Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

NHÂN VẬT MARY TRONG CA-TÔ GIÁO RÔ-MA 1

[Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu]

Trần Chung Ngọc




28 tháng 5, 2008


II. Mary Ngoài Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo

Trong Phần I chúng ta đã thấy, trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo (Bible), nhân vật Mary được nói đến rất ít, ngoài huyền thoại được thánh ma (Holy Ghost) làm cho mang thai và sinh ra Giê-su, một huyền thoại mà ngày nay chẳng mấy ai còn có thể tin được trước những khám phá của khoa học về con người và vũ trụ, và trước những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của các bậc thức giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô Giáo, Tin Lành cũng như Ca-Tô Giáo Rô-ma.
Tuy nhiên, những điều về Mary không hề có trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo mà Giáo hội Ca-Tô Rô-ma bắt các tín đồ phải tin thì rất nhiều và không ngoài mục đích là tạo sự sùng bái [cult] Mary trong đám giáo dân thấp kém bất kể sự thật. Thực chất tất cả chỉ là những sơn phết, vẽ vời, tô điểm gượng gạo, phi lý trí, phản khoa học để mê hoặc tín đồ, nhất là không hề có căn bản trong Tân ước.. Ngoài ra Giáo hội Ca-Tô khắp nơi cũng còn dàn dựng ra những vụ hiện thân của Mary để đẩy mạnh sự sùng bái của tín đồ và đưa đến những lợi nhuận vật chất to lớn cho Giáo hội. Điều này đã được chứng minh trong bài “Những Vụ Hiện Thân Của Mary”, đã có trên giaodiemonline.com
Điều hiển nhiên ngày nay là những danh hiệu ngoài Kinh điển Giáo hội Ca-tô Rô-ma gán cho Mary đã trở thành vô nghĩa và hoang đường trước những tiến bộ trí thức của con người về vũ trụ, về Tiến hóa sinh học, về sinh lý học v..v… vì tất cả những danh hiệu này đều dựa trên những huyền thoại mà ngày nay đã không còn chỗ đứng trong các xã hội tân tiến, thí dụ như “tội tổ tông” mà ngay cả những nhà thần học cũng như những bậc lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo đã từ bỏ từ lâu.. Sau đây, chúng ta hãy duyệt qua vài danh hiệu của Mary mà Giáo hội Ca-Tô Rô-Ma dựng lên như là các tín lý (dogma) và bắt các tín đồ phải tin, không tin thì không được lên thiên đường “mù” của Chúa Giê-su.

