Hồi giáo
.
Có
1 yếu tố khác có lẽ còn quan
trọng hơn đã thúc đẩy bin ladin
hành động . Trong quá khứ , người
đạo Hồi chiến đấu chống lại
phương Tây bao giờ cũng nhờ những
kẻ thù của phương Tây sự uỷ lạo
, sự khuyến khích và những giúp
đỡ về quân sự và vật chất. Giờ đây
, lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ
, không còn có loại kẻ thù hữu
dụng như thế nữa . Bin Ladin và
đồng bọn nhận ra ngay rằng ,
trong khung cảnh dàn xếp quyền
lực thế giới mới , nếu họ muốn
đánh nhau với Mỹ , họ phải làm
việc này một mình . Vào năm
1991, cùng năm này đế quốc Liên
xô không còn tồn tại , bin Ladin
và đồng bọn khai sinh Al – Qa’ida
, thu nạp nhiều cựu binh tham
chiến tại Afghanistan . Nhiệm vụ
của họ dường như có thể làm cho
người khác sợ hãi , nhưng với họ
thì không hề như thế. Theo cách
nhìn của họ , họ đã đuổi được
người Nga ra khỏi Afghanistan , từ
sự thất bại to lớn này đã dẫn
tới sự sụp đổ của Liên bang Xô
viết . Sau khi đã đánh bại được
1 siêu cường mà họ luôn coi là
đáng sợ , họ cảm thấy sẳn sàng để
chọi với 1 siêu cường khác ; siêu
cường này là nước Mỹ , theo bin
Ladin nhiều lần phát biểu , chỉ
là con hổ giấy .
Các
tay khủng bố Hồi giáo cũng đã từng
bị thúc đẩy bởi những niềm tin
như thế trước đây . Một trong
những phát hiện gây ngạc nhiên
nhiều nhất trong hồi ký của những
kẻ chiếm giữ sứ quán Mỹ tại
Tehran từ 1979 đến 1981 là lúc đầu
họ chỉ có ý định muốn chiếm toà
nhà và giữ các con tin chừng vài
ngày . Sau đó họ thay đổi ý định
khi thấy rõ khi những phát biểu
của Washington cho biết sẽ không
có hành động đáng gờm nào chống
lại họ .Cuối cùng họ thả con tin
, họ giải thích chỉ vì sợ
rằng Ronald Reagan, tổng thống
đắc cử sẽ tiếp cận vấn đề"giống như chàng cao-bồi". Còn bin
Ladin và đồng bọn rõ ràng là
không hề có sự quan tâm như thế
, và sự thù ghét của họ cũng
không bớt đi vì sợ hãi hoặc
giảm đi vì kính nễ. Theo cách
cũ , họ cứ liên tục nhắc là người
Mỹ đã từng cuốn vó ra khỏi Việt
nam , Liban và- điều quan trọng
nhất dưới mắt họ - là rút lui ra
khỏi Somalia . Người ta phát hiện
nhiều điều qua những nhận xét của
bin Ladin trong 1 cuộc phỏng vấu
do John Miller , đài ABC News , vào
ngày 28 /5/1998 :
Chúng
ta đã từng thấy trong
thập niên vừa qua sự suy
yếu của chính quyền mỹ và
sự yếu đuối của lính Mỹ ,
kẻ sẳn sàng gây chiến
tranh lạnh nhưng không hề
chuẩn bị cho những
chiến tranh lâu dài .
Điều này được chứng minh tại
Beirut , chỉ với 2 vụ nổ
lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã
tháo chạy , cho thấy
rằng họ có thể cuốn xéo
trong vòng 24 giờ , và
điều này cũng đã lập lại
tại Somalia … Thanh niên
chúng tôi ngạc nhiên khi
thấy tinh thần của lính
Mỹ thấp đến thế … Chỉ sau
vài cú đánh đấm , là họ
bỏ chạy vì thua ….Họ quên
mất mình là người lãnh đạo
thế giới và lãnh đạo
trật tự thế giới mới . Họ
rút lui , kéo theo các
xác chết binh sĩ và sự
thất bại đầy nhục nhã .
Đối với Usama bin Ladin , lời
tuyên chiến chống lại nước Mỹ
đánh dấu sự phục hồi cuộc tranh
đấu để giành sự thống trị tôn
giáo trên thế giới mở màn thế
kỷ thứ 7 . Đối với ông này và
đồng bọn , đây là thời điểm thuận
lợi . Ngày nay , nước Mỹ là đại
diện cho 1 nền văn minh và thể
hiện vai trò lãnh đạo của Nhà
của Chiến tranh , và giống như
Rome và Byzantine , nước Mỹ đã
thoái hoá , suy đồi đạo đức ,
sẵn sàng bị lật đổ. Tuy nước Mỹ
yếu , nhưng vẫn còn nguy hiểm .
