Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014
Sự khủng hoảng của Hồi giáo 1
22:40
Hoàng Phong Nhã
No comments
Dẫn nhập
Tổng
thống Bush và các chính khách phương
Tây đã khá chật vật để chỉ ra
rằng cuộc chiến mà nước Mỹ đang
tham gia là cuôc chiến chống lại
chủ nghĩa khủng bố - chứ không
phải là chống người À rập , hoặc
nói rộng hơn là chống lại người
Hồi giáo , là những người được
khuyến khích cùng chung sức với
chúng ta trong cuộc chiến chống
kẻ thù chung . Nhưng thông điệp
của Usama bin Ladin thì khác hẳn .
Đối với bin Ladin và những người
theo ông ta đây là 1 cuộc chiến
tôn giáo , 1 cuộc chiến của
người Hồi giáo chống lại những kẻ
vô đạo , và vì thế đương nhiên là
chống lại nước Mỹ , cuờng quốc lớn
nhất trong thế giới của những kẻ
vô đạo .
Trong
các tuyên bố của mình , bin Ladin
luôn luôn dẫn chứng lịch sử . Một
trong những dẫn chứng gây ấn
tượng nhất được nêu trong cuốn
băng video ngày 7/10/2001 , về"sự
ô nhục và tủi hổ"mà đạo Hồi
đã phải gánh chịu trên 80 năm qua". Đối với bối cảnh Trung đông ,
đa số các nhà quan sát người Mỹ
- và đương nhiên , có người Âu -
bối rối bắt đầu tìm hiểu cái gì
đã xảy ra"trong hơn 80 năm
trước" và cuối cùng đưa ra
nhiều câu trả lời khác nhau . Chúng
ta có thể tin phần nào là những
đối tượng của bin Ladin hiểu rõ
ngay ý nghĩa những lời nói bóng
gió này .
Turkey= Turquie=
Thổ
Vào
năm 1918 , đế quốc Ottoman , là
đế quốc cuối cùng của các đế quốc
Hồi giáo hùng mạnh bị đánh bại -
thủ đô Constantinople bị chiếm đóng
, quốc vương bị bắt giữ và
phần lớn lãnh thổ bị các đế quốc
thắng trận (Anh và Pháp ) xâu xé
. Các tỉnh nói tiếng A-rập thuộc
đế quốc Ottoman trước kia ở vùng
Lưỡi liềm phì nhiêu bị phân
chia ra thành các thực thể mới ,
với tên gọi và biên giới mới . 2
trong số những tỉnh này , Iraq và
Palestine, được đặt dưới quyền
ủy trị của Anh , còn tỉnh thứ 3
, Syria , thì giao cho Pháp . Sau
này , nước Pháp lại chia nhỏ Syria
ra làm 2 phần , một phần gọi là
Liban , còn phần kia vẫn giữ tên
Syria . Ngưòi Anh cũng chia
Palestine ra làm 2 vùng nằm vắt
2 bên bờ sông Jordan ; bờ tây
thì vẫn giữ lại tên Palestine ,
còn phần bên kia mang tên
Cisjordan .
Bán
đảo Ả -rập, chủ yếu toàn núí và
các vùng sa mạc khô cằn và hiểm
trở , lúc đó được coi như
chẳng bỏ công chiếm đóng , cho
nên được phép giữ lại nền độc lập
bấp bênh và chẳng nhiều nhặn gì
. Người Thổ (Turkey, cuối cùng
cũng giải phóng được quê hương
của họ tại cao nguyên Anatolia ,
không phải bằng ảnh hưởng Hồi
giáo mà do phong trào quốc gia
thế tục do Mustafa Kemal , một
tướng lãnh Ottoman được biết nhiều
hơn dướí tên Kemal Ataturk .
Ngay cả khi viên tướng này
chiến đấu thành công để giải phóng
Thổ nhỉ kỳ khỏi sự thống trị của
phương Tây , ông ta cũng bước đầu
chấp nhận các đường lối Tây
phương , hoặc theo đường lối cách
tân của ông ta . Một trong những
đạo luật đầu tiên ông ban hành
vào tháng 11/1922 , là bãi bỏ
nhà nước sultan .
Quốc
vương Ottaman không những chỉ là
1 sultan , người cai trị của 1
đất nưóc cụ thể , mà còn được
rộng rãi thừa nhận là Caliph ,
tức là người đứng đầu của tất
cả người Hồi giáo Sunni , và là
người cuối cùng của 1 dòng dõi
quân vương được hình thành sau
khi Tiên tri Muhammad chết vào
năm 632 CN , và việc bổ nhiệm
người kế vị Ngài , không những chỉ
là người đứng đầu về tinh thần mà
còn là người đứng đầu về tôn giáo
và chính trị của 1 nhà nước và
của cộng đồng Hồi giáo . Sau 1 thời
gian ngắn thực hiện việc chế độ
Caliph tách biệt với nhà nước,
cuối cùng vào tháng 3/1924 người
Thổ bãi bỏ hẳn chế độ Caliph
.
Trong
suốt 13 thế kỳ , chế độ Caliph đã
trải qua nhiều thăng trầm , nhưng
nó vẫn còn là 1 biểu tượng mạnh
mẽ cho sự thống nhất , thậm chí
là 1 bản sắc Hồi giáo ; tòan thể
thế giới Hồi giáo cảm nhận sự
biến mất của nó dưới 2 mặt tấn
công của đế quốc ngọai bang cùng
với những kẻ cách tân trong nước
. Nhiều quốc vương và lãnh đạo
Hồi giáo có đưa ra một số cố gắng
cầm chừng để dành cái tước hiệu
bỏ trống đó , nhưng chẳng đựơc
ủng hộ bao nhiêu . Nhiều người Hồi
giáo vẫn còn trăn trở về sự thiếu
vắng này , và có người cho rằng
chính Usama bin Ladin - đã -
hoặc đang – có ước vọng muốn
dành chức Caliph.
Danh
từ Caliph đi từ tiếng Ả
-rập khalifa , có ý nghĩa
vừa là"người thừa kế" và "người phụ tá".
Lúc đầu , người đứng đầu
cộng đồng Hồi giáo là "khalifa của đấng tiên
tri của Thượng đế". Một số
người có nhiều tham vọng hơn ,
đã rút ngắn tên gọi thành"Khalifa của Thượng đế". Luận điệu
đòi uy quyền tinh thần này đã bị
chỉ trích nhiều và dần dần bị
bỏ đi , và các nhà lãnh đạo Hồi
giáo lại sử dụng rộng rãi một danh
xưng tuy vẫn như cũ nhưng ý nghĩa
có phần nhẹ hơn là"Cái bóng của
Thượng đế trên mặt đất". Trong
phần lớn lịch sử của định chế này
, những người nắm quyền Caliph
thỏa mãn với 1 danh xưng
khiêm tốn hơn , Almir
al-Mu’mmin , thương được
dịch là Đấng Thống lãnh
của các tín đồ"
Những
ẩn dụ lịch sử do bin Ladin nêu ra ,
có thể là khó hiểu đối với nhiều
người Mỹ , lại khá phổ biến đối
với người Hồi giáo , và chỉ có
thể hiểu đúng trong khuôn khổ
các nhận thức về bản sắc
( identity ) của vùng Trung đông ,
và đặt trong khung cảnh lịch sử
của vùng Trung đông . Ngay cả
cái quan niệm về lịch sử và
bản sắc cũng cần phải được định
nghĩa lại để cho người phương
tây muốn hiểu rõ vùng Trung
đông hiện tại . Theo kiểu nói
tiếng Mỹ hiện nay , thì câu"
đó là lịch sử" được sử dụng rộng
rãi để gạt bỏ những cái gì không
quan trọng , không liên quan đến
những điều quan tâm hiện tại ,
và nhưng trong tình hình hiện
nay , mặc dù việc dạy sử và viết
sử đã được đầu tư khá nhiều , nhưng
mức kiến thức chung về lịch sử của
xã hội Mỹ phải nói là cực kỳ thấp
.Trong khi đó , các dân tộc Hồi
giáo , cũng giống như mọi người
khác trên thế giới , đều được lịch
sử nhào nặn , nhưng không như những
người khác , họ lại có ý thức
sắc sảo về lịch sử . Tuy nhiên ,
ý thức của họ bắt nguồn từ lúc đạo
Hồi mới khởi phát , có lẽ có chút
ít liên quan đến các thời kỳ trước
Hồi giáo , cần thiết để giải thích
những ẩn dụ lịch sử trong kinh
Qu’ran và trong các truyền
thuyết và biên niên Hồi giáo sơ
kỳ . Đối với người Hồi giáo , thì
lịch sử Hồi giáo có ý nghĩa quan
trọng về mặt tôn gíao và về luật
pháp nữa , bởi vì nó phản ánh ý đồ
của Thượng đế cho cọng đồng của
Người - là những ai chấp nhận lời
giáo huấn Hồi giáo và tuân thủ
các luật lệ của đạo này . Lịch sử
của các nước và các dân tộc
không phải - Hồi giáo không có
nội dung này và vì thế đối với
người Hồi giáo , không hề có chút
giá trị hoặc điều gì đáng chú ý
gì cả . Ngay cả đến các quốc gia
có những nền văn minh cổ đại
giống như thế tại vùng Trung
đông , sự hiểu biết về lịch sử
của kẻ khác đạo ( pagan history ) -
về tổ tiên của họ những người đã
lưu truyền đền đài và chữ viết
khắp nơi – cũng chỉ là phần rất nhỏ
.Các ngôn ngữ và chữ viết cổ đại
đều bị quên lãng , các tài liệu cổ
xưa bị chôn vùi cho tới khi
chúng được các nhà khảo cổ và
ngữ học phương tây có óc tìm tòi
phát hiện và giải mã gần đây .
Nhưng từ khi Hồi giáo xuất hiện ,
các dân tộc Hồi giáo đã hình
thành 1 nền văn chuơng lịch sử
phong phú và dồi dào - thật vậy
, tại nhiều nơi , ngay cả tại
các quốc gia có nền văn minh cổ
đại như Ấn độ , thì những
trang lịch sử nghiêm túc chỉ ra
đời sau khi đạo Hồi du nhập .
Nhưng
lịch sử về cái gì ?. Trong thế
giới phương Tây , đơn vị cơ bản
của 1 tổ chức con người là quốc
gia ( nation ) , mà theo thông lệ
ở Mỹ chứ không phải theo châu Âu ,
thì hầu như đồng nghĩa với 1 đất
nước ( country ). Quốc gia sau đó
được chia nhỏ ra theo nhiều kiểu ,
trong đó có kiểu chia nhỏ theo tôn
giáo . Tuy nhiên , theo tín đồ Hồi
giáo , lại cho rằng không phải từ
1 quốc gia chia nhỏ ra theo từng
nhóm tôn giáo mà chính là 1 tôn
giáo chia nhỏ ra thành nhiều quốc
gia . Điều này hiển nhiên một phần
là do phần lớn các quốc gia-nhà
nước ( nation-states) hình thành
tại miền trung đông hiện nay là
những nước được thành lập tương
đối mới , dư vị của thời đại thống
trị đế quốc Anh -Mỹ tiếp sau sự
thất bại của đế quốc Ottoman ,
và những quốc gia-nhà nước này vẫn
duy trì cái khung nhà nước
( state-building ) và đường biên
giới do những ông chủ đế quốc cũ
vạch ra . Ngay cả tên gọi cũng
phản ánh tính giả tạo này : Iraq
là 1 tỉnh thời trung cổ với biên
giới khác rất nhiều so với biên
giới của nước cộng hòa hiện nay
( bỏ đi vùng Lưỡng hà ở phía bắc
và lấy thêm 1 mảnh đất nhỏ
của miền tây Iran ) ; tên các
nước Syria , Palestine và Lybia
có từ cổ đại nhưng lại không đựơc
sử dụng tại vùng này trong 1
ngàn năm hay nhiều hơn nữa trước
khi được đế quốc châu Âu vào thế
kỷ 20 phục hồi và gán cho những
đường biên giới mới và
thường là khác hẳn , Algeria và
Tunisia thậm chí chưa hề có
trong ngôn ngữ Arập – cùng 1 từ để
chỉ 1 thành phố và 1 đất nước .