1. Giáo lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary [Perpetual Virginity].
Giáo lý này bắt nguồn từ sự tin nhảm tin nhí của thời bán khai là con “Thánh Ma’ [Holy Ghost] mà người Ca-Tô Việt Nam thường gọi là “Chúa Thánh Thần”, có thể làm cho cô bé Mary mang thai mà không cần đưa vào tử cung của cô hai loại “nhiễm sắc tố định giống” (sex chromosomes) X và Y của đàn ông để Mary có thể sinh ra một đứa con trai là Giê-su.
Đó là thời mà không có ai biết gì về những sự khác nhau về nhiễm sắc tố (chromosomes) X, Y của đàn ông và X,X của đàn bà, và nhất là chưa biết gì về bưồng trứng [ovum] của phụ nữ. Giáo lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary dạy rằng: “sau khi sinh ra Giê-su Mary không hề có liên hệ tình dục với chồng là Joseph, và không sinh thêm một đứa con nào khác” [In Catholic tradition, Mary is referred to as the Virgin Mary because of the doctrine of her perpetual virginity: even after giving birth to Jesus she never had sexual relations with her husband, Josephus, and never gave birth to more children.] Nhưng Tân ước đã viết rõ, như chúng ta đã biết, là Joseph chỉ không giao hợp cùng Mary, hay nói cho lịch sự hơn, không “xâm phạm trinh tiết” của Mary, nếu Mary còn trinh tiết, cho đến sau khi Mary đã sinh ra đứa con trai đầu lòng và đặt tên là Giê-su [Bible, King James Version: Matthew 1: 25: and Joseph did not know her till she had brought forth her “firstborn” son. And He called his name Jesus], và Tân Ước cũng viết rõ, Giê-su thực sự có 4 người em trai và ít nhất là 2 người em gái, Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon? And are not his sisters here with us?), và trong nhiều đoạn khác trong Tân ước có ghi rõ họ đều là em của Giê-su, và còn ghi rõ James là em ruột Giê-su.. [Xin đọc: (John 2:12); Matthew 12:46-50; Matthew 27: 56; Mark 3:31-35; Luke 8:19-21; Acts 1:13-14; 1 Corinthians 9:5; Acts 12:17; 15:13; Galatians 1:18-19]
Vì những điều viết rõ ràng trong Tân ước như trên nên trong “Bức Tâm Thư 2, Kính gởi : Quí Vị Tín Hữu Công Giáo” chính Linh mục Bùi Đức Hạnh cũng phải xác nhận là bà Mary không còn trinh như sau:
Bà Maria chỉ đồng trinh khi sanh Chúa Jê-sus mà thôi, vì Kinh Thánh đã xác nhận Bà Maria và Ông Giu-se là vợ chồng nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Chúa Jê-sus được sinh ra.
‘Thiên sứ hiện đến cùng Giu-se, nói cùng người rằng: Ngươi chớ ngại lấy Maria làm vợ, vì Con mà người chịu thai đó là bởi Đức Thánh Linh’ (Ma-thi-ơ 1:20) ‘Giu-se đã theo lời thiên sứ mà đem vợ về ở với mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi người sinh con trai đặt tên là Jê-sus’. (Ma-thi-ơ 1:25)
Giả như nếu Giu-se không nghĩ đến chuyện vợ chồng thì việc gì ông phải bối rối và lẽ gì Thiên sứ lại bảo Giu-se lấy Maria làm vợ?
Giả như Maria trọn đời đồng trinh thì tại sao lại bằng lòng làm vợ của Giu-se và phải nhắc đến việc ‘ăn ở với nhau’? Vâng, họ chỉ đã không ăn ở với nhau cho đến khi sanh chúa Cứu Thế Jê-sus…’
Kinh thánh lại còn xác nhận :’Người sanh con trai đầu lòng’ (Lu-ca 2:7) (Thánh Lu-ca ghi chép điều này khoảng 60 năm sau chúa Giáng sinh, lúc ấy nhiều người quen biết với gia đình Ông Giu-se + Maria còn sống (tr 12). Nếu quả thật bà Maria trọn đời đồng trinh, chắc chắn Lu-Ca phải viết là ‘người sanh con trai duy nhất’). Đã có con đầu lòng thì phải là còn có con khác, bà Maria đã không khấn hứa trọn đời đồng trinh vì bà đã hứa hôn với ông Giuse trước khi thiên sứ truyền tin.
‘Thiên sứ Gáp-ri-en tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma ria đã hứa hôn với một người nam tên là Giu-se và dòng vua Đa-vít’ (Lu-ca 1:27)
Những câu Kinh Thánh trên đây chắc đã không làm cho một ai lúc sinh thời của hai ông bà thắc mắc hai người có phải là vợ chồng nhau hay không ? Kinh Thánh nói về bổn phận của vợ chồng: (I Cô-rinh-tô 7: 45)
Kinh Thánh xác định việc vợ chồng trao trả phần xác thịt cho nhau là cần thiết. Ông Giu-se và bà Maria sau khi sinh Chúa Jê-sus thì có thêm con trai và con gái với nhau là hiệp lẽ. Dân chúng cũng lầm tưởng Đức Chúa Jê-sus như những đứa con khác của ông bà, vì họ không biết bà Maria chịu thai bởi Thánh Linh. ‘Có phải Ngài là con người thợ mộc chăng? Mẹ Ngài có phải là Maria và anh em Ngài là Gia-cơ, Giô-sép, Simôn và Giu-đa, chị em Ngài đều ở giũa chúng ta chăng?’ (Ma-thi-ơ 13:54-56; Mác 6:3)
Dân chúng biết rõ như vậy, nên khi nói bà Maria và các con đi tìm gặp Chúa thì đã nói tự nhiên :
‘Mẹ Thầy và các em Thầy tìm gặp Thầy’ (Ma-thi-ơ 12:47; Mác 3:32)
Kinh Thánh còn nói : Maria mẹ Chúa Jêsus cùng là mẹ của Gia-cơ và Giô-sép.
Những chi tiết này chứng tỏ Mary không thể nào còn trinh, hoặc giả giáo hội bắt chước Thúy Kiều nói: “Chữ Trinh còn một chút này” nhưng “chữ Trinh’ không phải là “màng Trinh”, mà giáo hội lại chỉ quan tâm đến cái màng trinh của bà Mary mà thôi.. Chúng ta cũng biết, Joseph và Mary ở cùng nhau như vợ chồng, ít ra là đến khi Giê-su khôn lớn, vậy quý vị có tin rằng trong từng ấy năm ở với nhau như vợ chồng mà Mary vẫn còn trinh nguyên, màng trinh chưa hề rách, kể cả sau khi sinh ra Giê-su? Điều này tôi có thể tạm giải thích được như sau, là Joseph đã già và bất lực. Nhưng sau đó Mary lại sinh thêm 4 đứa con trai và ít nhất là hai đứa con gái, vậy thì chúng là con của những ai? Do đó, tín lý về Sự Trinh Nguyên Vĩnh Viễn của Mary, và nhiều tín lý khác của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma hoàn toàn phi lý. Nhưng ngày xưa, Giáo hội giữ độc quyền diễn giải cuốn Kinh của Ki Tô Giáo (Bible) và tín đồ thì chẳng bao giờ đọc Cựu Ước cũng như Tân ước, cho nên Giáo hội dạy sao thì tín đồ cứ việc mà tin theo. Đây chính là truyền thống của Giáo hội, và trong truyền thống này, hầu hết các giáo dân trong những ốc đảo ngu dốt [từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh] đều quên mình trong vâng phục, do đó bắt buộc phải tin những điều Giáo hội muốn họ tin. Chỉ tội nghiệp cho số tín đồ cứ tiếp tục tin bướng tin càn vào những điều “không thể tin được”. Chúng ta cũng nên biết là Giáo hội đã đưa ra một số luận điệu ngụy biện rằng đó là “anh em họ” của Giê-su, hoặc là “con người vợ trước” của Joseph, nhưng các học giả nghiên cứu Tân ước đã hoàn toàn dứt khoát bác bỏ những luận điệu ngụy biện vô căn cứ này, vì chúng hoàn toàn mâu thuẫn với những bằng chứng trong Tân Ước..