Khomeini đã nói rõ như thế khi
gọi nước Mỹ là tên
"Satan đầu
sỏ" , còn đối với các phần tử
nhóm Al –Qa’ida , sự lôi cuốn
của nước Mỹ với lối sống phóng
đãng , đồi bại sẽ là mối đe
dọa lớn nhất đối với lối sống Hồi
giáo mà họ muốn áp đặt cho
các giáo hữu đạo Hồi .
Nhưng
với nhiều người khác nước Mỹ lại
cống hiến một kiểu quyến rũ
khác – đó là sự hứa hẹn về nhân
quyền , về các định chế tự do và
1 chính phủ có trách nhiệm , đại
diện cho dân . Càng ngày càng có
nhiều cá nhân , thậm chí một số
phong trào , đứng ra cố du
nhập những định chế như thế vô
nước mình . Điều này không hề dễ
dàng. Như đã thấy , nhiều thử
nghiệm tương tự đã trở thành các
chế độ thối nát hiện nay . Trong
số 57 thành viên của Tổ chức Hội
nghị Hồi giáo , chỉ có 1 nước duy
nhất , là Cọng hòa Thổ nhĩ kỳ ,
xây dựng được các định chế dân chủ
trong một thời gian dài , mặc dù
gặp phải nhiều vấn đề khó khăn ,
nhưng cũng đã đạt được nhiều
tiến bộ trong việc xây dựng 1 nền
kinh tế tự do và 1 xã hội và 1
trật tự chính trị tự do .
Tại
2 nước Iran và Iraq , chính phủ
hiện nay chống Mỹ rất mạnh , hiện
đang có những lực lượng dân chủ đối
lập có khả năng lập được
chính phủ .Còn chúng ta , đại diện
cho thế giới tự do , đáng lẽ có
thể làm nhiều việc để giúp họ ,
nhưng lại làm qúa ít. Tại nhiều
nước trong khu vực , có nhiều người
chia sẻ các giá trị của chúng ta ,
có cảm tình với chúng ta , và
cũng muốn có cùng lối sống như
chúng ta . Họ hiểu rõ tự do và
muốn xứ sở của họ được tư do . Quả
là khó khăn nhiều cho chúng ta
khi muốn giúp đỡ họ , nhưng ít
nhất chúng ta không nên cản trở
họ . Nếu họ thành công , chúng ta
sẽ có thêm bạn và đồng minh
theo đúng nghĩa của từ này , không
phải chỉ về mặt ngọai giao .
Trong
khi đó , còn có 1 vấn đề cấp bách
hơn . Nếu những người cầm đầu
Al-Qa’ida có thể thuyết phục thế
giới Hồi giáo chấp nhận quan điểm
và sự lãnh đạo của họ, thế thì
trước mắt là 1 cuộc chiến đấu lâu
dài và đầy gian khổ , không
những chỉ dành cho nước Mỹ. Châu
Âu , nhất là Tây Âu hiện nay, là
nơi cư trú của 1 cọng đồng Hồi
giáo đông đúc và ngày càng lớn
mạnh , và nhiều người châu Âu
bắt đầu xem sự có mặt của cọng
đồng này là 1 vấn đề , thậm chí
là sự đe dọa. Chẳng chóng thì
chầy , Al- Qa’ida và đồng bọn sẽ
đụng độ với các nước láng giềng
của thế giới Hồi giáo- đó là nước
Nga, Trung quốc, Ấn độ - là những
nước có thể sẽ chẳng nhẹ tay như
nước Mỹ khi sử dụng vũ lực để
chống lại tín đồ Hồi giáo và
những điều ràng buộc thiêng
liêng của họ . Nếu nhóm chủ
trương chính thống tính tóan đúng
và thành công trong cuộc chiến ,
thì quả là 1 tương lai đen tối
sẽ dành cho thế giới , nhất là
phần thế giới đang theo Hồi giáo.
Lời bạt
Sự can
thiệp quân sự của Mỹ tại
Afganistan và sau đó tại Iraq
nhằm 2 mục tiêu công khai : mục
tiêu thứ nhất và sát trước mắt
hơn , là nhằm ngăn chận và đánh
bại khủng bố ; mục tiêu thứ 2 là
mang lại tự do , đôi khi được gọi
là nền dân chủ , cho nhân dân
các nước này và một số nước
trong vùng .
Những kẻ bảo
trợ và tổ chức chính sách khủng
bố gồm có 2 nhóm nhằm vào các
mục đích rất khác nhau , mặc
dù họ có khả năng cọng tác và
đã từng làm như vậy tường xuyên
. Một nhóm có tính địa phương
gồm những tàn dư của chế độ Iraq
trước kia , nhóm này được chính
quyền của một số nước trong
vùng khuyến khích và đỡ đầu
vì họ cảm thấy nguy hiểm bởi
những gì đang xảy ra tại Iraq.