Điều đáng chú ý nhất là trong
ngôn ngữ Ả -rập không có từ để chỉ
Arabia và đất nước Saudia
Arabia được gọi là "vương quốc
Arập Saudi "hoặc " bán đảo của
người Arập” tùy theo tình huống
. Thực ra không phải do tiếng
Ả -rập là 1 ngôn ngữ nghèo nàn
- mà ngược lại mới đúng – nhưng
bởi vì người Arập không hề nghĩ
đến việc kết hợp giữa bản sắc
dân tộc và lãnh thổ . Thật vậy ,
trích lời Caliph ‘Umar nói với
người Ả -rập ”Hãy nghiên cứu
dòng dõi của mình , và đừng có
giống như mấy kẻ nông phu khi
được hỏi đến nguồn gốc thì lại trả
lời Tôi là người từ nơi này
nơi nọ".
Vào
những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Hồi
giáo , cộng đồng Hồi giáo là 1
đất nước dưới quyền cai trị của 1
người . Ngay cả khi cộng đồng này
tách ra làm nhiều nước , thì lý
tưởng 1 thể chế nhà nước duy
nhất vẫn tồn tại . Các nhà nước hầu
như chỉ có tính triều đại , với
biên giới có dịch chuyển , và nắm
chắc một điều là , trong việc ghi
chép lịch sử cực kỳ phong phú
của thế giới Hồi giáo bằng tiếng Ả
-rập , Ba tư , Thổ nhĩ kỳ , lịch
sử của các triều đại , các thành
phố chủ yếu chỉ là lịch sử của
nhà nước và cộng đồng Hồi giáo
chứ không hề là lịch sử của nước
Ba tư hay Thổ nhĩ kỳ . Những tên
gọi này , không giống như Syria
hoặc Palestine hoặc Iraq , dành
cho những thực thể chính trị cũ
hòan tòan đã có độc lập chủ
quyền nhiều thế kỷ chứ không phải
là quốc gia mới thành lập .
Nhưng mãi cho tới thời hiện đại
, những tên gọi này không hề có
trong tiếng Arập , Ba tư hay Thổ .
Cái tên Thổ nhĩ kỳ , để chỉ 1 quốc
gia có người Thổ sinh sống và
nói 1 ngôn ngữ là tiếng Thổ ,
dường như phù hợp với kiểu thức
châu Âu bình thường khi gọi tên 1
đất nước theo tên sắc dân .
Nhưng cái tên này , thông dụng tại
châu Âu từ thời trung cổ , chỉ mới
được chấp nhận tại Thổ nhĩ kỳ
khi tuyên cáo thành lập nước
cọng hòa vào năm 1923 .
Ba tư ( Persia ) vốn có gốc châu Âu , đầu
tiên là do người Hi lạp phỏng theo
từ Pars , sau đó là Fars , là tên
1 tỉnh thuộc miền tây Iran. Sau
khi bị người Ả -rập chinh phục ,
do tiếng Ả -rập không có chữ p
nên mới trở thành Fars . Giống như
tiếng Castillian trở thành tiếng
Tây ban nha và tiếng Tuscan trở
thành tiếng Ý , cho nên Fars , vốn
là phương ngữ của Fars , trở thành
ngôn nhữ chính thức của quốc gia ,
nhưng trong tiếng Ba tư , tên của
1 tỉnh không bao giờ được dùng
chung cho cả 1 đất nước .
Cả
người Ả -rập lẫn người Thổ đều sản
sinh ra 1 nền văn học phong phú
mô tả những cố gắng của họ
chống lại châu Âu Cơ đốc , kể từ
những đợt thâm nhập đầu tiên của
người Ả -rập vào thế kỷ thứ 8 cho
đến cuộc thoái trận cuối cùng của
người Thổ vào thế kỷ 20 . Nhưng cho
tới giai đọan cận đại , khi các
khái niệm và phạm trù châu Âu trở
nên nổi trội , thì các chiến binh ,
viên chức và sử gia Hồi giáo
hầu như lúc nào cũng đề cập đến
kẻ đối nghịch với mình không theo
các thuật ngữ về quốc gia và lãnh
thổ mà vỏn vẹn chỉ là những kẻ vô
đạo ( infidels= kafir) , hoặc đôi
khi bằng những từ mơ hồ như người
Franks hoặc người Romans . Tương tự
như thế , họ không bao giờ gọi
những người thuộc phe mình là
người Ả-rập, người Ba tư hoặc
người Thổ ; họ chỉ xem mình là
người Hồi giáo . Viễn cảnh này
giúp ta hiểu được vì sao
Pakistan quan tâm đến Taliban và
những người kế tục của phe này tại
Afghanistan . Cái tên Pakistan ,
là 1 sáng chế của thế kỷ 20 , để chỉ
1 đất nước được hình thành trên cơ
sở tôn giáo và bổn phận đối với
Hồi giáo . Còn về mặt khác , đất
nước và con người Pakistan - như
đã từng có hàng ngàn năm qua – là 1
phần của Ấn độ . Một nước
Afghanistan có bản sắc Hồi giáo
sẽ là 1 đồng minh tự nhiên , thậm
chí là 1 chư hầu , của Pakistan.
Một Afganistan dưới bản sắc chủng
tộc , ngược lại , sẽ là 1 nước láng
giềng nguy hiểm , sẽ nung nấu
chủ trương đòi lại vùng đất nằm
phía tây bắc Pakistan có nhóm
người nói tiếng Pashto và có lẽ
còn liên kết với Ấn độ nữa .
Việc tham khảo những tài liệu lịch
sử sơ kỳ , thậm chí thời cổ đại
là điều thường gặp trong các
phát biểu trước công chúng . Lấy
ví dụ , vào những năm 1980 , trong
chiến tranh Iran- Iraq , cả 2 bên
đều phát động những chiến dịch
tuyên truyền rầm rộ thường xuyên
nhắc tới các biến cố và nhân vật
xa xưa ở thế kỷ thứ 7 , nhắc
tới các trận đánh tại Qadisiyya
( 637 C.E.) và Karbala ( 689 C.E.).
Trận Qadisiyya là do người Hồi giáo
Ả -rập tấn công và đánh thắng quân
đội của vua Ba tư , lúc đó chưa
theo Hồi giáo và như thế , dưới
mắt người Hồi giáo vẫn là kẻ vô
đạo và tà giáo . Cả 2 bên đều cho
mình là thắng trận - đối với
Saddam Hussein , là người Ả -rập
thắng người Ba tư , còn với
Ayatollah Khomeini , là người Hồi
giáo thắng kẻ không tín ngưỡng .
Việc đề cập đến các trận đánh
không được mô tả hoặc kể ra chi
tiết , nhưng chỉ là những lời
bóng gió ngắn gọn , không đầy
đủ , mà cả 2 phe sử dụng để
sao cho người nghe 2 bên chộp lấy ,
hiểu lấy , dù rằng phần lớn những
người nghe của cả 2 phía đều mù
chữ . Thật khó mà tưởng tượng
rằng bộ máy tuyên truyền cho quần
chúng ở châu Âu lại đưa ra
những ẩn dụ có từ thời xa lắc xa
lơ như thế , từ thời có chế độ thất
hùng ( heptarchy ) cai trị tại nước
Anh hoặc vua chúa dòng
Carolingian tại Pháp . Cũng theo
luận điệu ấy , Usama bin Ladin
lăng mạ khi ví Tổng thống
Bush với Pharaon , và tố cáo
Phó Tổng thống Cheney và Bộ trưởng
Powell là đã gây nhiều tang tóc
cho Iraq trong chiến tranh vùng
vịnh năm 1991 và những năm sau
đó còn nhiều hơn so với
thời các Hãn Mông cổ chinh
phục Baghdag và phá nát vương
triều Abbasid vào giữa thế kỷ 13 .
Nhận thức về lịch sử của người dân
Trung đông được nuôi dưỡng từ
những lời giảng kinh sách , từ nhà
trướng và từ các phương tiện truyền
thông , và dù rằng những nhận thức
này lắm khi thiên lệch và thiếu
chính xác , nhưng lại đầy sinh
động và gây cộng hưởng lớn .
Vào ngày 23/2/1998 , tờ báo tiếng
Ả -rập Al-Quds al-‘Arabi,
xuất bản tại Luân đôn , có in tòan
văn "Tuyên bố của Mặt trận Hồi
giáo thế giới kêu gọi thánh chiến
chống lại bọn Do thái và Thập tự
chinh". Theo như tờ báo cho
biết , thì tuyên bố này
đựơc gởi đến bằng fax
, có chữ ký của Usama bin
Ladin và các nhà lãnh
đạo các nhóm thánh chiến
( Jihad) ở Ai
cập, Pakistan và
Bangladesh . Bảng tuyên bố
bằng tiếng Ả -rập - với lời
văn hùng hồn , có
chỗ giống như thơ - đưa
ra 1 lối giải
thích lịch sử khác mà
đa số người châu Âu chưa
gặp bao giờ . Những
bất bình của bin Ladin
được nêu trong tuyên bố không hề
gíống với những gì mà
nhiều người mong đợi . Tuyên bố mở
đầu bằng những đoạn văn
trích dẫn sặc mùi hiếu
chiến trong kinh Qur’an kèm
theo những lời dạy của Tiên
tri
Muhammad
, và tiếp đến là :” Kể
từ khi Thượng đế dựng nên bán
đảo Ả -rập , có sa
mạc , có biển bao
quanh , thì chưa
hề có tai họa nào
giáng xuống cho đến khi
bọn Thập tự chinh
ào đến như châu chấu , nhung
nhúc trên mặt đất , ăn sạch
hoa màu , phà hủy
màu xanh ; và đây là lúc
mà các nước chống lại
người Hồi giáo như bọn đói ăn
xâu xé dành nhau
1 bát cơm"
Từ
điểm này tuyên bố kêu gọi cần
phải hiểu rõ để chấn chỉnh tình
hình . Theo tuyên bố này , các
thực trạng mà ai cũng rõ
được xếp theo 3 đề mục :
Một là – từ 7
năm qua , nước Mỹ đã xâm
chiếm phần đất đai linh thiêng
nhất của người Hồi giáo, đó
là Arabia , đã tước đọat của
cải khống chế các nhà cầm
quyền lăng nhục nhân dân,
uy hiếp các nước láng giềng
và sử dụng những căn cứ trên
bán đảo Ả -rập làm đầu cầu
để chống lại nhân dân Hồi giáo
các nước lân cận .
Mặc dù trong
qúa khứ đã có nhiều tranh cãi
về bản chất thực sự của sự
chiếm đóng này , nhưng tòan thể
nhân dân Arabia giờ đây đều
đã biết rõ .
Bằng chứng hiển
nhiên là nước Mỹ lấy
Arabia làm căn cứ để tiếp tục
xâm lược chống nhân dân Iraq
, dù rằng các nhà lãnh đạo
Arabia có phản đối nhưng đều
bị khống chế để cho Mỹ sử dụng
lãnh thổ của mình vào mục đích
xâm lược .
Hai là - mặc dù
liên minh Thập tự chinh- Do
thái gây ra sự tàn phá to
lớn cho người dân Iraq , và
mặc dù con số người chết đã
lên đến múc kinh hòang vượt
quá 1 triệu người , bọn Mỹ tuy
thế vẫn còn cố lập lại hành
động đồ tể đáng kinh sợ đó .
Dường như đối với chúng sau 1
cuộc chiến khốc liệt ,việc
phong tỏa kéo dài , sự băm xé
và hủy diệt vẫn còn chưa đủ .
Bây giờ chúng lại tiến công để
hủy diệt những gì còn sót lại
của dân tộc này và để hạ
nhục các nước Hồi giáo láng
giềng .