Từ sự tin nhảm tin tin nhí vào cái thuyết sáng tạo với “tội tổ tông” mà ngày nay không còn mấy người tin, trừ đám tín đồ thấp kém đã bị các “cha nhà thờ” nhồi sọ trong nhà thờ và bị các bố mẹ thuộc loại “những bà lão Công giáo nhà quê” [từ của Linh Mục Thiện Cẩm] truyền sự mê tín của mình xuống hàng con cháu trong gia đình từ nhỏ, Giáo hội Ca-Tô đã đưa ra tín lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary để dạy tín đồ rằng Mary là người duy nhất vừa là một người mẹ [đã sinh con, không phải chỉ có mình Giê-su mà còn sinh nhiều con khác] vừa là một trinh nữ [Mary's perpetual virginity means that she is the one human to be both a mother and a virgin]. Giáo hội dạy tín đồ rằng “tội tổ tông” của loài người là do đường tình dục truyền đời này sang đời khác từ Adam và Eve, và Eve là nguyên nhân của tội lỗi vì đã quyến rũ Adam và xúi dục Adam ăn trái cấm để tạo thành tội tổ tông cho nhân loại. Cựu Ước viết: “Tội lỗi bắt đầu từ một người đàn bà và vì người đàn bà này mà tất cả chúng ta đều phải chết” [Sin began with a woman and thanks to her we all must die" Ecclesiasticus, 25:18, 19 & 33.] Giáo hội coi vấn đề tình dục là xấu xa, tội lỗi và nhiệm vụ của phụ nữ chỉ là cầu nguyện, sinh con, và đóng tiền cho nhà thờ (The three P’s: Pray, Procreate, and Pay). Trong 7 núi tội ác của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma mà Giáo hoàng John Paul II xưng thú cùng thế giới có khoản “kỳ thị phụ nữ”. Giáo hội đã kỳ thị phụ nữ như thế nào? Đọc những lời kỳ thị phái nữ của các Thánh Ca-Tô chúng ta thấy họ ngu không thể tưởng tượng được, và tôi có cảm tưởng là trong Ca-Tô Giáo Rô-ma, không ngu thì không thể thành Thánh được. Ngay cả những Thánh Thượng Phụ nổi tiếng trong Ca-Tô Giáo Rô-ma như Augustine hay Aquinas, trước bộ kiến thức của nhân loại ngày nay, thì cũng đều là ngu cả. Thật vậy chúng ta ta hãy đọc vài lời “Thánh phán” về phái nữ, do sự tin vào những điều nhảm nhí viết trong Cựu ước:
Thánh Tertullian phán:
“Các người không biết sao là mỗi người trong các người (phụ nữ) là một Eve. Hình phạt của Thiên Chúa đối với giống nữ của các người vẫn còn tồn tại trong thời đại này: tội lỗi của các người cũng vẫn còn. Các người là cửa ngõ của quỷ: các người đã xâm phạm cái cây bị cấm; các người là người đầu tiên trốn khỏi luật của Thiên Chúa: Các người là người đàn bà đã thuyết phục được người đàn ông (Adam) mà con quỷ cũng không đủ dũng cảm để tấn công. Các người đã phá hủy quá dễ dàng hình ảnh của Thiên Chúa, người đàn ông. Vì các người mà ngay cả Con của Thiên Chúa cũng phải chết”
[St. Tertullian (about 155 to 225 CE): Do you not know that you are each an Eve? The sentence of God on this sex of yours lives in this age: the guilt must of necessity live too. You are the Devil's gateway: You are the unsealer of the forbidden tree: You are the first deserter of the divine law: You are she who persuaded him whom the devil was not valiant enough to attack. You destroyed so easily God's image, man. On account of your desert even the Son of God had to die.]
Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền “Thần học đoán mò” (từ của Ngô triệu Lịch) Ca Tô và được Ca Tô Giáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Của Thiên Chúa (City of God)):
"Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Thiên Chúa.., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thiên Chúa."
(The woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.)
“Có gì khác nhau giữa một người vợ và một người mẹ, cả hai đều là Eve, kẻ quyến rũ mà chúng ta phải coi chừng trong bất cứ người đàn bà nào.. Tôi không thể thấy là người đàn bà có thể có ứng dụng gì cho người đàn ông, nếu chúng ta bỏ đi nhiệm vụ sinh con.”
["What is the difference whether it is in a wife or a mother, it is still Eve the temptress that we must beware of in any woman......I fail to see what use woman can be to man, if one excludes the function of bearing children.]
Thánh John Chrysostom (347-407):
"Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như một người đàn bà"
(Among savage beasts none is found so harmful as a woman)
Thánh Anthony (1195-1231):
"Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn."
(When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)
Thánh Thomas Aquinas (1225 to 1274 CE):
“Về bản chất của con người, người đàn bà thì khiếm khuyết và được sinh ra một cách nhầm lẫn, vì hiệu lực của hạt giống của đàn ông là để tạo ra một giới nam toàn hảo; trong khi sự tạo ra một phụ nữ là do sự khiếm khuyết của cái hiệu lực trên.”
[As regards the individual nature, woman is defective and misbegotten, for the active power of the male seed tends to the production of a perfect likeness in the masculine sex; while the production of a woman comes from defect in the active power.... Thomas Aquinas, Summa Theologica, Q92, art. 1, Reply Obj. 1]
Ở trên cõi đời này, chúng ta có thấy ai ngu như những Thánh Ca-Tô như trên không? [Tôi thường dùng từ “ngu” trong một số bài và có người cho đó là thiếu văn hóa. Nhưng đã nhiều lần tôi giải thích là tôi dùng từ “ngu” trong thuật ngữ Phật Giáo, nghĩa là không biết rõ sự thật về một vấn đề nào đó chứ không phải là “đầu óc ngu muội”. Do đó người “ngu” rất có thể là chính tôi, nếu tôi không biết rõ sự thật về một vấn đề nào đó mà viết lên những điều tôi không biết rõ mà lại viết bậy] Và đây là những Thánh rất nổi tiếng trong Ca-Tô Giáo Rô-ma mà các giáo dân tôn sùng coi như là “thánh sống”. Các Thánh đã ngu như vậy thì con chiên, nhất là con chiên Mít còn ngu tới đâu. Chẳng ngu mà cho tới ngày nay mà trên diễn đàn tiengnoigiaodan.net, trong bài “Cơ chế tổ chức, quyền bính và trách nhiệm của hàng giáo phẩm (Hierachy) trong Giáo Hội Công Giáo”, Lm. Ngô Tôn Huấn còn dám viết như sau:

Theo giáo luật, thì hệ thống cai trị, quyền bính và trách nhiệm trong Giáo Hội được tổ chức và phân chia như sau :
Ở thượng tầng cơ chế này thì Đức Giáo Hoàng là thủ lãnh tối cao với quyền bính và trách nhiệm mà Chúa Ki tô đã trao trước hết cho Thánh Phê rô, Tông Đồ trưởng, và các vị nối ngôi kế tục. (x. Mi 16:19;Ga 20:15-16). Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận và tuân phục Đức Giáo Hoàng La Mã là vị Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Ki tô trên trần thế và là người kế vị Thánh Phê rô trong nhiệm vụ chăn dắt toàn thể Giáo Hội.
trong khi các học giả ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội Ca-tô đã dứt khoát bác bỏ cái giáo điều ngụy tạo về các giáo hoàng đều là người kế vị Phê-rô và là đại diện của Chúa Ki Tô. Vấn đề này tôi cũng đã phân tích đầy đủ trong phần đầu của cuốn sách “Người Việt Nam và Đạo Giê-su”, đã có đăng trên trang nhà sachhiem.net. Tuy nhiên, tưởng cũng không phải là vô ích khi nhắc lại một nhận định rất chính xác của Linh mục Joseph McCabe trong cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Ca Tô Rô-ma (The Truth About The Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942):

“Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Ca Tô Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính cách lãng mạn nhất. Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng ngỗ ngược, phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng. Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô. Không có từ đó trong tiếng Aramic. Giê-su đã phải nói là “Giáo đường” [nơi tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét những Giáo đường.”
(Of all the fictions which still shelter from the storm of modern criticism under the leaky umbrella of “Catholic Truth”, the legend of the divine foundation of the Papacy and the Papal system is quite the boldest and most romantic. No divine force, but a pitifully human series of forgeries and coercions, of pious frauds and truculent ambitions, perpetrated in an age of deep ignorance, built up the Papal power, hierarchy and creed…The word “church” had no meaning at all in the days of Christ and Peter.There was no such word in Aramaic.Christ would have had to say “synagogue”; and he hated synagogues.)
Từ những bằng chứng nghiên cứu Thánh Kinh của các học giả trong thế giới Tây Phương và của cả những nhà Thần học nổi danh trong Ca-Tô Giáo Rô-ma, chúng ta thấy rõ sự ngụy tạo ra tín điều “Chúa chọn Phê-rô là người thừa kế” chẳng qua chỉ là mánh mưu của Giáo hội Ca-Tô để tạo quyền lực trên đám tín đồ đầu óc yếu kém, cả tin, và không bao giờ đọc hay không đủ khả năng đọc Thánh Kinh . Lịch sử đã chứng tỏ Giáo hội Ca-Tô triệt để khai thác sự ngu dốt của quần chúng và cho đến ngày nay, vẫn duy trì sách lược giam giữ tín đồ trong sự ngu dốt, trong một ngục tù tâm linh, không dám cho tín đồ biết về những sự thực về Kinh Thánh cũng như về Ca-Tô Giáo, tuy rằng những sự thật này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Và thật là thê thảm cho giáo hội Ca-Tô Rô-ma ở Việt Nam với những đầu óc như của LM Ngô Tôn Huấn, cho tới ngày nay mà vẫn tiếp tục dạy con chiên phải tuân phục một cơ chế quyền lực ngụy tạo của một tôn giáo ngoại lai đã gây nhiều tội ác đối với nhân loại.
Đọc những lời “Thánh phán” kỳ thị phụ nữ ở trên và xét đến lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma chúng ta thấy rõ một sự đạo đức giả và mâu thuẫn cùng cực. Giáo hội coi vấn đề tình dục là tội lỗi, và nguyên nhân của mọi tội lỗi qua đường tình dục là từ giới phụ nữ đã truyền “tội tổ tông” xuống loài người từ đời này đến đời khác. Nhưng thật là kỳ lạ, lịch sử các Giáo hoàng Ca-Tô cho thấy không thiếu gì các giáo hoàng đắm mình trong nhục dục như trong vài tài liệu điển hình sau đây:
Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores). Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”. Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người này.)
Sự đồi bại của Giáo hoàng John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán chứng thư xá tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber. Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.” Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (the princes of the church: nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.
Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau: “..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng y..
Khi còn là Hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần truồng trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục, linh mục] và vị đại diện của Chúa (giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”
[Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, pp. 463-468: At this time it was not the Holy Ghost that selected the popes but what cardinal Baronius called scortas, whores. This was the “rule of the courtesans,” sometimes called Pornocracy, or reign of the whores. Among them was one Baronius called the “shameless whore,” Theodora, and her equally shameless daughter Marozia. Both had sons by Sergius III, and both put their illegitimates on the papal throne - John XI and John XII. The first was imprisoned, the second “turned the Lateran Palace into a brothel.” There was no crime he didn’t commit - murder, perjury, adultery, incest with his two sisters, bleeding and castrating his enemies, etc. He died, we are told, at the hand of an outraged husband. So corrupt was Pope John XXIII, Sigmund of Hungary called a council to investigate him. The result was fifty-four articles described him as “wicked, irreverend, unchaste, a liar, disobedient and infected with many vices.” As a cardinal he had been “inhuman, unjust and cruel.” As pope he was “an oppressor of the poor, persecutor of justice, pillar of the wicked, statue of the simoniacs, addicted to magic, the dregs of vice..wholly given to sleep and carnal desires, a mirror of infamy, a profound inventor of wickedness.” He secured the Papacy by “violence and fraud and sold indulgences, benefices, sacraments and bulls.” He practiced “sacrilege, adultery, murder, rape and theft.”.. Some of these popes so outraged decency they were exiled. At least two of them had their eyes and tongue cut out, then were dragged through the streets tied to the tail of an ass. Still others were so despised their corpses were exhumed and thrown into the Tiber. After fourteen hundred years of Christianity morals had sunk so low that Pius II tells us: “scarcely a prince in Italy had been born in wedlock.” A statement as applicable to the princes of the church as of the states.
Bad as all this was, the worst was yet to come - the Borgias, particularly Rodrigo. Of all the wicked popes he deserves the crown. By bribing fifteen cardinals with the equivalent of three million dollars he secured the election of one of the worst men in history - himself, Alexander VI. Guicciardini, the historian, describes him thus: “..private habits of the utmost obscenity, no shame or sense of truth, no fidelity to his engagements, no religious sentiments, insatiable avarice, unbridled ambition, cruelty beyond the cruelty of barbarous races, burning desire to elevate his sons by any means: of whom there were many, and among them one - not any less detestable than his father.” This was the notorious Cesare Borgia who to gain a cardinalate murdered his brother John, his sister’s husband, and two cardinals..
While still a cardinal this rake and murderer turned his quarters in the Vatican into a brothel. According to Burchard, the papal historian at the time, he indulged in nightly revels in his rooms above the pope’s, and courtesans “danced naked before the servants of the Lord and the Vicar of Christ.” And his sister, Lucrezia, distributed prized to those who “had a carnal intercourse with courtesans the largest number of times.” This is the gaiety explained as “love of good cheer.”]
Từ những tài liệu dựa trên các sự kiện trên, chúng ta thấy rõ các bậc chăn chiên trong Giáo hội, từ cao xuống đến thấp, đâu có coi trọng chữ trinh của phụ nữ, mà lại còn ưa phá trinh của phụ nữ như vụ các linh mục cưỡng hiếp các nữ tu (sơ), chắc chắn là còn trinh, trong 23 quốc gia trên thế giới.. Nhưng tại sao Giáo hội lại đưa ra tín lý về “Sự trinh nguyên vĩnh viễn” của Mary, để bắt tín đồ phải tin? Đối với nữ giới, Giáo hội đưa ra cái gọi là “sự phân đôi giữa gái trinh và gái điếm” [The “virgin – whore” dichotomy], nghĩa là những người nào đã có quan hệ tình dục với đàn ông đều coi như là gái điếm và tội lỗi như Eve. Mary còn trinh vĩnh viễn nên không mắc vào cái gọi là lời nguyền của Eve (the curse of Eve), nghĩa là không bị Thiên Chúa trừng phạt và đầy đọa vì cái tội quyến rũ Adam ăn trái cấm để hắn được mở mắt ra, cái tội này truyền xuống cho tất cả các nữ nhân trong các đời sau qua tình dục. Với cái giáo lý hoang đường này, Giáo hội khuyến khích các nữ tín đồ đi tu, theo gương của Mary, nhưng thực ra chỉ để cung ứng nhu cầu truyền giáo bằng cách nhồi sọ trẻ con, và cung ứng các dịch vụ hầu hạ vật chất, kể cả nhiều khi chỉ là đối tượng phục vụ tình dục cho các bề trên. Thật vậy, chuyện các Linh Mục cưỡng hiếp nữ tu Ca-Tô trong 23 quốc gia trên thế giới, còn bắt họ đi phá thai, đã được phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn truyền thông. Và ngày nay, chúng ta đã biết nguyên trên nước Mỹ đã có tới khoảng 5000 Linh mục bị truy tố ra tòa về tội loạn dâm: cưỡng hiếp nữ tu, và cưỡng bách tình dục hàng ngàn trẻ em phụ tế, Giáo hội đã phải bỏ ra hơn 2 tỷ đô-la để bồi thường cho những nạn dân tình dục của Giáo hội, nạn nhân của những người mang chức “thánh” trong giáo hội. Vậy mà cho tới giờ này, các Linh mục Mít nhà ta, thí dụ như LM Vũ Đức ở Detroit, vẫn dạy tín đồ Linh Mục là Chúa Ki Tô thứ hai, gián tiếp nhục mạ Chúa Ki Tô thứ nhất. Thật là vô cùng nhảm nhí mà không biết ngượng.