Mục đích của những nhóm này
là bảo vệ - hoặc trong trường
hợp Iraq , là phục hồi – các chế
độ chuyên chế thâm căn cố đế
tại các nước này . Nếu người Mỹ
quyết định từ bỏ chiến dịch quá
tốn kém và nhiều phiền phức
này rồi rút về nước , như nhiều
người cố xui , thì điều này
cũng đủ làm hài lòng các nước
trong vùng bảo trợ cho khủng bố
. Một số nước còn đề xuất là sẽ
khôi phục những mối quan hệ hữu
nghị .
Còn nhóm
khủng bố kia coi việc hất cẳng
Mỹ ra khỏi Afghanistan và Iraq
chỉ là 1 bứơc khởi đầu - tức
là chỉ mới thắng có 1 trận đánh
chứ chưa thắng 1 cuộc chiến , chỉ
là 1 bứơc trong 1 cuộc chiến
tranh dài và lớn hơn cho đến
khi nào dành được thắng lời
hòan tòan trên phạm vi tòan cầu .
Người Mỹ
cũng vậy , tuyên bố sự can thiệp
của họ là nhằm 1 mục đích dài
và rộng lớn hơn; không những
chỉ đánh bại và chấm dứt được
chính sách khủng bố , mà còn để
giúp cho nhân dân các nước
Afghanistan và Iraq vốn bị áp
bức từ lâu , và cuối cùng là
nhân dân các nước khác, cơ hội
đọan tuyệt với các chế độ thối
nát và áp chế đã đè nén
họ hàng chục năm dài và để phục
hồi hoặc hình thành 1 trật tự
chính trị vì dân và được nhân
dân kính trọng . Điều này được
nhiều người trong vùng ủng hộ
mạnh mẻ . Nhưng , do những gì đã
xảy ra trong qúa khứ và thực trạng
hiện tại , sự ủng hộ này còn
khá dè dặt .
Điều chắc
chắn là , việc hình thành 1 nền
dân chủ tại Trung đông sẽ không dễ
dàng hoặc nhanh được, như đã
từng xảy ra tại châu Âu hoặc tại
châu Mỹ . Tại Trung đông , sự
hình thành này phải trải qua nhiều
giai đọan . Quá nhanh hoặc quá
xa chỉ tạo nên những lợi thế
trước mắt cho những kẻ có lắm
thủ đọan và dọa nạt . Algeria là
1 ví dụ cho thấy có khi lại dẫn
đến sự xung đột dữ dội giữa 2
nhóm .
Hình thái
độc tài tồn tại hiện nay tại
Trung đông trên nhiều mặt đó
là kết qủa của sự cải cách
, rập khuôn và chịu ảnh hưởng
của châu Âu . Hình thái này chỉ dẫn
tới một mô hình chính trị châu
Âu duy nhất có tác dụng tại Trung
đông - đó là nhà nước chỉ có 1
đảng chính trị , hoặc theo kiểu
quốc xã hoặc kiểu Cọng sản ,
nhưng thực ra chẳng khác nhau
mấy . Trong các hệ thống này , đảng
chính trị không hề giống như tại
châu Âu , là tổ chức để thu hút
phiếu bầu và thắng cử , mà là 1
phần của bộ máy nhà nước
chuyên lo việc nhồi sọ và cưởng
chế . Đảng Ba’th có 2 nguồn gốc
, vừa phát-xit vừa Cọng sản ,
và hiện nay vẫn còn đại diện đắc
lực cho cả 2 xu hướng này .
Nhưng
ngoài những khuynh hứơng này ra ,
còn có các truyền thống xưa hơn ,
được thể hiện khá rõ trong ngôn
ngữ chínhtrị và kinh nghiệm chính
trị tại Trung đông : đó là truyền
thống chính phủ cai trị bằng luật
pháp , bằng sự đồng thuận , kể
cả bằng giao ứơc .