Ba là – Trong khi
bọn Mỹ nhắm vào các mục
đích tôn giáo và kinh tế trong
các cuộc chiến này , bọn chúng
cũng đồng thời phục vụ cho
miếng đất cỏn con của
bọn Do thái , nhằm đánh lạc
hướng việc chiếm đóng
Jerusalem và giết chóc tín
đồ Hồi giáo tại đó .
Không có bằng
chứng nào rõ hơn về vấn đề này
là ý muốn tiêu diệt nước Iraq
của bọn chúng , là nước mạnh
nhất trong các nước láng
giềng Ả -rập , và ý đồ của
chúng là băm nát tất cả các
quốc gia trong vùng như Iraq
và Saudi Arabia , Ai cập và
Sudan thành các nước con
con , để làm suy yếu các
nước này , để cho nước Israël
tồn tại và tiếp tục giúp cho
bọn Thập tự chinh chiếm
đóng và gây ra nhiều tai họa
trên bán đảo Arabia.
Những
tội ác này , bản tuyên bố tiếp tục
, đã trở thành 1 lời "tuyên
chiến rành rành của bọn Mỹ chống
lại Thượng đế , chống lại Đấng tiên
tri của người và tín đồ Hồi giáo
. Về mặt này , ý kiến thống
nhất của các bậc trí giả
( ulema
) qua bao thế kỷ là khi có kẻ
thù tấn công đất đai của người
Hồi giáo , thì thánh chiến là
bổn phận của mỗi tín đồ .
Những
người ra tuyên cáo trích dẫn
nhiều căn cứ trong kinh sách Hồi
giáo và sau đó đi đến phần
chót và quan trọng nhất của tuyên
bố , phần sắc lệnh ( fatwa ) , tóm
gọn như sau" giết bọn Mỹ và
đồng minh của chúng , dân sự
và quân sự , là nhiệm vụ của
mọi tín đồ Hồi giáo còn khỏe
mạnh , ở mọi nơi mọi
chốn , cho tới khi nào
giải phòng đựơc đền Aqsa
( tại Jerusalem ) và đền
Haram ( tại Mecca)
ra khỏi ách kìm kẹp
của chúng và cho tới
khi quân đội của
chúng bị đánh tơi tả và
gảy cánh , rút lui khỏi
mọi phần đất của
người Hồi giáo , không còn đủ
sức đe dọa bất cứ
tín đồ nào"
Sau
khi nêu thêm một vài đọan có
liên quan trong kinh Qur’an , tài
liệu viết tiếp :"Đựơc phép của
Thượng đế , chúng tôi kêu gọi
mọi tín đồ Hồi giáo những ai tin
vào Thượng đế và mong đựơc tưởng
thưởng vì vâng lời Thượng đế đi
giết bọn Mỹ và tước đọat tài sản
của chúng bất cứ khi nào nơi
nào có thể làm đựơc . Vì thế chúng
tôi kêu gọi mọi thầy cả ulema
và các nhà lãnh đạo Hồi giáo , các
thanh niên và chiến sĩ nhất tề tấn
công chống lại quân đội của bọn
quỉ Mỹ và chống lại những ai là
đồng minh của chúng trong hàng
ngũ của bọn tiếp tay cho quỉ
Satan" Tuyên bố và sắc chỉ kết
thúc bằng một số lời trích trong
kinh sách Hồi giáo .
Theo nhận thức thông thường của
phương tây , chiến tranh vùng
vịnh năm 1991 , là do Mỹ ,
liên minh Ả -rập và các đồng
minh khác phát động để giải phóng
Kuwait khỏi sự xâm lược của
Iraq và nhằm bảo vệ Saudi Arabia
chống lại sự tiến công của Iraq.
Cho rằng cuộc chiến này là 1 sự
tiến công của Mỹ chống lại Iraq
xem ra có vẻ hơi kỳ cục nhưng
viễn cảnh này đựơc thế giới Hồi
giáo chấp nhận rộng rãi . Khi
vụ việc Saddam Hussein tấn công
Kuwait đi vào quên lãng , thì
người ta lại quan tâm đến việc
Iraq bị cấm vận , máy bay của
Anh và Mỹ từ các căn cứ ở Arabia
tuần tra không phận Iraq ,
nỗi thống khổ của nhân dân Iraq
và sự thiên vị của Mỹ đối với
Israel được cảm nhận càng ngày
càng tăng .
3 khu vực gây bất bình đựơc nêu
trong tuyên bố - đó là Arabia ,
Iraq và Israel - tất cả đều quen
thuộc đối với những ai quan sát
tình hình vùng Trung đông . Cái
có lẽ ít quen thuộc là trình tự
và tầm quan trọng khi trình bày
3 khu vực này . Điều này sẽ không
gây ngạc nhiên cho bất cứ ai
thông thạo lịch sử và văn học
Hồi giáo . Đối với người Hồi giáo ,
do chúng ta ở phương tây thường
hay quên , đất thánh đúng nghĩa
là ở Arabia và đặc biệt là Hijaz
và 2 thành phố thánh – Mecca ,
nơi đấng Tiên tri chào đời , và
Medina , nơi ngài thiết lập đất
nước Hồi giáo đầu tiên ; đất
nước mà dân chúng là người đầu
tiên tập hợp quanh 1 đức tin
mới và là những người tiên phong
. Đấng tiên tri sống và tạ thế
tại Arabia cũng như những người
kế nhiệm trực tiếp , là các Caliph
, những người đứng đầu của cộng
đồng . Tiếp sau đó , trừ một
thời gian ngắn ở Syria , trung tâm
thế giới Hồi giáo và nơi đạt
đựơc những thành tựu chính của
Hồi giáo là Iraq , có thủ đô
là Baghdad , là nơi các Caliph
đóng đô trong nửa thiên niên kỷ
. Đối với người Hồi giáo , không
có mảnh đất nào một khi đã nhập
vào cương vực Hồi giáo lại vuột
ra được , không có nơi nào có thể
sánh được với Arabia và Iraq .
Và
trong 2 địa danh đó , Arabia
có tầm quan trọng vượt xa hơn
nhiều . Các sử gia Ả -rập kinh
điển cho ta biết rằng vào năm
20 kỷ Hồi giáo , tương ứng với
năm 641 CE. , Caliph ‘Umar ra
sắc lệnh đuổi người Do thái
và Cơ đốc ra khỏi các vùng biên
phía nam và phía đông của Arabia
, theo đúng huấn thị của Đấng
tiên tri thốt ra khi lâm chung
:” 2 đạo đó không được có mặt
tại Arabia".
Dân tộc đang đề cập là những
người Do thái tại ốc đảo Khaybar
, ở phía bắc và người Cơ đốc
Najran , ở phía nam. Cả hai đều
là những cộng đồng đã có mặt ở
đây từ xa xưa, tiếng nói , văn
hóa và cách sống đều rặc Ả
-rập , chỉ khác với người láng
giềng ở phần đức tin .
Một
số kinh sách Hồi giáo
sơ kỳ đặt nghi vấn
về việc gán ghép câu nói
này cho Đấng tiên tri . Nhưng
nó được nhiều
người chấp nhận
và thực hiện .
Việc trục xuất các nhóm
thiểu số tôn giáo là việc
cực kỳ hiếm trong lịch
sử Hồi giáo -
không giống như đạo Cơ đốc
thời trung cổ , việc trục
xuất người Do thái , và
sau thời kỳ Tái chinh phục , là
người Hồi giáo , là việc
bình thường và thường xuyên .
So với việc trục
xuất ở châu Âu , thì sắc
lệnh của ‘Umar vừa có
tính chừng mực và
còn có chút trắc
ẩn . Sắc lệnh này không bao
gồm miền nam và đông nam
bán đảo Arập , vốn không
được coi là nằm trong
vùng đất thánh Hồi giáo . Và
không giống như người Do thái
và tín đồ Hồi giáo
khi bị đuổi khỏi đất
Tây ban nha và những
quốc gia châu Âu khác ,
hễ tìm đựơc chỗ nào trụ được
thì cứ ở ; người Do thái và
Cơ đốc tại bán đảo Ả
-rập được tái định cư
tại những vùng đất
dành riêng cho họ , dân Do
thái ở Syria và
Palestine, dân Cơ đốc
tại Iraq . Tiến trình này
cũng khá
chậm rãi , không hề
gấp gáp , và có những
tờ trình cho biết dân Do thái
và Cơ đốc vẫn còn
ở lại Khaybar và Najrab một
thời gian sau khi sắc lệnh ban
hành .
Việc
trục xuất được tiến hành đúng hạn
, và từ đó cho đến nay , đất thánh
Hijaz là vùng đất cấm đối với
dân không theo Hồi giáo . Theo
trường phái giáo luật Hồi giáo
đựơc nhà nước Ả -rập Saudi và
Usama bin Ladin cùng phe đảng
công nhận , thì ngay cả việc
đặt chân lên đất thánh đối với
người không theo Hồi giáo là 1
sự vi phạm nặng . Tại những nơi
còn lại trong vương quốc , người
không theo Hồi giáo , tuy được
phép đến như du khách tạm thời ,
cũng không được phép thường trú
hoặc thực hành tôn giáo của mình
. Cảng Jedda trên bờ biển Đỏ từ lâu
đựơc coi như là 1 vùng cô lập về
mặt tôn giáo , tại đây các
phái đoàn ngọai giao , lãnh sự và
thương mãi chỉ được phép lưu trú
ngắn hạn .
Từ
1930 trở đi , dầu mỏ được
phát hiện và khai thác và tiếp
đến là sự phát triển của Riyadh
, thủ đô Saudi , từ 1 ốc đảo nhỏ
trở thành 1 thủ phủ lớn , đã
mang lại nhiều thay đổi , người
nước ngoài ồ ạt tràn đến , chủ
yếu là người Mỹ , đã tác động
lên mọi mặt của cuộc sống tại
vùng bán đảo này . Sự hiện diện của
người nước ngoài , vẫn bị nhiều
người coi như là 1 sự báng bổ thần
thánh , góp phần giải thích
thái độ bực tức ngày càng dâng
cao ở đây.
Bán đảo Ả -rập chỉ bị Thập tự chinh
đe dọa một thời gian ngắn vào thế
kỷ thứ 12 . Sau khi Thập tự chinh
bị thua trận và bỏ chạy , mối đe
dọa về kẻ vô đạo được cảm nhận
kế tiếp đối với Arabia bắt đầu
vào thế kỷ thứ 18 khi quyền lực
châu Âu được củng cố tại vùng nam
Á và sự xuất hiện của các chiến
thuyền châu Âu , đúng ra là của
dân Cơ đốc , ở ngoài khơi các bờ
biển Ả -rập. Cái ý thức bị
lăng nhục ít nhất cũng là 1
trong những yếu tố của cuộc
trổi dậy tôn giáo bùng lên tại
Arabia do phong trào Wahhabi ,
được dòng họ Saud , những
người khai lập ra nhà nước
Saudi ủng hộ . Trong suốt thời
gian chịu ảnh hưởng Anh – Pháp
và sau đó là sự thống trị tại
vùng Trung đông vào thế kỷ 19 và
29 , các thế lực đế quốc đã
cai trị Ai cập , Sudan , Iraq ,
Syria và Palestine. Các cường
quốc tuy chỉ mới đã gặm
những phần đất ngoài rìa bán đảo Ả
-rập , tại Aden và vịnh Ba tư ,
nhưng cũng đủ để đặt căn cứ quân
sự và can thiệp chính trị tối
thiểu vào tình bình nội bộ
của vùng này.
Khi
nào mà sự can thiệp của ngoại
bang chỉ khu trú về mặt kinh tế ,
và cũng chỉ khi nào mà những đền
bù vật chất thừa thải , xoa dịu
được những nổi bất bình , thì
tín đồ Hồi giáo mới chịu đựng
đựơc sự hiện diện của những
người không cùng tôn giáo .