Tài liệu trên Internet cho biết tình trạng linh mục loạn dâm đã xẩy ra trên 17 quốc gia:
"http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country"

và tình trạng này ở Úc cũng nghiêm trọng không kém gì ở Mỹ.
Trong tháng 4 vừa qua, Giáo hoàng Benedict XVI đã đến Mỹ để kêu gọi giáo dân hãy “cầu nguyện và hi vọng” (Pray and hope). Không biết Giáo hoàng có khuyên các con chiên thắp nến cầu nguyện trước các Tòa để xin Chúa tha tội cho các Linh mục, cũng là những Chúa thứ hai, về những tội loạn dâm mà dù Chúa thứ nhất có tha tội đi chăng nữa thì các Tòa thế tục của dân gian vẫn không chịu tha tội cho các Chúa thứ hai đã vi phạm luật pháp xã hội. Giáo Hội luôn luôn mở cái màn cầu nguyện để mê hoặc tín đồ, tuy rằng từ xưa tới nay tuyệt nhiên không có một loại cầu nguyện nào của Giáo hội được đáp ứng. Thật vậy, chúng ta có thể đọc kết quả cầu nguyện của Ca-Tô Giáo Rô-ma trong cuốn “The Documents of Vatican II..” như sau:
“Trong nhiều thập niên, mỗi năm vào tháng Giêng, Ca Tô Giáo Rô-ma để ra 8 ngày để cầu nguyện cho sự thống nhất các Giáo hội [Ki Tô]. Cho đến năm 1959, ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 tháng Giêng, là hi vọng giáo dân Tin Lành sẽ “trở lại” giáo hội chân thật duy nhất (nghĩa là Ca-tô Giáo Rô-ma) và Chính Thống Giáo sẽ dẹp tiệm.”
(Each year in January, for many decades, Roman Catholics have offered eight days of prayer for Church Unity. Until 1959, the general idea behind those days of prayer, January 18-25, was the hope that the Protestants would “return” to the one true Church, and the Orthodox schism would end.)
Kết quả cầu nguyện của Giáo hội Ca-Tô Rô-ma trong nhiều thập niên ra sao, chúng ta đã rõ. Tin Lành vẫn là Tin Lành. Chính Thống vẫn là Chính Thống. Và càng ngày càng có nhiều tín đồ bỏ “giáo hội chân thật duy nhất”. Ở Nam Mỹ mỗi ngày có tới 8000 tín đồ Ca-tô bỏ “giáo hội chân thật duy nhất” để theo Tin Lành, khiến cho “Đức Thánh Cha” John Paul II phải tố khổ các nhà truyền giáo Tin Lành là những “con chó sói đói mồi” đến cướp đi tín đồ của Ngài. Tình trạng bỏ đạo ở Âu Châu rất trầm trọng, và Giáo hoàng thiết giáp Ratzinger alias Benedict XVI đến Mỹ chẳng qua chỉ là muốn vớt vát lại số tín đồ ở Mỹ qua chiêu bài “Cầu Nguyện và Hi Vọng”. Có thành công hay không chúng ta sẽ chờ coi.
Trở lại chuyện “Còn Trinh” của Mary, trong cuốn “Mary” (Weidenfeld and Nicolson, London, 2001), tác giả Michael Jordan viết, trang 178:
Trong tiểu sử của Mary, rằng bà ta không mang tì vết của tình dục, thì rõ ràng là đầy những mâu thuẫn. Nó đưa ra một hình ảnh về sự trinh bạch đến độ đó là một sự phát minh ra một chuyện thần kỳ hoàn toàn không thể chứng minh được. Tuy vậy, sự khăng khăng cố chấp rằng bà ta không hề có quan hệ tình dục và sinh ra Giê-su mà màng trinh vẫn còn y nguyên đã trở thành một cương lĩnh trên đó chủ thuyết về Mary và nhiều tín lý của Ca-Tô Rô-ma đã được phát triển.
(In Mary’s authorized biography, that she carries no stain of sexuality, is clearly riddled with inconsistencies. It presents a picture of chastity that amounts to a wholly unsubstantiated, fairy-tale invention. Yet hidebound insistence that she never experienced sexual relations and that she delivered Jesus via intact hymen was to become the central plank on which Marianism and much of the Roman Catholic dogma developed.)
Giáo hội Ca-Tô Rô-ma phát minh ra nhiều tín lý rất phi lý để bắt tín đồ tin, không tin thì không được lên cái thiên đường (mù) của Giáo hội, mà tín đồ thì cũng vì ham cái thiên đường (mù) này mà cứ nhắm mắt tin bướng tin càn. Giáo hội đã phát minh ra hầm bà lằng đủ thứ truyện thần kỳ (fairy-tale). Bởi vậy cho nên Giáo sư Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo sư thần học Ca-Tô của giáo gội Ca-Tô [the first woman in the world to hold a chair of Catholic theology], trong cuốn “Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con” (Putting Away Childish Things, HarperCollins, 1995), đã coi tất cả những chuyện sau đây trong cuốn Kinh của Ki-Tô Giáo, lập thành những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo: “Tư cách thần thánh của Chúa Ki Tô”; “Sinh ra từ một nữ trinh”; “ngôi mộ trống”; “Ngày Thứ Sáu tốt đẹp”; “Phục sinh”; “Thăng Thiên”; “Bị hành quyết để chuộc tội”; “Hỏa ngục” [The divinity of Christ, The Virgin mother, Good Friday, Easter, Resurrection, Ascension, Redemption by execution, Hell] đều là những truyện thần kỳ (fairy-tales) để kể cho trẻ con, cần phải dẹp bỏ..
Riêng về nhân vật Mary, chúng ta hãy xét thêm hai tín lý thuộc loại thần kỳ mà Giáo hội Ca-tô đưa ra để bắt tín đồ nhắm mắt mà tin: Tín lý về “Thụ Thai Vô Nhiễm” (Immaculate Conception) và tín lý về “Hồn Và Xác Bay Lên Trời” (Assumption of Body and Soul) để làm Nữ Vương Cai Quản Trời Đất.