Những thay
đổi về mặt tinh thần của những
truyền thống này sẽ tạo cơ hội
cho các hình thái Hồi giáo khác
ngoài sự cuồng tín điên rồ và bất
dung của đám khủng bố. Dù rằng
hiện nay nhóm khủng bố được nhiều
người đồng tình và cung cấp tiền
bạc dồi dào , nhưng hình thái này
không hề đại diện cho dòng Hồi
giáo chính thống từ nhiều thế kỷ
. Các truyền thống ra lệnh và
tuân thủ qủa thực đã bám rễ
lâu đời , nhưng cũng có những
yếu tố khác trong truyền thống
Hồi giáo góp phần xây dựng 1 hình
thức cai trị cởi mở và tự do hơn :
đó là việc các nhà luật học truyền
thống từ bỏ nguyên tắc chuyên chế
và độc đóan và thay vào đó bằng
các giao ứơc khi xây dựng và
lấy ý kiến đồng thuận về đạo
đức cầm quyền , tính bó buộc tuân
thủ luật pháp của tất cả mọi
người , từ bậc vua chúa lắm
quyền đến những kẻ hèn mọn nhất
. Một yếu tố nữa đó là sự chấp
nhận , đúng ra là cần có sự
khoan dung , được thể hiện qua
những lời dạy trong kinh Qur’an :”
trong tôn giáo không được ép
buộc" và truyền thống xa xưa"sống hòa hợp trong cọng đồng là
nhờ ơn Chúa ". Điều này còn
được phái Sufi đưa đi xa hơn
nữa chủ trươgn cần có đối thọai
giữa các tín niệm để cùng
tìm ra phương cách thỏa mãn
được các khát vọng chung .
Cố gắng
mang lại tự do cho vùng Trung
đông khơi lên 2 nỗi lo sợ :
một tại nước Mỹ , và nhiều
hơn nữa tại châu Âu, đó là cố
gắng này sẽ thất bại ; nỗi sợ kia ,
từ các nhà lãnh đạo hiện nay
trong vùng , là cố gắng này sẽ
thành công . Điều chắc chắn là ,
các chính sách về tự do hóa chính
trị tại Afghanistan và Iraq tạo
nên mối đe dọa chí tử cho các
chế độ chỉ có thể tồn tại bằng
cách duy trì bộ máy chuyên chế
trong nước và sự khủng bố ở nước
ngoài . Kẻ thù của tự do rất nguy
hiểm , không chút nương tay , không
hề có chút trắc ẩn hoặc hối hận ,
ngay cả đối với người dân trong
nước . Chúng sẳn sàng đem không
những chỉ bản thân và gia đình
, mà cả quốc gia để hy sinh đánh
bom liều chết nhằm với mục đích
là làm thất bại và đuổi cổ kẻ
thù vô đạo và xây dựng uy quyền
của mình .
Việc hình
thành 1 xã hội tự do , không phải
là việc dễ dàng như lịch sử của
các nền dân chủ hiện có trên thế
giới đã minh chứng . Kinh nghiệm
của cọng hòa Thổ nhĩ kỳ trong nửa
thế kỷ vừa qua và của một số quốc
gia Hồi giáo khác gần đây hơn đã
cho thấy 2 điều : một là , qủa
là rất khó mà hình thành 1 nền
dân chủ trong 1 xã hội như thế và
hai là , mặc dù khó nhưng không
phải là không thể được . Qua nghiên
cứu lịch sử Hồi giáo cùng các
truyền thống chính trị Hồi giáo to
lớn và phong phú , người ta tin
rằng có thể xây dựng được các
định chế dân chủ - không nhất
thiết phải theo cách định nghĩa
của phương Tây về thuật ngữ đã sử
dụng sai quá nhiều này , mà căn
cứ vào lịch sử và văn hóa của
chính họ , để họ tự xây dựng 1
nền cai trị theo luật , có
thảo luận và cởi mở , trong 1 xã
hội văn minh và nhân văn . Điều
này một mặtphù hợp với văn hóa Hồi
giáo truyền thống và mặt khác
cũng hợp với kinh nghiệm hiện
đại của nhân dân Hồi giáo nhằm
tạo ra 1 cơ sở để thẳng tiến
trên con đường đi tới tự do
theo đúng nghĩa của từ này.
Các lực
lượng chuyên chế và khủng bố vẫn
còn rất mạnh và ta cũng chưa
biết sẽ dẫn đến hậu qủa như thế
nào . Nhưng do cuộc đấu tranh vẫn
còn hòanh hành ngày càng mạnh ,
một số sự việc trước đây còn mù mờ
nay đã rõ dần . Cuộc chiến chống
lại khủng bố không thể tách
rời đòi hỏi phải có tự do ,
và không thể thành công nếu
thiếu 1 trong 2 điều kiện . Cuộc
chiến đấu này không chỉ còn khu
trú tại 1 hoặc 2 quốc gia , như
một số người châu Âu vẫn nghĩ ,
nhưng đã mở rộng sang tòan cả
vùng trung đông và sau đó tòan thế
giới , mà tất cả chúng ta đều
phải gánh chịu nhiều hậu qủa sâu
sắc .
Nếu tự do
thất bại , khủng bố chiến thắng ,
các dân tộc Hồi giáo sẽ là
những người gánh chịu hậu qủa
trước tiên và nặng nề nhất . Không
phải chỉ có mình họ, mà nhiều
người khác cũng phải lãnh đủ như
họ .
01/Tháng 12/
2003 Princeton N.J. Bernard Lewis
0 nhận xét:
Đăng nhận xét