Nhưng trong những năm gần đây ,
các điều kiện cam kết đã thay đổi
. Khi giá dầu giảm và dân số
tăng , chi tiêu tăng , phần bù
đắp ( rewards) không còn đầy đủ ,
thì những mối bất bình càng ngày
càng càng trở nên nổi trội hơn
,ồn ào hơn . Và nước ngoài không
chỉ nhúng tay vào các họat động
kinh tế .Cách mạng tại Iran , các
tham vọng của Saddam Hussein , và
tất cả các vấn đề tại khu vực
càng ngày càng trở nên nghiêm trọng
hơn , nhất là cuộc xung đột
Israel-Palestine, đã làm cho nước
ngoài can thiệp sâu hơn về mặt
chính trị và quân sự , và như thế
những tiếng kêu gào" chủ nghĩa đế
quốc"càng được nhiều người nghe
cho là có lý hơn .Khi có vấn đề
liên quan đến đất thánh , dân Hồi
giáo có khuynh hướng nhìn cuộc
chiến , và đôi khi với cả kẻ thù
nữa , dưới khía cạnh tôn giáo và
cho rằng quân đội Mỹ chỉ là quân
vô đạo và xâm lăng khi được gởi
tới để giải phóng Kuwait và bảo vệ
Saudi Arabia khỏi bị Saddam
Hussein tấn công . Nhận thức này
càng rõ hơn khi nước Mỹ là nước
đầu têu rành rành trong số
các cường quốc thuộc thế giới vô
đạo .
Đối
với đa số người Mỹ , tuyên bố của
bin Ladin là 1 sự đùa cợt , một
sự bóp méo trắng trợn về bản chất
và mục đích sự hiện diện của Mỹ
tại bán đảo Ả -rập . Họ cũng nên
biết là đối với nhiều người , có lẽ
là đa số dân Hồi giáo , tuyên bố
này cũng là 1 sự đùa cợt trắng
trợn về bản chất của Hồi giáo ,
ngay cả đối với học thuyết về
thánh chiến Jihad . Kinh
Qur’an đề cập đến chiến tranh
cũng như hòa bình . Trong số
hàng trăm ngàn truyền thuyết và lời
dạy ít nhiều đựơc gán cho Đấng
tiên tri và đựơc diễn giải đôi
khi theo rất nhiều cách , dẫn
tới nhiều chỉ dạy khác nhau ,
trong số đó sự diễn giải tôn giáo
dưới khía cạnh bạo lực và vũ
lực chỉ là một .
Trong lúc đó , có một số đáng kể
các tín đồ Hồi giáo sẳn sàng
đồng ý , và một số ít đem
ra áp dụng , cách thể hiện tôn
giáo của họ theo kiểu này . Chủ
nghĩa khủng bố chỉ cần đến 1 số ít
người . Hiển nhiên là phương
tây phải tự vệ bằng bất cứ phương
tiện nào có được . Nhưng trong
khi nghĩ ra cách để chống lại
bọn khủng bố , rõ ràng là cũng
cần hiểu rõ động lực nào đã thúc
đẩy chúng .
Khó
mà khái quát hóa về Hồi giáo .
Trước hết , bản thân của từ này
thường đựơc sử dụng với 2
nghĩa khác nhau nhưng lại liên
quan với nhau , tương đương với đạo
Cơ đốc ( Christianity ) và thế giới
Cơ đốc ( Christendom ) . Một
nghĩa để biểu thị một tôn giáo ,
1 hệ thống niềm tin và thờ
phượng ; một nghĩa khác , đó là 1
nền văn minh được sản sinh và nẩy
nở dưới sự bảo trợ của tôn giáo
đó . Bản thân từ Hồi giáo ( Islam
) đã là một lịch sử trên 14 thế
kỷ , với 1 tỷ 300 triệu tín đồ và
một truyền thống tôn giáo và
văn hóa cực kỳ đa dạng . Đạo Cơ
đốc và thế giới Cơ đốc đại diện
cho một thời kỳ dài hơn và giáo đồ
lớn hơn – trên 2 tỉ tín đồ , trên
20 thế kỷ và tính đa dạng thậm chí
còn lớn hơn. Tuy nhiên , một
số khái quát hóa có thể đưa ra và
đã được đưa ra về cái gọi là nền
văn minh Cơ đốc , Do thái – Cơ đốc
, hậu Cơ đốc và - đơn giản hơn
- phương Tây . Trong khi việc
khái quát hóa nền văn minh Hồi
giáo có thể khó khăn hơn và có
lúc nguy hiểm , nhưng lại là
việc không thể không làm và lắm khi
cũng có phần hữu dụng .
Về mặt không gian , cương vực Hồi
giáo trải dài từ Morocco tới
Indonesia , từ Kazakhstan đến
Senegal . Về mặt thời gian , đạo
này đã có hơn 14 thế kỷ , tính từ
lúc Đấng tiên tri bắt đầu giảng
đạo tại bán đảo Ả -rập vào thế
kỷ thứ 7 và ngài đã chủ trì dựng
ra 1 cộng đồng và 1 đất nước Hồi
giáo . Trong giai đoạn mà các sử
gia châu Âu gọi là thời kỳ đen tối
chen giữa sự suy tàn của nền văn
minh cổ đại – Hy lạp và La mã - và
sự trổi dậy của văn minh cận đại
– Châu Âu , thì Hồi giáo là 1 nền
văn minh chủ đạo trên thế giới ,
đựơc đánh dấu bởi các vương
quốc to lớn và hùng mạnh , có nền
kỹ nghệ và thương mãi phong phú
và đa dạng , nền khoa học và văn
chương độc đáo và sáng tạo . Hồi
giáo , vượt xa hơn Cơ đốc giáo
nhiều mặt , là giai đọan trung gian
giữa Đông phương cổ đại và Tây
phương cận đại trong đó có phần
đóng góp đáng kể của tôn giáo
này . Tuy nhiên trong 3 thế kỷ vừa
qua , thế giới Hồi giáo đã đánh
mất thế thống trị và vai trò lãnh
đạo , và đã tụt hậu sau cả
phương Tây hiện đại lẫn phương
Đông cách tân một cách nhanh chóng
. Cái hố ngăn cách càng ngày
càng rộng này đã đặt ra những
vấn đề cấp bách , cả về mặt thực
tiển lẫn tình cảm , mà cho tới
nay các nhà lãnh đạo , nhà tư
tưởng và kẻ nổi lọan của Hồi
giáo vẫn chưa tìm ra được câu trả
lời phù hợp
Với
tính cách là 1 tôn giáo , Hồi
giáo về mọi mặt đều rất gần gũi
với truyền thống Do thái- Cơ đốc
hơn bất cứ tôn giáo lớn nào tại
châu Á như đạo Hindu , đạo Phật
hoặc đạo Khổng . Đạo Do thái và
đạo Hồi có chung 1 niềm tin về
1 qui luật thần thánh chi phối
mọi mặt của sinh họat con người
, bao gồm cả đồ ăn thức uống .
Tín đồ đạo Cơ đốc và đạo Hồi đều
có chung tính thần hiếu thắng
( triumphalism) . Ngược lại với các
tôn giáo khác của nhân lọai , kể
cả đạo Do thái , 2 tôn giáo trên
tin rằng chỉ có họ là những người
may mắn tiếp thu và gìn giữ
thông điệp cuối cùng của Thượng
đế đối với con người , và họ có
nhiệm vụ mang lại cho phần còn
lại của thế giới . So sánh với
những tôn giáo xa hơn ở phương
đông , tất cả 2 tôn giáo ở vùng
Cận đông - đạo Do thái , đạo Cơ
đốc và đạo Hồi - đều có liên hệ
chặt chẽ với nhau và đúng
ra chỉ là các biến thể của cùng
1 truyền thống tôn giáo .
Thế
giới Cơ đốc ( Christendom ) và
Hồi giáo về nhiều mặt là những
nền văn minh anh em , cả 2 đều
bắt nguồn từ di sản chung về
sự mặc khải và tiên tri của người
Do thái và khoa học , triết học
của người Hi lạp , và cả 2 đều
đựơc nuôi dưỡng bởi các truyền
thống xa xưa của vùng Trung
đông cổ đại . Trong phần lớn
lịch sử chung của họ , họ đã
từng sát phạt nhau , nhưng ngay
cả trong chiến đấu và tranh luận ,
họ đều có những nét giống nhau cơ
bản và những đặc trung chung đã
nối kết họ với nhau , và làm cho
họ xa cách với những nền văn
minh xa xôi hơn ở châu Á .
Nhưng
dù có những nét tương đồng ,
vẫn có những cách biệt sâu sắc
giữa 2 tôn giáo này , đưa tới
những khác biệt hiển nhiên về
giáo lý và cách thờ phượng .
Không có nơi nào mà những sự khác
biệt trở nên sâu sắc –và hiển
nhiên- hơn là ở thái độ của 2 tôn
giáo này , và ở các điểm dẫn
giải có thẩm quyền , đối với các
mối quan hệ giữa nhà nước , tôn
giáo và xã hội . Người sáng lập
ra đạo Cơ đốc truyền dạy cho các
tông đồ"hãy trả cho Caesar những
gì của Caesar , và trả cho
Chúa những gì của Chúa"( Matt
.XXII:20 ) - và trong nhiều thế
kỷ , đạo Cơ đốc đã ra đời và lớn
mạnh như là 1 tôn giáo của
những con người bị áp bức , cho
tới khi hòang đế Constantine cải
giáo , thì chính Hòang đế La mã
( Caesar) mới trở thành 1 người Cơ
đốc và đưa ra một lọat những thay
đổi đưa đế quốc La mã theo 1
tín ngưỡng mới và làm chuyển
đổi thế giới . Người sáng lập đạo
Hồi chính là vua , đã sáng lập
ra nhà nước và đế quốc cho chính
mình . Như thế Ngài không tạo ra
- hoặc cần phải tạo ra - một giáo
hội . Sự phân tách giữa nhà nước
( regnum) và giáo hội ( sacerdotium
) , rất là quan trọng đối với đạo
Cơ đốc phương Tây , nhưng không hề
có tương đương trong đạo Hồi
. Khi Muhamad còn sống , đạo Hồi
lập tức trở thành 1 cộng đồng
chính trị và tôn giáo , với đấng
Tiên tri là người đứng đầu nhà
nước . Với vai trò này , Ngài
cai quản 1 vùng lãnh thổ và
1 dân tộc , đứng ra xử kiện , thu
thuế , chỉ huy quân đội , phát
động chiến tranh và đem lại hòa
bình . Đối với thế hệ khai sáng
đầu tiên của người Hồi giáo ,
những người đã làm nên những
cuộc phiêu lưu trong lịch sử thần
thánh của Hồi giáo , không hề bị
thử thách bằng sự ngược đãi ,
không có truyền thống chống
đối thù nghịch của quyền lực nhà
nước . Ngược lại , nhà nước cai trị
họ là 1 nhà nước Hồi giáo , và
Thượng đế chuẩn y chính nghĩa
của họ qua việc ban cho họ sự chiến
thắng và 1 đế quốc dưới cỏi thế
gian trần tục này .
Vào thời La mã dị giáo , Caesar
là Chúa . Đối với người Cơ đốc ,
có sự lựa chọn giữa Thượng đế và
Caesar , và có biết bao thế
hệ người Cơ đốc đã bị trói buộc
vào sự lựa chọn này . Với Hồi giáo
, không hề có sự lựa chọn đau đớn
đó . Theo cái tổ chức xã hội phổ
quát dưới mắt người Hồi giáo ,
không hề có Caesar nào cả mà chỉ
có 1 Thượng đế là đấng cai trị duy
nhất và đưa ra luật lệ duy nhất .