PHẦN II
Mary Ngoài Cuốn Kinh Của Ki Tô Giáo
[The Unbiblical Mary]
(tiếp theo)

2. Giáo Lý Thụ Thai Vô Nhiễm:
Quan niệm về sự “Thụ Thai Vô Nhiễm” đã có từ lâu, từ thời Trung Cổ, trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma, bởi những nhà thần học nổi tiếng như John Duns Scotus (1266-1308), khẳng định rằng sự thụ thai của Mary qua bố mẹ phải vô nhiễm “tội tổ tông” [nghĩa là không qua đường tình dục] để có thể trở thành Mẹ Của Thiên Chúa (Theotokos), nghĩa là Mary không phải là sự kết tinh do sự giao cấu của bố Joachim và mẹ Anna của Mary. Nhưng Thánh Thomas Aquinas (1225 to 1274) lại không đồng ý với luận cứ: “Sự thụ thai Mary phải là trong tội tổ tông, nghĩa là trong quan hệ tình dục, mà tội của nguyên tổ của chúng ta [Adam] không thể sinh ra mà không có sự khoái lạc tội lỗi, đã truyền tội tổ tông xuống hàng con” (Mary must have been conceived in original sin, for her conception was the work of sexual union which after the sin of our first ancestor cannot take place without sinful pleasure, introduced original sin into the child). Chúng ta nên để ý là, Mary có còn trinh hay không, có mang tội tổ tông hay không, có là mẹ Thiên Chúa hay không, có đồng công cứu chuộc hay không, có là nữ vương hòa bình hay không v..v… tất cả đều do những Giáo hoàng quyết định, và bắt tín đồ phải tin, chứ không hề có một căn bản nào trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo, Cựu Ước cũng như Tân Ước.
“Thụ Thai Vô Nhiễm”, để khỏi hiểu lầm là “thụ thai Giê-su”, đúng hơn phải gọi là “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”, được Giáo hoàng Pius IX đưa ra, quyết định đó là một tín lý (dogma) năm 1854, nghĩa là một điều mà các tín đồ chỉ có quyền tin, không có quyền thắc mắc. Giáo hội dạy tín đồ tín lý là một “chân lý mạc khải” (a revealed truth), nghĩa là Chúa đã mạc khải cho giáo hoàng, cho nên tín đồ phải tin, không tin là mang tội với Chúa. Và cho tới ngày nay, những tín đồ Ca-tô ở những ốc đảo ngu dốt, không có hoàn cảnh dự phần vào quá trình tiến hóa của nhân loại, vẫn còn tiếp tục tin như vậy. Nhưng không phải tất cả các tín đồ Ca-Tô đều là như vậy. John Thavis viết trong Thông Tấn Xã Ca-Tô (Catholic News Service), không phải là Thông Tấn Xã Ca-Tô của LM Trần Công Nghị, như sau, ngày 3 tháng 12, 2004:
Giáo hoàng John Paul II làm Chủ lễ ăn mừng 150 năm thành lập tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm, một tín điều mà nhiều tín đồ Ca-tô hiện đại không thấu hiểu. [Pope John Paul II is leading celebrations of the 150th anniversary of the Immaculate Conception, a dogma that many modern Catholics do not fully understand.]
Đức Ông Arthur Calkins, một viên chức ở Vatican và là một thành viên của Học Viện Quốc tế của Giáo Hoàng về Mary nói rằng: “Trong một hai thế hệ gần đây có một sự yên lặng lạ thường của các tín đồ Ca-tô (về tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm), cho nên có thể có một sự hoang mang đáng kể về vấn đề này. Một số người sai lầm cho rằng Thụ Thai Vô Nhiễm là nói về sự thụ thai đức Ki Tô. Thật ra, đó là niềm tin Mary, bởi sự ân sủng đặc biệt của Thượng đế, không bị nhiễm bởi “tội tổ tông” ngay khi mới là bào thai.”
Nhưng điều chướng ngại chính đối với nhiều tín đồ Ca-tô là “tội tổ tông” [But the main stumbling block for many Catholics is original sin.] Một viên chức ở Vatican nói: “Con người ngày nay càng ngày càng ít tin vào “tội tổ tông”. Và nếu không tin là có tội tổ tông thì tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm thật là vô nghĩa.” [People today simply are less and less aware of original sin. And without that awareness, the Immaculate Conception makes no sense," said one Vatican official.]
Nhưng khi Giáo hoàng Pius IX đưa ra tín lý về “Thụ Thai Vô hiễm Nguyên Tội” vào ngày 8 tháng 12, 1854, thì sắc lệnh Ineffabilis Deus của Giáo hoàng (papal bull) có câu sau đây:
Nếu người nào dám – điều mà Thiên Chúa [con ngoáo ộp của giáo hoàng] cấm! – nghĩ khác với điều định nghĩa bởi chúng tôi, thì hãy cho người đó biết và hiểu rằng hắn ta sẽ bị kết tội bởi chính sự xét đoán của hắn; rằng hắn đã sụp đổ trong đức tin; rằng hắn đã tách rời ra khỏi sự đồng nhất của Giáo hội; và hơn nữa, bằng hành động của chính hắn, hắn sẽ chịu những hình phạt thiết lập bởi luật nếu hắn dám nói lên hoặc viết ra hoặc hoặc bằng cách công khai nào khác, những sự sai lầm mà hắn nghĩ trong tâm.
[If anyone shall dare -- which God forbid! -- to think otherwise than as has been defined by us, let him know and understand that he is condemned by his own judgment; that he has suffered shipwreck in the faith; that he has separated from the unity of the Church; and that, furthermore, by his own action he incurs the penalties established by law if he should dare to express in words or writing or by any other outward means the errors he think in his heart.]
Chúng ta nên để ý là tín đồ không có quyền nghĩ khác với Giáo hội, nghĩ khác với Giáo hội là coi như đức tin sụp đổ và sẽ chịu nhiều hình phạt, không phải đức tin vào Thiên Chúa mà là đức tin vào những điều “Giáo hội dạy rằng…”. Chẳng vậy mà đã có một trí thức Ca-Tô Việt Nam viết lên câu về Giáo hội Ca-Tô Việt Nam như sau: “Vatican có đánh rắm cũng phải khen thơm”. Nhưng Giáo hoàng Pius IX đã dựa vào cái gì để đưa ra tín lý về Mary “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”? Giáo Hoàng đã dựa vào cái điều hoang đường mê tín của thời bán khai ở Do Thái trong Cựu ước về cái gọi là “Nguyên Tội” hay “Tội Tổ Tông”. Nhưng ngày nay, “Tội Tổ Tông” là một huyền thoại đã lỗi thời, và người nào còn nhắc đến nó, tin nó, chỉ tự chứng tỏ mình là người có đầu mà không có óc. Chứng minh?
Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu Thánh Kinh của giáo hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII (Professor at the Pontifical Biblical Institute of Rome, served in the Vatican under Pope John XXIII), đã viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của Giáo Hội Rô-Ma” (The Decline and Fall of the Roman Church) như sau, trang 230:
Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.
(Martin, Malachi, The Decline and Fall of the Roman Church, p. 230: Pope John XXIII told the opening session of his council on October 11, 1962, that “false doctrines and opinions still abound,” but that “today men spntaneously reject” them… But if Roncalli did not see where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In the sixties and the seventies after Roncalli’s death, they drew these conclusions and abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many other fundamental doctrines.)
Sự từ bỏ những niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác không đâu rõ hơn trong những thú nhận của Vatican trong vài thập niên qua. Thật vậy, từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các khoa học gia là “cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ bùng (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore the work of God). Chúng ta nên để ý, Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000 năm do sự “sáng tạo” (sic) trong 6 ngày của Thượng đế Ki-tô giáo như được viết trong Cựu Ước, được coi như những lời không thể sai lầm của Thượng đế. Và giáo hoàng nói câu trên chẳng qua chỉ để vớt vát phần nào mặt mũi của Thượng đế, Thượng đế của những khoảng trống (God of the Gaps), một mặt mũi đã không còn chỗ đứng trong thế giới tiến bộ trí thức và khoa học của nhân loại.
Rồi, trước những khám phá khoa học liên hệ đến thuyết Tiến Hóa bất khả phủ bác trong nhiều bộ môn của khoa học, năm 1996, Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là “thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”).
Còn nữa, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: “thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life).
Chấp nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Thượng đế tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một cái bánh vẽ trên trời để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa ngục (một nơi để hù dọa những người không tin Chúa), Giáo hoàng đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông.
Nhưng, John Paul II là một con người đạo đức giả và thiếu lương thiện trí thức vào bậc nhất. Tại sao? Chúng ta hãy đọc những tin tức sau đây:
Ngày 8 tháng 12 là ngày kỷ niệm 150 sắc lệnh Ineffabilis Deus trong đó giáo hoàng Pius IX định nghĩa tín lý Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. Giáo hoàng John Paul II long trọng tuyên bố rằng “giáo lý khẳng định rằng bà Mary Còn Trinh, từ lúc đầu là cái thai, bằng ân sủng và đặc ân của Thiên Chúa Toàn Năng, và xét theo những công trạng của Giê-su Ki-Tô, Đấng cứu chuộc của nhân loại, được gìn giữ khỏi bị mọi tì vết của Tội Tổ Tông, trong một giáo lý mạc khải bởi Thiên Chúa và, vì lý do này, phải thường xuyên tin chắc bởi mọi tín đồ.”
[December 8, 2004 was the one hundred and fiftieth anniversary of the bull Ineffabilis Deus, in which Blessed Pius IX defined the dogma of the Immaculate Conception. Pope John Paul II solemnly declared that “the doctrine which asserts that the most Blessed Virgin Mary, from the first moment of her conception, by a singular grace and privilege of Almighty God, and in view of the merits of Jesus Christ, Saviour of the human race, was preserved free from every stain of original sin, is a doctrine revealed by God and, for this reason, must be firmly and constantly believed by all the faithful.”]
Sự vô đạo đức tôn giáo và thiếu lương thiện trí thức của John Paul II ở chỗ là ông ta đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông, qua những lời tuyên bố của chính ông ở phần trên về Big Bang, về Thuyết Tiến Hóa, về Thiên Đường và Hỏa Ngục, nhưng ông ta vẫn tiếp tục dạy tín đồ phải tin vào cái tín lý hoang đường “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Pius IX.
Nhưng không phải chỉ có John Paul II mới không có đạo đức và thiếu lương thiện trí thức mà ngay cả giáo hoàng đương nhiệm Benedict XVI cũng vậy. Một tài liệu trên Internet về một văn kiện khác của Vatican sẽ chứng tỏ điều này.
Giáo hội đã phải chấp nhận những ý kiến của các khoa học gia về những vấn đề như tuổi của trái đất và sự xác thực của những khám phá về các sinh vật hóa thạch. Những lời tuyên bố của giáo hoàng cùng với những lời bình luận của các hồng y, đã chấp nhận những khám phá của các khoa học gia về sự xuất hiện dần dần của sự sống. Thật vậy, Ủy Ban Thần Học Quốc tế, trong một bản tuyên bố vào tháng 7, 2004 được chấp thuận bởi Hồng y Ratzinger, Chủ tịch Ủy Ban và Bộ Trưởng Bộ Truyền Giáo, nay là Giáo hoàng Benedict XVI, có đoạn như sau:
“Theo như những kết quả khoa học đã được chấp nhận khắp nơi, vũ trụ đột nhiên nổ ra 15 tỷ năm trước trong một sự nổ bùng gọi là “Big Bang” và từ đó nở rộng ra và nguội dần. Sau đó dần dần xuất hiện những điều kiện cần thiết để cho sự tạo thành các nguyên tử, và sau nữa các nguyên tử cô đọng lại thành các thiên hà và ngôi sao, và khoảng 10 tỷ năm trước sự tạo thành những hành tinh. Trong Thái Dương Hệ của chúng ta và trên trái đất (được tạo thành khoảng 4.5 tỷ năm trước), những điều kiện đã thuận lợi để cho sinh ra sự sống. Tuy rằng ít có sự đồng thuận giữa các khoa học gia phải giải thích nguồn gốc của sự sống vi mô này, nhưng họ đều đồng ý với nhau là sinh thể đầu tiên đã có trên hành tinh này khoảng 3.5 – 4 tỷ năm trước. Vì người ta đã chứng minh được rằng mọi cơ thể trên trái đất đều liên hệ với nhau bởi các “gen”, hầu như chắc chắn là mọi cơ thể đều có nguồn gốc từ sinh thể ban khai này. Những bằng chứng phù hợp với nhau từ nhiều công cuộc khảo cứu trong khoa vật lý và sinh học càng ngày càng xác minh một thuyết Tiến Hóa về sự phát triển và sự đa dạng của sự sống trên trái đất, trong khi vẫn còn tranh cãi về quá trình và cơ chế của tiến hóa.”
[The Church has deferred to scientists on matters such as theage of the earth and the authenticity of the fossil record. Papal pronouncements, along with commentaries by cardinals, have accepted the findings of scientists on the gradual appearance of life. In fact, the International Theological Commission in a July 2004 statement endorsed by Cardinal Ratzinger, then president of the Commission and now head of the Congregation for the Doctrine of the Faith, , includes this paragraph: “According to the widely accepted scientific account, the universe erupted 15 billion years ago in an explosion called the '"Big Bang" and has been expanding and cooling ever since. Later there gradually emerged the conditions necessary for the formation of "Atoms" , still later the condensation of galaxies and stars, and about 10 billion years later the formation of "Planets"
In our own “solar system” and on "Earth" (formed about 4.5 billion years ago), the conditions have been favorable to the emergence of "Life" . While there is little consensus among scientists about how the origin of this first microscopic life is to be explained, there is general agreement among them that the first organism dwelt on this planet about 3.5 - 4 billion years ago. Since it has been demonstrated that all living organisms on earth are genetically related, it is virtually certain that all living organisms have descended from this first organism. Converging evidence from many studies in the physical and biological sciences furnishes mounting support for some theory of evolution to account for the development and diversification of life on earth, while controversy continues over the pace and mechanisms of evolution." (paragraph 63, from "Communion and Stewardship: Human Persons Created in the Image of God," plenary sessions held in Rome 2000-2002, published July 2004)]

Thật là rõ ràng, giáo hội Ca-tô đã chấp nhận những sự kiện khoa học về nguồn gốc vũ trụ: thuyết Big Bang, về nguồn gốc con người: thuyết Tiến Hóa, nhưng một mặt giáo hội vẫn tiếp tục bắt tín đồ phải tin vào thuyết sáng thế mới xảy ra cách đây khoảng 6000 năm như được viết trong Cựu ước, và về cái “tội tổ tông” hoang đường trong đó. Như vậy có phải là bất lương trí thức hay không. Biết rằng sai mà vẫn cứ đầu độc, nhồi nhét vào đầu óc tín đồ những sự sai lầm, như vậy có phải là làm hại tín đồ thay vì dạy cho họ thăng tiến để cập nhật những kiến thức thời đại.
Ngô Triệu Lịch đã đưa ra một nhận định vô cùng chính xác: “Tất cả nền thần học Ca-Tô Giáo chỉ là “Thần học đoán mò””, vì chỉ toàn là phịa ra những điều đoán mò về những điều mà Giáo hội không biết. Giáo hội dạy rằng Thiên Chúa không thể thấy được (invisible), không thể biết được (unknown) và không thể hiểu được (incomprehensible), nhưng giáo hội đã tự mâu thuẫn khi đưa ra những điều đoán mò của Giáo hội về cái Giáo hội không thấy được, không biết được và không hiểu được, và gọi những điều giáo hội phịa ra là những “chân lý mạc khải” hay tín lý (dogma). Về tín lý Mary “thụ thai vô nhiễm nguyên tội” thì đó đúng là chuyện đoán mò nếu không muốn nói là phịa, vì chuyện bố mẹ Mary thụ thai Mary không hề có ở bất cứ đâu trong thánh kinh.
Nếu giáo hội Ca-tô Rô-ma muốn nhốt các tín đồ trong vòng ngu tối, và các tín đồ hoan hỉ sống trong cái vòng ngu tối đó thì đó là quyền của họ. Nhưng điều tệ hại nhất của Ca-tô giáo Rô-ma đối với nhân loại là lại cứ muốn mang những điều ngu tối của mình ra để bắt thiên hạ cũng phải ngu tối như họ. Thật vậy, qua sự phân tích tín lý “Thụ thai vô nhiễm nguyên tội” ở trên, chúng ta đã biết rằng, Giáo hội Ca-tô đã thú nhận là chẳng làm gì có cái gọi là “nguyên tội” hay “tội tổ tông”. Nhưng chúng ta hãy đọc vài sự kiện trong Ca-tô giáo để thấy họ đã mang cái ngu của họ ra áp đặt lên đầu nhân loại như thế nào.
Nếu không ngu xuẩn và trịch thượng thì làm sao mà Giáo hoàng John Paul II, ngày 24 tháng 3, 1984, ở công trường Phê-rô, đã quỳ xuống trước hình Mary và dâng hiến cả hành tinh này cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội (sic) của Mary [Michael Jordan, Mary, p.302: On 24 March, 1984, John Paul II took advantage of the medium of television when he knelt before the figure of Our Lady of Fatima in St Peter’s Square and dedicated the entire planet to the Immaculate Heart of Mary]. Ông ta làm như còn là một giáo hoàng trong thời Trung Cổ ở Âu Châu, nắm quyền sinh sát thế gian, và hành tinh này là của riêng ông ta, muốn hiến dâng cho ai thì hiến, bất kể là trên 4 tỷ người trên trái đất này không cần biết Mary là ai, và nếu có biết thì cũng chỉ biết Mary là một người con gái sinh ra một đứa con hoang là Giê-su như được viết trong Tân ước. Đây không phải là quyền tự do tín ngưỡng vì hành động này xúc phạm đến tín ngưỡng của nhiều tỷ người trên thế giới không sống trong cái vòng ngu tối của Ca-tô Giáo Rô-ma. Giáo hoàng mà còn ngu xuẩn và trịch thượng như vậy huống chi là các con chiên ở Việt Nam. Không cuồng tín ngu xuẩn và trịch thượng thì làm sao ngày 8 tháng 8, 1961, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam họp tại Đà Lạt quyết định: “Lập một bàn thờ dâng hiến Giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam cho trái tim vô nhiễm ‘Đức mẹ”” [Nguyễn Đắc Xuân, Tìm Hiểu Lịch Sử Nhà Thờ La Vang trong cuốn La Vang Giáo Sử, trang 52], bất kể là “Tổ Quốc Việt Nam” có hơn 90% người dân không cần biết và quan tâm đến “Đức Mẹ” là ai. Hội đồng Giám Mục, trong thời Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam, làm như Tổ Quốc là của riêng họ, muốn dâng hiến cả Tổ Quốc cho một người đàn bà Do Thái mà lịch sử đã ghi rõ, cả hai mẹ con đã cùng nhau chạy trốn Cộng sản chối chết từ Bắc vào Nam năm 1954, chạy trước cả những con chiên. Và từ đó đến nay, bà ta cũng chẳng làm được gì có ích cho thế giới văn minh ngoài việc thỉnh thoảng các con chiên trên thế giới bắt khi nào khóc hay chảy máu mắt thì khi đó phải khóc hay chảy máu mắt, và bắt khóc ở đâu thì phải khóc ở đó, dù bà ta là Mẹ Thiên Chúa toàn năng, quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được. Chẳng có ai đặt vấn đề: mấy giọt nước mắt ngụy tạo, hay mấy giọt máu [của đàn ông khi được đem đi phân tích DNA] trên khóe mắt thì giúp ích được gì cho nhân loại để giải quyết những vấn nạn về chiến tranh, về thiên tai, về bệnh tật xảy ra hàng ngày và khắp nơi trên trái đất. Nếu chỉ giải quyết được chút nào những vấn nạn này thì chẳng nói làm gì, nhưng tuyệt đối bà ta chẳng làm được cái tích sự gì qua những vụ hiện thân, hay khóc, hay chảy máu mắt, mà chỉ để cho bàn dân thiên hạ thấy các tín đồ Ca-Tô, vốn đã mê muội tin nhảm tin nhí lại càng mê muội tin nhảm tin nhí hơn.

Về tín lý “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” thì có một màn dàn dựng của Giáo hội cho Mary hiện ra ở Lourdes [Lộ-Đức]. Ngụy Tích Lộ-Đức như sau:
Trước hết, chỉ bằng một lý luận rất ngắn ngủi, không đi vào chi tiết và tài liệu, tôi xin chứng minh rằng vụ hiện ra của Mary ở Lourdes là bịa đặt, không thực, và hoàn toàn vô nghĩa, từ đó kéo theo sự không thực và vô nghĩa của tất cả những vụ hiện ra khác trên thế giới, kể cả ở La Vang.
Thật vậy, “ngụy tích hiện ra” của Mary ở Lourdes có thể tóm tắt trong hai sự kiện, và quý độc giả có thể thấy ngay mánh mưu của giáo hội trong vụ này. Năm 1854, Giáo Hoàng Pius IX đặt ra tín điều “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (The dogma of Immaculate Conception), nghĩa là không mang tội tổ tông mà theo nền thần học Ca Tô thì tội của Adam và Eve được truyền lại đời đời kiếp kiếp qua đường tình dục. Theo luận điệu thần học về nguyên tội (original sin) thì mọi người trên thế gian đều sinh ra trong nguyên tội, không ai có thể thoát khỏi, và do đó mới có những luận điệu thần học về rửa tội, Chúa chuộc tội cho nhân loại v..v... mà ngày nay chỉ còn một số người có đầu óc đặc biệt mới còn tin. Theo tín lý “Immaculate Conception” thì Bà Mary là người duy nhất, không kể Giê-su là con của Thánh Ma (Holy Ghost), được miễn trừ nguyên tội.
Có lẽ bà Mary, vì rất thích thú và hồ hởi với tín lý mới này của Pius IX, cho nên 4 năm sau, năm 1858 [năm mà chiến thuyền của những người Ca-Tô Pháp và Tây Ban Nha, với sự đón tiếp nồng hậu của Nguyễn Trường Tộ đi theo hầu giáo sĩ quan thầy Gauthier (Ngô Gia Hậu) cùng các linh mục Pellerin, Huc, Caspar v..v.. và một số đông giáo dân, bắt đầu bắn phá Đà Nẵng mở màn xâm chiếm Việt Nam], bà Mary bèn hiện ra ở Lộ-Đức (Lourdes) ở miền Nam nước Pháp và khẳng định với cô bé mù chữ 14 tuổi, Bernadette Soubirous, bà ta chính là người đã “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (I am the Immaculate Conception), nghĩa là, bà Mary hiện ra với mục đích duy nhất là để chứng thực tín điều mà Pius IX đưa ra trước đó 4 năm về bà ta. Theo Giáo Hội Ca-Tô thì bà Mary đã hiện ra ở Lourdes 18 lần, từ 11 tháng 2 đến 16 tháng 7, 1858, và nhiều lần xác định đi, xác định lại, xác định tái, xác định hồi, với Bernadette Soubirous bà ta chính là người “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” [tuy rằng Bernadette không hiểu thế nào là Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội và cũng không đủ khả năng để nhắc lại câu “Ta là người đã Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” như trong tài liệu “Lourdes” của André Lorulot. Bây giờ, chúng ta hãy đọc một đoạn trong cuốn “Mary” của Michael Jordan:

“Trong lần thứ hai hiện ra Bernadette hỏi tên người bạn kỳ bí của cô ta, và bà Mary tự giới thiệu là “Thụ Thai Vô Nhiễm”, xác định căn cước của mình trong nhiều lần hiện ra về sau. Điều này được chấp nhận là xác thực, không những bởi ông giám mục của Bernadette mà toàn thể Tòa Thánh cũng chấp nhận như vậy. Cái mà có vẻ như cực kỳ bịp bợm đó có nghĩa hơn nếu chúng ta quan niệm toàn thể những hiện tượng hiện ra ẩu tả đó, xảy ra không ngơi nghỉ trong đầu thế kỷ 19, là do sự dàn dựng bày đặt của Giáo hội Ca-Tô. Trong trường hợp Bernadette Soubirous, Giáo hội cần đến một sự chứng thực từ trên trời cho tín lý “Thụ Thai Vô Nhiễm” của giáo hội, đang còn bị nghi ngờ không thể tin được. Một cô bé đang ở tuổi giậy thì, dễ bị tác động và đôi khi cuồng loạn, mù chữ và từ một gia đình nghèo khó, tự dưng ló ra một cách thuận tiện không biết từ đâu, được mớm cho một câu hỏi thích hợp [và tất nhiên sẽ được một câu trả lời thích hợp. TCN] và do đó có thể chứng thực những lời nói của Giáo hoàng là không thể sai lầm.”
(Michael Jordan, Mary, Weidenfeld and Nicolson, London, 2000, p. 293: During a second visitation Bernadette asked the name of her mysterious friend, upon which the lady introduced herself as “The Immaculate Conception”, confirming her identity on several subsequent occasions. This was accepted as credible, not only by Bernadette’s bishop but by the entire Roman Catholic office. What might appear to be extreme gullibility makes better sense if one takes the view that the whole rash of phenomena, which saw no respite in the early part of the 19th century, was orchestrated by the Catholic Church. In the case of Bernadette Soubirous, the Church was in need of heavenly endorsement for its dogma of Immaculate Conception, still the subject of scepticism. A young girl at the impressionable and sometimes hysterical age of puberty, illiterate and from an impoverished home, emerged conveniently from nowhere, was primed with an appropriate question and thus was able to confirm the infallibility of the Pope’s words.)
Đến đây chắc quý vị độc giả đã hiểu Giáo hội cho bà Mary hiện ra ở Lourdes với mục đích gì. Điều làm cho chúng ta phải phì cười về cái màn bịp bợm này là khi Bernadette hỏi tên thì bà Mary không trả lời là “Mary”, tên của bà trong Tân Ước, mà lại trả lời là “Ta là người thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” để chứng thực danh hiệu “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Pius IX bày đặt ra. Nhưng tại sao giáo hội phải bịp như vậy? Vì thời đó, khi Pius IX tung ra tín điều “Vô nhiễm nguyên tội” thì đã có nhiều tiếng xì xào nghi ngờ về tín điều mới của Pius IX. Không những thế, năm 1870 Pius IX còn tung ra một tín lý khác: Giáo Hoàng không thể sai lầm khi đưa ra một tín lý về đức tin hay một vấn đề đạo đức (Papal Infallibility in the matters of Faith or Morals), do đó tín điều Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội thuộc về đức tín, và mọi tín đồ bắt buộc phải tin, không tin thì không được lên thiên đường, một cái bánh vẽ trên trời mà các tín đồ thường mơ tưởng không cần phải dùng đến đầu óc để suy nghĩ. Tín đồ Công giáo từ xưa tới nay đã nổi tiếng là dễ bảo, dễ tin và cuồng tín, và sự thờ hình tượng Mary (Mariolatry) đã được phổ biến và đẩy mạnh trong giáo hội, cho nên một màn dàn dựng hoạt cảnh về Mary hiện ra ở Lourdes có thể đẩy mạnh lòng sùng tín Mary trong đám tín đồ, cùng lúc xác định một tín điều Pius IX mới đưa ra, và biến Lourdes thành một nơi mang nhiều lợi nhuận đến cho Giáo hội. Và theo cùng một sách lược của giáo hội mẹ, các giáo hội con cũng cho bà Mary hiện ra khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở những nơi mà giáo dân là những kẻ ít học nhất và mê tín nhất.
(xem tiếp)

1 nhận xét:

Trung Kiên nói...

Trích;..."Kinh Thánh xác định việc vợ chồng trao trả phần xác thịt cho nhau là cần thiết. Ông Giu-se và bà Maria sau khi sinh Chúa Jê-sus thì có thêm con trai và con gái với nhau là hiệp lẽ. Dân chúng cũng lầm tưởng Đức Chúa Jê-sus như những đứa con khác của ông bà, vì họ không biết bà Maria chịu thai bởi Thánh Linh. ‘Có phải Ngài là con người thợ mộc chăng? Mẹ Ngài có phải là Maria và anh em Ngài là Gia-cơ, Giô-sép, Simôn và Giu-đa, chị em Ngài đều ở giũa chúng ta chăng?’ (Ma-thi-ơ 13:54-56; Mác 6:3)
Dân chúng biết rõ như vậy, nên khi nói bà Maria và các con đi tìm gặp Chúa thì đã nói tự nhiên :
‘Mẹ Thầy và các em Thầy tìm gặp Thầy’ (Ma-thi-ơ 12:47; Mác 3:32)
Kinh Thánh còn nói : Maria mẹ Chúa Jêsus cùng là mẹ của Gia-cơ và Giô-sép. (ngưng trích)

Bình luận => Có lẽ không cần phải tranh luận nhiều, bởi vì "Kinh thánh" chỉ ghi lại những điều đã xảy ra, và "KHÔNG XÁC ĐỊNH" rằng Đức Maria còn có những người con khác như tác giả Trần Chung Ngọc viết trên đây, ngoài việc dùng "ngoa ngữ" Trần Chung Ngọc kéo cả LM Bùi Đức Hạnh với câu "đã phải xác nhận"(?)để gây ấn tượng và cố thuyết phục người đọc...bằng cách viết hầm bà lằng, xáo trộn nhiều đề tài để tạo sự ô hợp nhằm gây phân tâm cho người đọc!

=> Hãy đọc lại câu trên trên đây chỉ là một câu hỏi của một ai đó rằng; ‘Có phải Ngài là con người thợ mộc chăng? Mẹ Ngài có phải là Maria và anh em Ngài là Gia-cơ, Giô-sép, Simôn và Giu-đa, chị em Ngài đều ở giũa chúng ta chăng?’ (Ma-thi-ơ 13:54-56; Mác 6:3)

Trong Kinh thánh không hề viết về gia đình Giuse-Maria với những người con như trên!

PHÚC ÂM: Mt 1, 18-24 "Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".

Như vậy, Đức Giêsu phải là con trai đầu lòng và là người con duy nhất! Bởi vì, nếu còn những người con khác thì Đức Giêsu đã không phải nhờ ông Gioan trông coi chăm sóc mẹ mình... Khi Ngài bị treo trên thập giá ở Canvê, (Ga 19,25-34) 25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình...

Đăng nhận xét