Muhammad là Tiên tri của Thượng
đế , khi còn sống là người giảng
đạo và cai trị dưới danh Thượng đế
. Khi Muhammad chết vào năm 632
CE, ngài đã hòan thành sứ mạng
tiên tri và tinh thần là đưa
Thiên kinh Qur’an đến với lòai
người . Phần còn lại là sứ mạng
tôn giáo nhằm quảng bá sự mặc
khải của Thương đế cho đến khi
tòan thế giới thảy đều chấp nhận
đạo Hồi . Có được điều này thì
phải mở rộng thẩm quyền và gia
tăng số lượng tín đồ trong cộng
đồng là những người gìn giữ 1
tín ngưỡng chân chính và tuân
thủ luật của Thương đế . Nhằm tạo
ra 1 sự gắn bó và lãnh đạo cần
thiết , cần phải có 1 người kế
nghiệp cho Đấng tiên tri .
Theo tiếng Ả -rập , Khalifa
là tước hiệu dành cho Abu Bakr ,
là cha vợ của Tiên tri , là người
kế tục đầu tiên , đứng lên nắm
lấy vai trò người đứng đầu cọng
đồng Hồi giáo đã tạo ra được
nền móng cho 1 định chế
Caliphate to lớn trong lịch sử .
Dưới sự lãnh đạo của Caliph ,
cộng đồng Hồi giáo tại Medina ,
nơi mà Đáng Tiên tri thống trị ,
chỉ trong vòng 1 thế kỷ đã lớn
mạnh thành 1 đế quốc rộng lớn ,
và Hồi giáo đã trở thành 1 tôn
giáo thế giới . Theo trải nghiệm
của những tín đồ Hồi giáo đầu tiên
, đã được ghi chép và lưu truyền
cho các thế hệ sau , thì chân lý
tôn giáo và quyền lực chính trị
có liên quan không thể tách rời
được : cái trước biện hộ cho cái
sau , cái sau làm cho cái trước
bền vững . Ayatolla Khomeini có
lần đã đưa ra ý kiến"Hồi giáo
là chính trị hoặc không là gì hết". Không phải mọi tín đồ Hồi
giáo đều cực đoan đến thế , nhưng
đa số đều nhất trí rằng Thượng
đế có tham gia vào chính trị , và
niềm tin này đựơc luật Shari’a xác
nhận và duy trì , cho rằng Luật
Hồi giáo liên quan rất nhiều đến
tính hợp pháp và thẩm quyền ,
các nghĩa vụ của người cai trị và
thần dân , nói vắn tắt , đó là
những điều mà phương Tây gọi là
luật hiến pháp và triết lý chính
trị .
Mối liên hệ lâu đời qua lại
giữa đạo Hồi và đạo Cơ đốc và
chính những sự tương đồng và
những ảnh hưởng qua lại giữa 2
tôn giáo đôi khi làm cho các nhà
quan sát bỏ qua những dị biệt
quan trọng . Mọi người cho
rằng , Qur’an là kinh thánh của
Hồi giáo , đền thờ là nhà thờ Hồi
giáo , và ulema là tăng sĩ Hồi
giáo . 3 điều này đều đúng ,
nhưng lại là những điều sai
lệch nghiêm trọng . Cựu ước và
Tân ước gồm có nhiều quyển
khác nhau , trải dài 1 thời gian
dài và đựơc các tín đồ coi là
sự thể hiện sự mặc khải của các
thánh . Còn Qur’an , đối với người
đạo Hồi , là 1 quyển kinh duy
nhất được 1 người là Tiên tri
Muhammad đưa ra trong đời ngài .
Sau những cuộc tranh luận rộng
rãi vào những thế kỷ đầu tiên của
Hồi giáo , học thuyết đựơc chấp
nhận là Kinh Qur’an tự nó không hề
đựơc ai viết ra , có tính vĩnh
viễn , thần thánh và bất di bất
dịch . Điều này đã trở thành 1
giáo lý trung tâm của tín ngưỡng .
Đền
thờ mosque qủa thật là 1 giáo
đừơng Hồi giáo theo nghĩa là 1
chỗ để thờ phụng chung cho cộng
đồng . Nhưng ta không thể nói đến
mosque như một nhà thờ Cơ đốc
đựơc - như là 1 định chế có ngôi
thứ và luật lệ riêng , đối nghịch
với nhà nước . Còn ulema ( tại Iran
và những nước Hồi giáo chịu ảnh
hưởng văn hóa Ba tư thì gọi là
mollah ) có thể coi như là những
chức sắc tôn giáo theo nghĩa xã
hội học , tức là những người làm
tôn giáo chuyên nghiệp được chứng
nhận đã qua đào tạo . Nhưng trong
Hồi giáo lại không có giới tu sĩ -
giữa Thượng đế và tín đồ không
có tu sĩ làm trung gian , không
có sự thụ phong , không ban phứơc
, không có qui định là tu sĩ mới
được hành lễ . Ta cũng có thể
bổ sung là trong qúa khứ , không
hề có công đồng hoặc hội nghị tôn
giáo , không có linh mục hoặc phán
quan để buộc mọi người phải theo
giao lý chính thống . Nhưng tại Iran
, những điều này không hòan tòan
đúng như vậy.
Chức
năng chính của ulema - theo
tiếng Ả -rập có nghĩa là kiến thức
- là người gìn giữ và diễn giải
Luật thánh . Vào cuối thời trung cổ
, xuất hiện một hình thức giống
như giáo khu , để chăm sóc các nhu
cầu của thường dân tại các đô
thị và làng mạc , nhưng những tổ
chức này có tính thần bí hơn là
theo đúng giáo lý Hồi giáo nên
thường tách rời và các ulema cũng
không mấy thích thú . Tại các
vương triều Hồi giáo sau này , như
Thổ nhĩ kỳ và Iran , một hình
thức thứ bậc tu sĩ xuất hiện ,
nhưng lại không ăn nhập gì đến
truyền thống Hồi giáo cổ điển ,
và các thành viên của những
đẳng cấp tôn giáo này không hề ,
cho đến nay vẫn thế , đòi hỏi có
được quyền lực của các giám mục Cơ
đốc .Vào thời cận đại , sau
bao biến đổi , chủ yếu là do ảnh
huởng của phương tây , đã hình
thành các định chế và nghề nghiệp
có nét hơi giống đáng ngờ với
các giáo hội và tu sĩ của đạo Cơ
đốc . Nhưng đây là những điểm xa
rời chứ không phải là quay về
với đạo Hồi cổ điển .
Nếu
ta có thể nói một chút gì về chức
sắc tôn giáo theo cái nghĩa hạn
hẹp về xã hội học trong thế giới
Hồi giáo , thì lại không hề có
ý nghĩa gì nếu ta nói đến con
người thế tục . Chính cái ý niệm
về một cái gì đó tách rời
hoặc thậm chí có thể phân tách
được khỏi thẩm quyền tôn giáo ,
theo các ngôn ngữ Cơ đốc thì
những từ như không thuộc giáo
hội , trần gian hoặc thế tục
, quả là hòan tòan xa lạ với tư
tưởng và thực hành đạo Hồi . Chỉ
mới đến thời cận đại tương đối gần
đây mới có những chữ tương đương
trong tiếng Ả -rập. Đó là những từ
do những người Cơ đốc nói tiếng Ả
-rập vay mượn hoặc đặt mới .
Thuở
sinh thời đấng Tiên tri , xã hội
Hồi giáo có 2 bản chất . Một
mặt , đó là 1 tổ chức nhà nước
- mà vai trò thủ lãnh lần lượt đi
từ 1 quốc gia đến 1 đế quốc .
Đồng thời , mặt khác , đó là 1
cộng đồng tôn giáo , do Đấng Tiên
tri sáng lập , được các đại
diện cũng là những người kế vị
của Ngài cai trị . Jesus bị đóng
đinh trên thập giá , Moses chết
khi chưa đến được miền đất hứa ;
cho nên niềm tin cũng như thái
độ của tín đồ các đạo Do thái và
cơ đốc vẫn còn chịu ảnh hưởng
sâu đậm khi nhớ lại những sự kiện
đó . Muhammad đã chiến thắng
trong đời của Người , và khi
chết là 1 người chiến thắng và
1 quân vương . Lịch sử về tôn giáo
của họ sau này có thể khẳng định
cho các thái độ xuất phát từ đó
của người đạo Hồi . Tại Tây Âu
, những kẻ xâm lược là bán
khai nhưng dễ dạy khi tiếp xúc
với 1 nhà nước và 1 tôn giáo có
sẵn , như đế quốc La mã và Giáo
hội Cơ đốc . Kẻ xâm lược chấp
nhận cả 2 , và cố gắng phục vụ
các nhu cầu và mục đích của họ
trong khuôn khổ hiện có của thể
chế xã hội La mã và Giáo hội Cơ
đốc có sẳn , cả 2 đều sử dụng
tiếng La tinh . Người Hồi giáo Ả
-rập khi xâm lược vùng Trung đông
và Bắc Phi đã mang theo tín
ngưỡng , chữ viết riêng của họ
bằng chính ngôn ngữ của họ ; họ
tạo ra 1 xã hội có tổ chức riêng
, có 1 bộ luật mới , 1 ngôn ngữ đế
quốc mới và 1 cơ cấu đế quốc
mới , với Caliph là người đứng đầu
. Nhà nước và tổ chức xã hội này
được Hồi giáo qui định và quyền
tham gia đầy đủ chỉ dành cho những
ai biểu lộ lòng tin nổi trội .
Sự
nghiệp của Đấng tiên tri Muhammad
, về mặt này cũng như trên tất
cả các mặt khác mà mọi tín đồ
tốt phải noi theo , chia ra làm 2
phần . Trong phần đầu , trong
những năm tại quê hương , Mecca
( ?570-622) , ngài là người đối đầu
với chế độ tà giáo đầu sỏ .
Trong phần 2 , sau khi chuyển từ
Mecca đến Medina (622-632) , ngài là
người đứng đầu nhà nước . Hai thời
kỳ trong sự nghiệp của Đấng tiên
tri , một là của sự phản kháng ,
một là của luật lệ , cả 2 đều
đựơc phản ánh trong kinh Qur’an ,
từng chương một , tín đồ buộc phải
tuân phục người đại diện cho
Thượng đế , và không đựơc nghe
theo Pharaon , tức là kẻ cai trị
độc tài và bất chính . 2 khía
cạnh này trong cuộc đời và sự
nghiệp của Đấng tiên tri gợi nên
2 truyền thống trong đạo Hồi , 1
là độc đóan và thanh tịnh , còn
mặt kia là cấp tiến và hành động
. Cả 2 mặt đều đựơc phản ánh
rộng rãi , một mặt là ở sự phát
triển của truyền thống , mặt kia
khi các biến cố xảy ra . Không
phải lúc nào cũng dễ dàng xác
định ai là đại diện cho Thượng
đế và ai là Pharaon ; đã có
biết bao nhiêu sách đựơc viết ra
và nhiều trận chiến nổ ra nhằm làm
rõ điều này . Vấn đề vẫn còn
mãi mãi và cả 2 truyền thống
đều có thể thấy rất rõ trong
những trận luận chiến và trong
thời đại chúng ta vấn đề đựơc
giải quyết bằng vũ lực .
Ở
giữa 2 thái cực là thanh tịnh và
cấp tiến , phần lớn đều bày tỏ
1 thái độ thận trọng , thậm chí là
ngờ vực đối với chính quyền . 1 ví
dụ là sự khác biệt sắc nét về thái
độ của người dân vào thời trung cổ
đối với quadi ( quan tòa )
, và với mufti
( cố
vấn pháp lý ) .Theo Luật thánh .
Qadi , do nhà vua bổ nhiệm , mà
trong văn học và truyền thống
dân gian là 1 khuôn mặt dễ mua
chuộc , thậm chí còn lố bịch nữa
; còn mufti , chỉ đến
thời trung cổ Hồi giáo mới có
, lại được các
đồng nghiệp và nhân
dân thừa nhận , là người được
kính trọng và mến
mộ . 1 chủ đề truyền thống ( topos ) trong tiểu
sử những con người ngoan đạo - mà
chúng ta có đến hàng trăm ngàn
người như thế - là 1 đấng anh
hùng được nhà nước tặng cho
chức tước nhưng lại từ chối . Ban
tặng chức tước vì có học vấn và
danh tiếng , còn từ chối là vì
lòng chính trực .
Vào thời đế chế Ottoman đã xảy ra
1 sự thay đổi quan trọng . Vị
quadi chiếm đựơc nhiều quyền
lực , và ngay cả vi Mufti
cũng bị lôi kéo vào hệ thống
công quyền . Nhưng thái độ nghi
ngờ xưa cũ đối với chính quyền vẫn
còn , và lại thường được giải bày
qua các châm ngôn , chuyện kể dân
gian và ngay cả trong văn học nữa
.
Qua hơn 1 ngàn năm , đạo Hồi chỉ
đưa ra 1 bộ luật và các nguyên tắc
đựơc nhiều người chấp nhận để
quản lý đời sống xã hội và công
cọng . Ngay cả trong thời kỳ ảnh
hưởng châu Âu cực thịnh , tại
các quốc gia đựơc các cuờng quốc
đế quốc châu Âu cai trị hoặc thống
trị cũng như tại các nước vẫn còn
độc lập , thì các khái niệm và
thái độ chính trị Hồi giáo vẫn còn
có ảnh huởng sâu đậm . Trong những
năm gần đây , có nhiều dấu hiệu cho
thấy những khái niệm và thái độ
này có thể phục hồi mạnh mẽ như
xưa, dù hình thức có thay đổi .
Chính trong lãnh vực chính trị -
đối nội , trong vùng cũng như
quốc tế - mà chính ta thấy sự
khác biệt rõ rệt nhất giữa đạo
Hồi và phần còn lại của thế giới.
Các nhà lãnh đạo hoặc bộ trưởng
ngọai giao của các nước Bắc Âu
và Anh quốc , chưa bao giờ tụ
tập tham dự các hội nghị thượng
đỉnh Tin lành , hoặc chưa bao
giờ người đứng đầu của Hi lạp , Nam
tư , Bulgiaria và Liên Xô , tạm
thời bỏ qua những khác biệt
chính trị và ý thức hệ , để tham
gia các hội nghị thường xuyên dựa
trên cơ sở là hiện nay hoặc trước
kia đó là các nước theo Chính
thống giáo . Tương tự như vậy , các
nước theo đạo Phật tại Đông và
Đông nam Á không lập ra 1 khối
Phật giáo tại Liên hợp quốc hoặc
trong các sinh họat chính trị khác
của họ . Ý tuởng dựa vào 1 tôn
giáo , trong thế giới hiện nay xem
ra có vẻ lỗi thời và thậm chí
còn vô lý nữa . Nhưng với đạo
Hồi thì không hề lỗi thời và vô
lý chút nào . Trong súôt thời kỳ
chiến tranh lạnh căng thẳng và sau
đó , có hơn 50 chính phủ Hồi giáo –
bao gồm các nước quân chủ và
cọng hòa , bảo thủ và cấp tiến ,
theo chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội , ủng hộ phương tây ,
phương đông và cả 1 loạt các
kiểu trung lập – đã dựng nên 1
bộ máy phức tạp dành cho việc
tham khảo ,và hợp tác nhiều mặt
giữa các nước với nhau .
Vào tháng 11/1969 , 1 hội nghị
thượng đỉnh Hồi giáo họp tại
Rabat , Maroc , quyết định thành
lập 1 cơ quan gọi là Tổ chức
Hội nghị Hồi giáo ( Organization of
Islamic Conference = OIC ) , với
ban thư ký thường trực đóng tại
Jedda , Saudi Arabia . Cơ quan này
ra đời ngay , và phát triển
nhanh trong thập niên 1970 . OIC
chú trọng nhiều đến việc giúp đỡ
các nước Hồi giáo nghèo , hỗ trợ cho
các nhóm thiểu số Hồi giáo tại
các quốc gia không Hồi giáo và
vị thế quốc tế của đạo Hồi và của
tín đồ đạo Hồi - theo lời của 1
quan sát viên , là quyền con người
theo Hồi giáo .
Tổ chức này hiện nay có 57 thành
viên , cọng với 3 quan sát viên
. 2 trong 3 nước này là Albani
và Thổ nhĩ kỳ , là những nước
châu Âu hoặc thiết tha muốn thuộc
về châu Âu ( Bosnia chỉ đựơc qui
chế quan sát viên ) ; 2 nước khác ,
Surinam ( gia nhập năm 1996) và
Guyana ( năm 1998 ) , nằm ở tây bán
cầu . Phần còn lại đều nằm ở châu
Á và châu Phi , trừ một vài
ngọai lệ , đều là những nước mới
dành đựơc độc lập vào cúôi thế kỷ
20 từ các nước Tây Âu , hoặc gần
đây hơn là từ Liên xô . Đa số đều
là các nước có dân cư phần lớn
theo đạo Hồi , mặc dù có 1 số ít
nước đựơc gia nhập vì sức mạnh
của thiểu số Hồi giáo . Bên cạnh
những nước này , có 1 số thiểu số
Hồi giáo quan trọng tại các quốc
gia khác - một số cũng na ná như
nhóm đa số , như tại Ấn độ ; một
số thì về mặt chủng tộc và tôn
giáo lại khác hẳn , như người
Chechen và Tatar thuộc Liên bang
Nga . Một số quốc gia nhự Trung
quốc , cũng có thiểu số Hồi giáo
nằm trong 2 tình huống trên . Hiện
nay còn có nhiều nước có thiểu số
Hồi giao do di dân .
Đã và đang có những hạn chế quan
trọng về tính hữu hiệu của OIC
với tính cách là 1 yếu tố trên
trừơng chính trị quốc tế . Khi
Liên xô xâm chiếm Afganistan
vào năm 1979 , hành động xâm
lược trắng trợn đối với 1 quốc gia
Hồi giáo có chủ quyền , đã không
tạo nên sự phản kháng nghiêm túc
nào , thậm chí còn đựơc một số
thành viên bảo vệ nữa . Gần đây
hơn , cơ quan này cũng không quan
tâm mấy đến những cuộc nội chiến
tại các nước thành viên như
Sudan và Somalia . Thành tích của
OIC đối với các vấn đề trong vùng
cũng không có gì nổi bật . Từ năm
1980 đến 1988 , 2 nước Hồi giáo là
Iran và Iraq , đã đánh nhau chí
tử với tổn thất rất nặng nề cho
cả 2 bên . OIC chẳng hề làm gì
để ngăn ngừa hoặc kết thúc cuộc
chiến này . Nói chung , OIC ,
không giống như tổ chức các quốc
gia châu Mỹ và Tổ chức Thống nhất
châu Phi , không hề quan tâm đến
sự vi phạm nhân quyền và các vấn
đề nội bộ của các nước thành viên ,
mối quan tâm về nhân quyền của OIC
đối với các tín đồ đạo Hồi sống
tại các nước không - Hồi giáo ,
trước hết là tại Palestine, cũng
không nhiều . Tuy nhiên , không nên
xem nhẹ tổ chức OIC . Các họat
động văn hóa và xã hội của tổ
chức này càng ngày càng trở nên quan
trọng , và bộ máy giúp cho công
tác tham khảo thường xuyên giữa
các nước thành viên có thể đóng
vai trò quan trọng hơn một khi
chiến tranh lạnh cùng các tác
động xâu xé của nó lùi vào quá
khứ .
Đi
từ các vấn đề chính trị quốc tế
và khu vực sang nội bộ , thì sự
khác biệt giữa Hồi giáo và phần còn
lại của thế giới , dù ít nổi bật
hơn , nhưng vẫn khá quan trọng
. Tại một số các quốc gia đang
thực hiện dân chủ đa đảng , có
những chính đảng theo chủ trương
tôn giáo - đạo Cơ đốc tại phương
Tây , đạo Hindu tại Ấn độ , đạo
Phật tại phương Đông . Nhưng
những đảng này tương đối không
nhiều , và những đảng đóng vai trò
chính lại còn ít hơn . Nhưng ngay
cả đối với những đảng này , thì
chủ đề tôn giáo thường không quan
trọng mấy trong chương trình
hành động của họ cũng như sức
lôi cuốn của chủ đề này đối với cử
tri . Tuy nhiên tại nhiều nước ,
đúng ra là đa số , các nước Hồi
giáo , tôn giáo vẫn là 1 yếu tố
chính trị chính – các vấn đề đối
nội còn quan trọng hơn quốc tế
hoặc trong vùng . Tại sao có sự
khác biệt này?.
Một
câu trả lời rất rõ ràng; phần lớn
các nước đạo Hồi vẫn còn mang ảnh
hưởng Hồi giáo rất nặng , nếu
xét theo nghĩa này thì đa số
các nước đạo Cơ đốc không còn
mang tính Cơ đốc nữa . Phải thừa
nhận rằng , nhiều nước trong
nhóm các nước này , niềm tin Cơ đốc
và giới tăng lữ duy trì niềm tin
này vẫn còn là lực lượng có
thế lực , và mặc dù vai trò của họ
tuy không còn được như trong
các thế kỷ trước , nhưng không hề
giảm ý nghĩa. Nhưng hiện nay ,
không có quốc gia Cơ đốc nào
mà các nhà lãnh đạo tôn giáo
lại trông chờ vào mức độ tin tưởng
và tham gia vào tôn giáo như vẫn
xảy ra bình thường tại các lãnh
thổ đạo Hồi . Ít quốc gia Cơ đốc
nào , nếu có , lại coi tính thiêng
liêng Cơ đốc là điều cấm kỵ ,
không được đem ra bình phẩm hoặc
thảo luận thấu đáo . Còn tại các
nước đạo Hồi tính cấm kỵ này là
đương nhiên ngay cả ở các xã
hội thế tục và dân chủ về
hình thức . Thực vậy , tính cấm kỵ
theo đặc quyền này đã được
mở rộng , trên thực tế , đến
những quốc gia châu Âu nơi có
các cộng đồng Hồi giáo đến sinh
sống và nơi mà tín ngưỡng và
thực hành đạo Hồi được hưởng một
mức độ miễn trừ không bị phê
phán mà đa số người Cơ đốc đã
đánh mất và người Do thái chưa bao
giờ có được . Điều quan trọng nhất
là , với rất ít ngọai lệ , giới
tăng lữ Cơ đốc không hành sử
hoặc thậm chí đòi phải có cái
thẩm quyền công khai vẫn đựơc coi
là bình thường và được chấp
nhận tại phần lớn các quốc gia
Hồi giáo .
Mức độ tin tưởng và thực hành tôn
giáo cao hơn ở tín đồ đạo Hồi khi
so sánh với những người theo tôn
giáo khác chỉ giải thích một
phần , chứ không phải là tòan thể
, cái thái độ Hồi giáo độc đáo đối
với chính trị bởi vì ta cũng có
thể gặp thái độ này ở các cá nhân
và thậm chí những nhóm người mà sự
sốt sắng với niềm tin và thực hành
tôn giáo chỉ có tính chiếu lệ .
Hồi giáo không những chỉ là niềm
tin và thực hành , mà còn là 1
bản sắc và sự trung thành - mà đối
với nhiều người , không có gì vượt
qua được bản sắc và sự trung thành .
Nhìn bề ngoài , thì việc du nhập
các ý niệm phương tây về lòng ái
quốc và chủ nghĩa quốc gia đã
thay đổi mọi thứ và đưa tới sự
thành lập một lọat các nhà nước
cận đại , đã mở rộng thế giới Hồi
giáo từ Morocco tới Indonesia .
Nhưng những cái lộ ra bề mặt
không phải là tất cả . Kể ra 2 ví
dụ cũng đủ . Năm 1923 , sau chiến
tranh lần chót giữa Hilạp- Thổ , 2
chính phủ đồng ý giải quyết các
vấn đề về nhóm dân thiểu số
bằng cách trao đổi cho nhau -
người Hi lạp được chuyển từ Thổ
sang Hi lạp , người Thổ từ Hi lạp
sang Thổ . Ít nhất thì đó cũng là
những gì mà các sách lịch sử thuật
lại . Nhưng thực tế lại có phần
khác hẳn . Trong nghị định thư mà
2 nước ký tại Lausanne năm 1923 ,
chỉ nêu ra thỏa thuận trao đổi ,
không hề nói đến"người Hi lạp"và "người Thổ ‘ . Nghị định thư
nêu rõ những người được trao đổi là"công dân Thổ theo đạo Chính
thống Hi lạp đang sống tại Thổ
nhĩ kỳ và" công dân Hi lạp
theo đạo Hồi đang sống tại Hi
lạp". Như vậy nghị định thư chỉ
thừa nhận có 2 lọai bản sắc -
một là xác định theo công dân
của 1 quốc gia , còn cái kia là
tín đồ của 1 tôn giáo . Nghị định
thư không hề nhắc đến tính chất
dân tộc về mặt chủng tộc hoặc ngôn
ngữ . Tính chính xác của tài liệu
này nhằm nêu rõ ý đồ của các bên
tham gia ký kết đã đựơc xác định
bằng việc trao đổi trên thực tế .
Nhiều người trong số những người
gọi là người Hi lạp từ tỉnh
Karaman thuộc vùng Anatolia
( Thổ ) nói tiếng mẹ đẻ là tiếng
Thổ nhưng viết theo mẫu tự Hi
lạp và theo đạo Chính thống .
Nhiều người trong số những người
tạm gọi là người Thổ sống tại Hi
lạp chỉ biết chút ít hoặc không
biết tiếng Thổ và thường nói
tiếng Hi lạp - nhưng lại viết bằng
mẫu tự Thổ - Arập. Một quan sát
viên Tây phương , quen theo hệ
thống phân lọai phương tây , có thể
kết luận rằng những gì mà các
chính phủ Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ thỏa
thuận và đạt được không phải là
sự trao đổi và hồi hương của các
nhóm thiểu số Hi lạp và Thổ nhưng
đúng ra là vừa trục xuất và
vừa lưu đày - người Hi lạp Hồi
giáo về Thổ nhĩ kỳ , và người Thổ
Cơ đốc về Hi lạp . Cho đến mãi
gần đây , Hi lạp và Thổ nhĩ kỳ , cả
2 đều là các nước dân chủ theo
phương tây , một nước đã là thành
viên , nước kia đang làm đơn xin
gia nhập Liên hiệp châu Âu ( EU) ,
đã nêu ra vấn đề tôn giáo trong
các văn kiện nhà nước .
Ví
dụ thứ 2 là Ai cập. Có ít quốc
gia nào đúng nghĩa hơn - một
quốc gia được được định nghĩa sắc
nét với lịch sử và địa lý , có 1
lịch sử văn minh liên tục từ 5000
năm trước đó . Nhưng Ai cập lại có
nhiều bản sắc , và trong 14 thế kỷ
gần đây , tức là từ khi Hồi giáo Ả
-rập chinh phục Ai cập vào thế kỷ
thứ 7 và sau đó bị Hồi giáo hóa
và Arập hóa đất nước này , thì
bản sắc Ai cập ít khi nào đựơc nổi
trội , nhường lại cái tự hào cho
bản sắc văn hóa và ngôn ngữ Ả
-rập và , trong phần lớn lịch sử
của nước này , đã nhường chỗ cho
bản sắc tôn giáo đạo Hồi .Với tính
cách quốc gia , Ai cập là 1
trong những quốc gia cổ xưa nhất
trên thế giới . Còn Ai cập là nhà
nước-quốc gia là 1 sự sáng tạo
cận đại , và vẫn còn phải đối
đầu với nhiều thách thức từ
trong nước . Hiện nay , thách thức
lớn nhất tại Ai cập cũng như
tại một số nước Hồi giáo khác là
do các nhóm Hồi giáo cấp tiến ,
thường đựơc gọi sai lệch là nhóm" chính thống” .
Kể từ thời của Người khai đạo ,
và vì thế trong các kinh thánh ,
trong tâm trí và kí ức của người
Hồi giáo , đạo Hồi dính liền với
sự hành sử quyền lực chính trị và
quân sự . Đạo Hồi kinh điển
thừa nhận rạch ròi giữa những việc
của thế giới này và những việc
của thế giới sau , giữa những
điều quan tâm sùng đạo và trần
tục . Đạo Hồi không thừa nhận 1
thể chế riêng rẽ , có tôn ti trật
tự và luật pháp riêng , để điều
phối những vấn đề tôn giáo .
Liệu
điều này có nghĩa là Hồi giáo
là 1 nền chính trị thần quyền ?.
Theo chiều hướng Thượng đế được
xem như là đấng cai trị tối cao ,
thì câu trả lời quả là đúng như
thế. Theo chiều hướng 1 chính phủ
cai trị bởi giới tăng lữ , thì
hầu như chắc chắn là không phải. Sự
xuất hiện của 1 hệ thống thứ bậc
giới tăng lữ và việc nắm lấy
quyền uy lớn nhất trong 1 nhà
nước là 1 sự cải tiến hiện đại và
là sự đóng góp độc đáo của cố giáo
chủ Khomeini của Iran vào tư
tưởng và thực hành Hồi giáo .
Cuộc cách mạng Hồi giáo tại Iran
, giống như các cuộc cách mạng Pháp
và Nga ở nhiều mặt , đã tạo nên 1
tác động to lớn không những chỉ ở
trong nước và đối với dân chúng
nước đó mà còn đối với các
quốc gia và dân tộc có chung 1
thế giới quan . Cũng giống như
cách mạng Nga và Pháp vào thời
điểm nổ ra , cách mạng Hồi giáo
cũng khơi dậy biết bao hy vọng
và nhiệt tình . Giống như những cuộc
cách mạng đó , nó đã dùng đến
khủng bố rồi chiến tranh can
thiệp ; cũng có các phái Jacobin
và Bolshevik , quyết tâm đè
bẹp bất cứ dấu hiệu nào của chủ
nghĩa thực dụng hoặc ôn hòa .
Và cũng giống như các cuộc cách mạng
trước , nhất là cách mạng Nga ,
cách mạng Hồi giáo có cả 1 hệ
thống các điệp viên và đặc sứ
bằng đủ các cách cố đẩy mạnh sự
nghiệp cách mạng hoặc ít nhất thì
cũng củng cố cái chế độ đựơc coi
như là đại diện cho cuộc cách mạng
đó.
Từ
cách mạng bị sử dụng sai
nhiều tại vùng Trung đông cận
đại , được dùng cho - hoặc gán
cho- nhiều biến cố mà đúng ra theo
tiếng Pháp , đó là đảo chánh
( tiếng Pháp coup d’état ,
tiếng Đức putsh , tiếng Tây
ban nha pronunciamiento ) .
Điều thú vị là , theo kinh nghiệm
chính trị của những dân tộc nói
tiếng Anh lại không có thuật ngữ
tương đương . Biến cố đang xảy ra
tại Iran không giống chút nào
những điều đã đề cập nhưng theo
nguồn gốc thì đó là 1 cuộc
vận động thay đổi có tính thực sự
cách mạng . Giống như những cách
mạng trước , có nhiều lúc lại bị
sai lệch quá đà , đưa tới chế độ
chuyên chế trong nước , khủng bố và
lật đổ ở nước ngoài . Không giống
như nước Pháp và nước Nga cách mạng
, nước Iran cách mạng không hề có
các phương tiện , nguồn lực , và
kĩ năng để trở thánh cuờng quốc
cũng như 1 mối đe doạ tầm cở thế
giới . Mối đe doạ của cách mạng
này chủ yếu và trước tiên chỉ
nhằm tới tín đồ và đạo Hồi mà thôi
.
Làn
sóng cách mạng trong Hồi giáo có
nhiều thành phần . Một trong những
thành phần này là cái cảm giác
bị lăng nhục : cảm nghĩ của 1 cộng
đồng dân tộc quen xem mình là
những người gìn giữ duy nhất
chân lý của Thượng đế , được Người
giao cho nhiệm vụ mang chân lý
này đến những kẻ vô đạo , đột
nhiên lại thấy mình bị cai trị
và bị bóc lột bởi những kẻ vô
đạo đó và , ngay cả khi không còn
bị cai trị , vẫn còn tiếp tục chịu
ảnh hưởng sâu đậm bởi những phương
cách đã làm thay đổi cuộc sống của
họ , đẩy họ vào những con đường
khác xa rời Hồi giáo chân thực .
Thêm vào tủi nhục là sự nản lòng
khi đưa ra nhiều biện pháp sửa
chữa - đa số đều nhập từ phương
Tây về - để rồi rồi lần lượt
đều thất bại .
Sau
sự tủi nhục và nản lòng là 1
thành tố thứ 3 , cần thiết cho sự
nổi loạn - đó là sự tin tưởng
và ý thức về quyền lực mới . Yếu
tố này xuất hiện từ vụ khủng hoảng
dầu mỏ năm 1973 , khi ủng hộ cuộc
chiến của Ai cập chống lại Israel,
các nước Ả -rập sản xuất dần mỏ
sử dụng việc cung cấp dầu và nâng
giá dầu thành 1 vũ khí rất hiệu
qủa . Sự giàu có , hãnh diện và
tự tin đựơc củng cố thêm bởi 1
yếu tố mới – đó là sự khinh bỉ .
Khi tiếp xúc gần gũi với châu Âu
và Mỹ , các du khách đạo Hồi
bắt đầu nhận xét và xem những gì
họ thấy đựơc như là sự suy đồi
đạo đức và coi đó là sự yếu
đuối của nền văn minh phương Tây
.
Trong 1 thời đại đầy rẩy những
cung bậc cường điệu , các ý thức
hệ chao đảo , lòng trung thành
nhàm chán , và các định chế
rệu rã , thì 1 ý thức hệ được
diễn đạt bằng thuật ngữ đạo Hồi
đã đưa ra đựơc nhiều ưu điểm :
là 1 cơ sở hết sức quen thuộc về
bản sắc riêng của từng nhóm
người , là tình đoàn kết và chỉ
dành cho người trong nhóm ; một cơ
sở chấp nhận được về tính chính
đáng và thẩm quyền ; một cách phát
biểu dễ hiểu ngay về các nguyên
tắc phê bình của hiện tại và 1
chương trình hành động trong tương
lai . Qua đó , Hồi giáo có thể đưa
ra các biểu tượng và khẩu hiệu
hữu hiệu nhất để huy động nhằm
ủng hộ hay chống lại 1 sự nghiệp
hoặc 1 chế độ .
Các phong trào Hồi giáo cũng có
1 lợi thế cực kỳ khác không hề
giống với tất cả các phong
trào khác . Tại các đền thờ
mosque , họ đều xây dựng 1 hệ
thống liên kết và thông tin mà
ngay cả các chính phủ độc tài nhất
cũng không thể nào kiểm soát hết
được . Thật vậy , các nhà độc tài
tàn bạo giúp sức cho họ , dù không
cố ý , bằng cách loại trừ các
nhóm đối lập cạnh tranh .
Chủ
nghĩa Hồi giáo cấp tiến ( Radical
Islamism ) , mà ta thường gọi là
Hồi giáo chính thống ( fundamentalism) , thật ra không
phải là 1 phong trào đồng nhất đơn
độc .Có nhiều kiểu chính thống Hồi
giáo tại nhiều nước khác nhau và
đôi khi thậm chí chỉ trong cùng
1 nước . Một số đựơc nhà nước bảo
trợ - được chính phủ này hay
chính phủ Hồi giáo khác công nhận ,
sử dụng và tích cực vận động
vào các mục tiêu riêng của họ ;
một số là các phong trào quần
chúng đích thực do nhân dân lập ra
. Trong số các phong trào Hồi
giáo do nhà nước bảo trợ lại có
nhiều loại , cấp tiến và bảo
thủ , có tính lật đổ và ngăn chặn
( preemptive) . Các phong trào bảo
thủ và ngăn chặn là do các
chính phủ đang cầm quyền xướng ra
, nhằm để tự bảo vệ họ khỏi làn
sóng cách mạng . Đó là các phong
trào nhiều lần đựơc các chính phủ
Ai cập , Pakistan và nhất là Saudi
Arabia khuyến khích . Còn loại
kia , có tầm quan trọng hơn nhiều
, từ cơ sở đi lên , có nền tảng
bình dân thực sự . Phong trào đầu
tiên trong loại này chiếm
được quyền lực và hành công nhất
trong sử dụng quyền lực là
cách mạng Hồi giáo tại Iran .
Các chế độ Hồi giáo cấp tiến hiện
đang cầm quyền tại Sudan , và có
lúc tại Afghanistan , và các phong
trào Hồi giáo đang tạo ra các mối
đe doạ chính cho cái trật tự
từng bị lâm nguy ở những nước khác
, nhất là Algeria và Ai cập .
Các nhóm Hòi giáo chính thống ,
không giống như các nhóm Tin lành
( Protestant ) – chính tên gọi
chính thống vốn là của Tin lành ,
không đưa ra những khác biệt
nào về so với cái chung về các
vấn đề thần học hoặc cách diễn
giải kinh thánh . Phê phán của họ
nằm ở chiều hứơng rộng hơn , thuộc
về xã hội . Theo cách nhìn của họ
, thì thế giới Hồi giáo đã đi
sai đường . Các nhà lãnh đạo
của họ tự gọi mình là tín đồ đạo
Hồi , giả vờ là người đạo Hồi ,
nhưng thực ra đó là những kẻ bỏ
đạo đã chiếm đoạt đất Thánh và
chấp nhận các luật lệ , phong tục
của kẻ vô đạo xa lạ . Giải pháp
duy nhất , theo họ , là quay về
lối sống Hồi giáo đích thực , và vì
thế việc loại bỏ các chính quyền
phản đạo là bứơc cơ bản đầu tiên .
Theo hướng này , thì các nhóm
chính thống đều chống phương Tây
bởi vì họ xem phương Tây như là
nguồn gốc của tội lỗi đã làm xói
mòn xã hội Hồi giáo , nhưng mũi
tấn công đầu tiên của họ là nhắm
vào các nhà lãnh đạo và cai trị
của họ. Đó là các phong trào
lật đổ vua Shah tại Iran năm 1979
và ám sát Tổng thống Sadat của Ai
cập 2 năm sau đó . Cả 2 phong trào
đều đựơc coi như là triệu chứng
của 1 tai hoạ sâu xa hơn cần phải
chữa trị bằng cách thanh trừng
nội bộ . Tại Ai cập , họ đã giết
nhà cai trị nhưng không chiếm
đựơc nhà nước ; tại Iran họ phá
huỷ 1 chế độ rồi dựng nên 1 chế độ
của chính họ .
…………..
Hồi
giáo là 1 tôn giáo lớn trên thế
giới . Hồi giáo đã đem lại phẩm
giá và ý nghĩa cho biết bào cuộc
đời nghèo khó và buồn tẻ . Hồi
giáo đã dạy nhiều người thuộc
các chủng tộc khác nhau sống
như huynh đệ và dạy các dân tộc
có tín ngưỡng khác nhau cùng
sống bên nhau khoan dung hợp lẽ .
Hồi giáo là nguồn cảm hứng cho
một nền văn minh lớn trong đó
cùng với tín đồ Hồi giáo , những
tín đồ tôn giáo khác đã cùng chia
xẻ cuộc sống sáng tạo và hữu ích
và những thành tựu của nền văn
minh này đã tạo sự phồn vinh cho
toàn thế giới . Nhưng cũng giống
như mọi tôn giáo khác , Hồi giáo
đã trải qua những giai đoạn mà
qua đó làm cho một số tín đồ chỉ
nhìn thấy sự thù hận và bạo lực .
Quả là chúng ta không may mắn
khi phải đối đầu với một phần
thế giới Hồi giáo đang trải qua 1
giai đoạn như thế và khi phần lớn
– dù rằng không phải tất cả -
của những sự thù hận đó lại
hướng về phía chúng ta .
Tại
sao như vậy ?. Ta không nên
thổi phồng tầm vóc vấn đề . Thế
giới Hồi giáo không hề nhất trí
về mặt từ bỏ phương tây cũng như
thái độ thù nghịch không chỉ có ở
những khu vực Hồi giáo thuộc Thế
giới thứ 3 . Vẫn còn có một số
đáng kể , trong một số khu vực
lại là đa số, những tín đồ Hồi
giáo cùng chia sẻ vơi chúng ta
một số khát vọng và tín niệm
cơ bản về văn hoá , đạo đức , chính
trị và xã hội ; vẫn còn sự
hiện diện đáng kể của phương tây
– văn hoá , kinh tế , ngoại giao-
tại các vùng đất Hồi giáo , trong
số đó có một số là đồng minh
của phương tây . Nhưng cũng có
1 làn sóng thù hận khiến ta
phải lo âu , hoảng hốt và nhất
là làm rối trí người Mỹ .
Thường thì sự căm ghét này vựơt
quá mức độ thù địch đối với một
số quyền lợi hoặc hành động
hoặc các chính sách hoặc thậm
chí đối với các quốc gia và trở
thành sự chối bỏ nền văn minh tây
phương nói chung , cũng không nhiều
hơn đối với mức hiện có , và
đối với các nguyên tắc và giá trị
mà nền văn ninh này đang thực
hiện và rao giảng . Những đặc
trưng của nền văn minh phương tây
bị người Hồi giáo coi như là xấu
xa từ cốt tuỷ , cho nên kẻ
nào xiển dương hoặc chấp nhận
đều bị coi như là"kẻ thù của
thượng đế” .
Nhóm từ này , vốn đựơc các nhà
lãnh đạo Iran tuyên bố lập đi lập
lại thường xuyên , trong các
biên bản toà án và cả trong các
tuyên ngôn chính trị , đối với một
người hiện đại ngoài cuộc phải
nói là rất lạ lẫm , dù về mặt
tôn giáo hoặc thế tục . Ý tưởng
cho rằng Thượng đế có kẻ thù ,
và cần có sự giúp đỡ của con người
để lật mặt và xử lý kẻ thù , quả
là hơi khó nuốt . Tuy nhiên , điều
này chẳng hề trái ngược chút nào .
Cái quan niệm về kẻ thù của
Thượng đế đều thường gặp ở
thời cổ đại cổ điển và tiền cổ
điển , có trong Cựu ứơc , Tân
ứơc cũng như trong kinh Qur’an.
Theo Hồi giáo , thì cuộc chiến
giữa thiện và ác , ngay từ đầu
, được xét trên bình diện chính
trị và cả quân sự nữa. Ta nhớ
rằng , Muhammad không những chỉ
là 1 nhà tiên tri và người giảng
đạo giống như các đấng lập đạo ,
ngài cũng là 1 chiến sĩ và là
nhà cai trị . Vì thế , cuộc chiến
của ngài liên quan đến 1 nhà nước
và lực lượng quân đội . Trong
cuộc chiến bảo vệ Hồi giáo- thánh
chiến"theo con đừơng của Thượng
đế vạch ra"- nếu các chiến sĩ
chiến đấu cho Thượng đế , thì đối
phương là kẻ chống lại Thượng đế.
Và do Thượng đế trên nguyên tắc
là đấng cai trị , người đứng đầu
tối cao của nhà nước Hồi giáo ,
cùng với đấng Tiên tri và sau
đấng Tiên tri là Caliph , với vai
trò phó vương , thế thì Thượng đế
sẽ là người cầm đầu quân đội . Quân
đội là quân đội của Thượng đế và
kẻ thù là kẻ thù của Thượng đế .
Nhiệm vụ của những người lính
của Thuợng đế là đưa kẻ thù
của Thượng đế đến nơi cho để Người
trừng trị càng nhanh càng tốt ,
tức là sau khi chết .
Vấn
đề cốt lõi làm bận tâm các nhà
làm chính trị phương Tây hiện nay
chỉ là thế này : Có phải Hồi giáo
, dù là theo phái chính thống
hoặc phái khác , là 1 đe dọa
cho phương tây ? . Đối với câu hỏi
đơn giản này , có nhiều câu trả
lời đơn giản , và do câu trả lời
đơn giản , cho nên phần lớn đều
lạc hướng . Theo ý kiến của 1
trừơng phái , thì sau khi Liên xô
và phong trào cọng sản sụp đổ ,
Hồi giáo và chủ nghĩa chính
thống Hồi giáo đã thay chỗ cho
2 chủ thể kia với tính cách là 1
mối đe dọa cho phương Tây và
lối sống phương Tây . Theo ý kiến
của 1 trường phái khác , thì người
Hồi giáo , kể cả những người theo
chủ nghĩa chính thống cấp tiến ,
về cơ bản , đều là những người tử tế
, yêu hòa bình , ngoan đạo , một
số trong nhóm này đã bị những sự
việc tồi tệ mà phương tây đem
đến cho họ , làm cho họ không thể
chịu đựng được thêm . Chúng ta
coi họ là kẻ thù bởi vì chúng
ta cần có 1 kẻ thù về mặt tâm
lý để thay thế cho Liên xô
không còn tồn tại .
Cả 2 quan điểm đều có chứa sự
thật ; cả 2 đều sai lầm cực kỳ
nguy hiểm . Hồi giáo đúng ra
không phải là kẻ thù của phương
Tây , và ngày càng có nhiều người
Hồi giáo ở nơi này nơi khác , không
mong muốn gì khác hơn là có
mối liên hệ gần gũi và thân thiện
với phương Tây và xây dựng
đựơc những định chế dân chủ tại
nước của họ . Nhưng cũng có 1 số
đáng kể tín đồ đạo Hồi - nhiều nhưng
không phải tất cả những người
theo phái chính thống – có thái độ
thù nghịch và nguy hiểm , không
phải vì chúng ta cần có 1 kẻ
thù mà chính họ mới cần.
Trong
những năm gần đây , có một số thay
đổi về mặt nhận thức , và tiếp
đến là chiến thuật giữa các
người Hồi giáo . Một số vẫn
coi phương tây nói chung và nước
Mỹ đầu têu hiện nay là kẻ thù
cố cựu và không khoan nhượng của
đạo Hồi , là trở ngại đáng gờm
đối với việc phục hồi niềm tin
và luật pháp của Thượng đế ở
trong nước và chiến thắng cúôi
cùng của đạo Hồi trên tòan thế
giới. Đối với nhóm này , không có
con đường nào ngoài chiến tranh
quyết tử , để hòan thành những điều
mà họ coi là mệnh lệnh của đức
tin. Cũng có những người khác , vẫn
là tín đồ tận tụy và cũng biết rõ
về các khuyết tật của xã hội
phương Tây hiện đại , tuy nhiên
cũng thấy đựơc những đóng góp của
phương Tây – như tinh thần tìm tòi
học hỏi là nguồn gốc của khoa học
và kỹ thuật hiện đại ; sự quan tâm
về vấn đề tự do dẫn đến chính
quyền dân chủ hiện đại . Những
người này , trong khi vẫn giữ đức
tin và văn hóa của mình , lại
cùng chúng ta cố tìm cách đi đến
1 thế gíơi tự do và tươi sáng hơn
. Lại cũng có những người , trong
khi vẫn coi phương tây là kẻ thù
lớn nhất và là nơi sinh ra mọi
điều xấu xa , tuy nhiên cũng ý
thức đựơc sức mạnh của phương
tây cho nên cố tìm một sự thích
nghi tạm thời để có thời gian
chuẩn bị cho cuộc chiến cuối cùng
. Chúng ta đừng nên lẫn lộn giữa
nhóm thứ 2 với nhóm thứ 3.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét