Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Sự khủng hoảng của Hồi giáo 4



Chương IV

      Tiêu chuẩn nươc đôi


 

      Trong  nhũng thập niên  gần đây ,  càng ngày người Trung  đông  càng biểu  lộ một sự   óan trách  nhạy cảm    hơn , một  mối bất  bình  mới  chống lại  chính sách   Mỹ : không chỉ nhằm vào sự đồng lõa  của Mỹ với chủ nghĩa đế quốc  hoặc với chủ nghĩa Zion   nhưng là một cái gì  đó  gần gũi   và trực tiếp  hơn – đó là  sự đồng lõa  củaMỹ với các nhà độc  tài thối nát  dang cai trị họ . Vì nhiều lý do  hiển  nhiên  ,   lời  óan trách   cụ thể này  không xuất hiện  thường xuyên  trước công  chúng , cũng  không thể nêu ra trong các cuộc  chuyện  trò  giữa  các viên  chức đối ngọai và  các nhà ngọai giao . Các chính  phủ Trung đông , như Iraq , Syria và  Tổ chức Palestine,  đã học đựơc  cách kiểm  sóat  khéo léo  cơ quan ngôn luận trong nước và lôi  kéo  cả    các phương tiện  truyền  thông  phương Tây .  Những lời óan thán này cũng không đựơc  nêu  ra trong  khi  thương thảo ngọai giao  cũng vì  những lý do   hiển nhiên tương tự .  Nhưng  càng ngày  vấn đề càng trở nên   bức  xúc  và khắc khỏai  hơn khi được  đưa  ra bàn luận  riêng với những ai  đáng tin cậy , và gần đây thậm chí công  khai -  mà không những chỉ giữa những người  Hồi giáo cấp tiến ,  bởi  vì đối với nhóm này  đây  là 1 vấn đề ,  là  1  chủ đề chính . Một  điều  khá thú vị ,   Cách mạng  Hồi giáo  Iran năm 1979 là thời điểm  mà sự oán hận này  được phát biểu công khai  . Vua Shah  bị tố cáo đã ủng hộ nước Mỹ , nhưng nước Mỹ   cũng bị công kích   vì  đã dựng lên  một  chế mà các nhà   cách mạng  coi là  vô đạo  với   nhà  lãnh đạo  độc đoán đóng   vai  bù nhìn . Trong những năm sau đó , người Iran phát hiện ra rằng những tên độc tài   sùng   đạo  cũng có  thể xấu xa bằng  tên độc tài vô đạo , hoặc còn  tệ hơn,  và như  thế cái nhản  hiệu  độc tài này  không thể đổ lỗi  là do nước  ngoài  nặn ra  hoặc bảo trợ .
      Những  lời  cáo buộc  thường chỉa   vào  nước Mỹ , và  nói chung là  phương tây,   có  một số điểm đúng  :  Người   Trung đông   càng ngày càng  than  phiền  rằng phương Tây  đánh giá  họ theo  những tiêu chuẩn  khác biệt  và  thấp hơn  so với  người Âu và Mỹ , cả 2 mặt  về những gì   mong  đợi  ở họ   và ở những gì  họ   mong đợi , đó là  nói về sự sung túc  kinh tế   và tự do  chính trị của  họ . Họ   quả quyết  rằng   phương Tây nhiều lần  bỏ qua   hoặc  thậm chí còn bảo vệ    các hành  động  và giúp đỡ    cho các  nhà  cầm  quyền  mà  chính tại  quê hương họ cũng  không  dung nạp  được.
      Có một số tương  đối   ít   tại  phương Tây   tự cho  rằng đang  lâm  vào cảnh  đối đầu với  đạo Hồi .Tuy nhiên , có 1  cảm nhận rộng   rãi  là  có sự khác biệt  khá lớn  giữa   chấu Âu  tiến  bộ với  phần còn lại của thế giới ,  nhất là  các dân tộc theo đạo Hồi và  chính  những  người  theo đạo Hồi này bằng  nhiều cách khác nhau  , thường  ngầm  cho rằng   mình thuộc hạng  hèn kém . Những  vụ vi phạm nhân quyền trắng trợn , quyền tự do  chính trị , thậm chí  sự tử tế của  con người  cũng   không được đếm  xiả   hoặc bị che đi , và  các tội ác  chống lại nhân lọai , nếu   ở châu Âu hoặc  tại Mỹ   sẽ   gây nên   1  làn sóng  phản  đối dữ dội , còn  tại Trung đông thì   không có gì  đặc  biệt  , thậm chí lại còn đựơc chấp nhận . Các chế độ   vi phạm   không những đã  đựơc  dung thứ ,  mà thậm chí lại còn được  bầu  vào  Ủy ban nhân quyền của Liên  hiệp  quốc ,  như Saudi Arabia , Syria , Sudan   và  Lybia.
      Lý  luận cơ  bản  của tất  cả những điều  này  là các dân tộc trên  không có khả năng   điều  hành 1 xã hội dân chủ và  cũng như    việc quan tâm  và khả năng thu  nhận  tính tử tế của con người . Nhất lọat  họ chỉ đáng  để các chế độ độc tài  thối nát cai trị .  Không phải là việc  của phương Tây  uốn  nắn họ ,  càng không phải làm cho  họ thay đổi  , nhưng chỉ để bảo đảm là các nhà độc   tài thân   thiện  thay vì   đối nghịch  với các  quyền  lợi  phương  Tây. Trong  bối  cảnh này ,  quả thật  là nguy hiểm khi   xoi mói  vào  cái trật tự hiện  có  và những  ai  mưu  cầu cuộc  sống   tốt  hơn  cho bản thân và đồng  bào lại bị chê bai , và lắm  khi  nản chí . Quả là  đơn giản ,  ít  tốn  ,  và an tòan hơn  khi  thay  thế 1    bạo chúa   gây lắm phiền  tóai bằng  1   bạo chúa  dễ bảo , thay  vì   phải đối  diện  với  nguy cơ  không  đóan  được  khi  chế độ thay đổi , nhất là  khi  sự thay đổi này là  do ý chí   của  người dân thể hiện qua  bầu cử tự do.
      Nguyên  tắc” ma quen  mặt "( devil-you-know)  dường  như là nền  tảng của  các chính sách ngọai giao  của nhiều chính phủ phương  Tây  đối với    các  dân tộc   trong thê`  giới Hồi giáo .  Thái độ này   đôi  khi  được trình bày   và   thậm chi được chấp nhận   như là    cách biểu  lộ tình cảm và   giúp đở cho nhân dân   Ả -rập   và chính nghĩa của  họ ,  tin  rằng khi  bỏ qua   cho các nhà lãnh đạo  Ả -rập  các qui luật  thông thường  phải cư  xử    theo văn minh   thì chúng   ta cũng  đã ít nhiều   tỏ ra  hào hiệp  đối với  các  dân tộc Ả -rập   rồi . Trên thực tế ,  sự miễn trừ này   chẳng hề có ý nghĩa gì , chẳng  qua  chỉ là  đòi  hỏi cần   phải có  1 liên  minh tạm thời    vì  lợi  ích chung  và  nhắm  vào 1  kẻ thù chung , đôi  khi cũng vì  có cùng   thành  kiến . Đào  sâu  hơn  vào thực  tế này , ta  thấy  đó  chẳng qua   chỉ   là  biểu hiện cho  1 sự thiếu  tôn   trọng   và  vô tình  - thiếu  tôn trọng  về quá  khứ vùng  Ả -rập , vô tình đối với  hiện tại và  tương lai của  họ .
      Cách  tiếp cận này cần   có sự   tiếp tay của  cả giới   ngọai giao lẫn  giới học thuật  tại Mỹ   và khá   rộng   rãi  ở châu Âu .  Các nhà lãnh đạo  Ả -rập  vì thế có thể tàn sát  hàng  chục ngàn dân  trong nước , như tại Syria  và Algeria , hoặc giết  hàng trăm ngàn  người như tại  Iraq  và Sudan , tước đọat  quyền  công  dân  của   hầu hết  đàn  ông và của  tất cả phụ nữ   , và nhồi nhét  cho   học sinh   thái độ cố chấp và thù ghét  người khác , mà  không hề có sự phản đối quan trọng nào  từ các  phương  tiện  truyền thông   và  các   định chế tự do  từ phương  Tây , thậm chí  không hề   có  ý định trừng  phạt   như  tẩy chay ,  gạt bỏ hoặc tố cáo  từ trụ sở EU tại Brussels . Thái độ ngọai giao qua  quít   đối với  các chính phủ Ả -rập  đã  làm  hại rất nhiều   cho  nhân dân Ả -rập , một thực tế    mà họ đang cảm  nhận một  cách đau   xót .
       Khi  có nhiều người  Trung đông  nhận  ra vấn đề này ,   thì   lập trường  cơ bản của các chính phủ   châu Âu  và Mỹ như sau :”  Chúng tôi không  quan tâm đến những  gì  các ông  làm  đối với  dân các ông ,  miễn là   các ông hợp tác đáp ứng  các  yêu cầu   của  chúng  tôi  và  bảo  vệ quyền  lợi cho chúng tôi”.
      Đôi  khi , khi quyền lợi của Mỹ   bị đụng   chạm  , chính  phủ Mỹ   sẵn sàng  phản  bội những  ai  mà họ đã hứa  hẹn   giúp đỡ và  thuyết phục họ chấp nhận rũi  ro .   Lấy  1 ví dụ khá  rõ  xảy ra vào năm 1991 , khi  Mỹ kêu gọi  dân Iraq  chống  lại Saddam Hussein . Người  Kurd  ở phía bắc    và người Shi’a  ở phía  nam  Iraq đã  đứng  lên ; còn các lực lượng chiến thắng của Mỹ   chỉ đứng  im  nhìn  Saddam Hussein  đem  máy  bay trực thăng ( theo  thỏa  hiệp ngưng  bắn cho  phép Iraq  được giữ lại )  đàn  áp  đẩm máu   và  tàn  sát   quân nổi dậy  từng   nhóm  một  , từng  vùng   một .
      Cũng  không  khó  mấy  để hiểu được lý  lẽ   cho  hành động này -  đúng  ra  là   bất  động .   Đương  nhiên  là,  liên  minh chiến thắng  vùng  Vịnh  muốn chính   quyền  tại  Iraq có sự thay đổi  , nhưng  họ lại  mong   một cuộc đảo chính , thay vì một cuộc  cách mạng .  Họ cho rằng quả là  nguy hiểm  khi  có một  cuộc  nổi  dậy thực sự   do  quần chúng nổ ra -  bởi vì  có  thể dẫn tới  tình trạng mất ổn định  , thậm chí  tình trạng  vô  chính phủ trong vùng . Cuộc   nổi dậy này còn  có  thể đẻ ra 1  nhà  nước dân chủ ,  là  một   viễn cảnh  đầy  hỏang sợ cho các đồng minh của Mỹ trong vùng .  Một  cuộc đảo chính sẽ dễ dự   đóan trước  vì  có  thể đạt  đựơc  kết qủa  mong  muốn : thay  thế Saddam Hussein bằng 1  người khác , một  tay độc  tài dễ sai hơn , người  sẽ thay cho ông  ta  vị trí   đồng minh trong liên minh .Chính sách này  đã thất bại  một  cách thảm  hại , và  trong   vùng  coi đó là  1  hành động phản  bội  , hoặc  là mềm  yếu , ngu  xuẫn  hoặc  giả đạo đức.
      Một  ví dụ khác   về tiêu chuẫn  nước đôi   này đã   xảy ra  tại thành  phố Hama của Syria  vào năm 1982.  Những   vụ lộn xộn  tại  Hama  bắt đầu   bằng   1  cuộc nổi dậy  do  nhóm Huynh đệ Hồi giáo cấp tiến   dẫn đầu.  Chính phủ Syria thẳng  tay đàn  áp  tức  thì .  Họ chẳng  cần sử dụng  súng phun nước  và đạn   cao su ,  cũng  chẳng  cần đưa  lính tới   để ứng  phó với mấy tay bắn tỉa  hoặc gở mìn con cóc ( booby trap ) khi  lục sóat từng nhà  nhằm phát hiện  kẻ thù   lẫn trốn trong dân chúng.  Phương pháp  của họ đơn giản hơn , an tòan  hơn  và  chóng  vánh hơn.  Họ đem  xe tăng , pháo binh  , máy bay thả bom  đến tấn công thành  phố , sau đó  đem xe ủi  đất  đến   để hòan tất  công trình  tiêu diệt. Trong một thời gian  rất ngắn  , họ biến  phần lớn thành phố thành   đống gạch vụn  .   Số người  bị giết , theo Tổ chức Ân xá  quốc tế , ứơc tính    đâu đó  giữa con số 10.000 và  25.000.
 
      Hành động  này ,  do chính Tổng thống Syria , là Hafiz al –Assad , ra lệnh và  chỉ đạo , không được  chú   ý  mấy vào   thời điểm đó .  Thật  là  1 đáp ứng  nghèo  nàn trái ngược hòan tòan với  1 vụ thạm  sát  khác  , xảy ra  vài tháng sau đó  tại 1 trại tị nạn Palestine tại Sabra  và Shatila , tại Liban.  Trong  biến cố này , có khỏang 7-800   người Palestine  bị dân quân Cơ đốc Liban , đồng minh của Israel ,tàn sát   . Cuộc giết chóc này   đã  dấy  lên  1  sự chê trách  dữ dội  và rộng  rãi tại Israel  cho đến tận bây giờ .  Cuộc thảm  sát tại Hama không hề ngăn  Mỹ thôi ve  vãn  Assad ,  người   đứng ra đón tiếp  một lọat các cuộc thăm  viếng của các đời Ngọai trưởng Mỹ , từ James Baker ( 11 lần  từ 9/1990  đến 7/1992), Warrren Christopher ( 15 lần   từ tháng 2/1993   và 2/1996)  và Madeline  Albright ( 4  lần  từ   tháng9/1997  đến  tháng 1/2000) , và  ngay cả đến Tổng thống Bill Clinton ( 1  lần  viếng Syria   và 2 lần gặp tại Thụy sĩ  tháng  1/1994   và tháng 3/2000 ) . Khó mà có  thể chấp nhận rằng người Mỹ lại  sẵn lòng vồ vập  1 nhà  lãnh đạo  gây ra những tội ác  như thế trên đất phương Tây , với nạn nhân là người châu Âu . Hafiz al -Assad chưa bao giờ là đồng minh của Mỹ hoặc ,  như  theo  những người  khác, là bù nhìn , nhưng chắc chắn không phải là do nền ngoại giao của Mỹ không  cố gắng.
      Phe  Hồi giáo  chính thống  cảm nhận có 1  sự bất bình đẳng   khác biệt – một  sự bất bình đẳng khác không kém  phần  sâu sắc  về   các  tiêu chuẩn nước đôi . Những   người  bị tàn sát tại Hama là nhóm Huynh đệ Hồi giáo cùng  với gia đình và láng giềng của  họ , đã không khơi dậy được  mấy sự quan tâm ở phương tây . Dường như dưới mắt phương tây , nhân  quyền không hề áp dụng cho  các nạn nhân đạo  Hồi  ngoan đạo ,  cũng như  những  hạn chế về dân chủ    đem  áp dụng  cho các tên giết người"thế tục”.
      Sự ngờ vực  của phương Tây  đối với   các  phong trào chính trị Hồi giáo , và sẳn lòng  dung  thứ    hoặc  thậm chí còn  giup đỡ   các nhà độc tài tìm cách gạt  không cho  những phong trào đó  nắm quyền  càng thấy  rõ  hơn trong trường hợp Algeria , khi  bản hiến  pháp dân chủ được cuộc trưng cầu ý  kiến  tháng 2/1989 thừa nhận  và  1 hệ thống  đa đảng  chính thức ra đời vào tháng 7 cùng năm. Vào tháng  12 năm 1991 , Mặt trận cứu  nguy Hồi giáo       ( FIS) chiếm ưu thế trong  vòng đầu  phiếu  đầu tiên bầu  Quốc  hội  và hình như có rất  nhiều khả năng  sẽ thắng  đa số trong vòng  2.   FIS đã  thách thức  giới  quân đội Algeria , đã  tố cáo họ đàn áp nhân dân giỏi hơn là ra tay   giúp đỡ người anh  em  trong cơn nguy  khốn. Người anh em  đang nguy  khốn là  Saddam Hussein , người mà  qua việc   xâm lăng Kuwait  và  thách thức phương tây  đã khơi lên một tình cảm  cuồng nhiệt   cho nhóm Hồi giao chính thống  tại Bắc Phi  , và đã thuyết phục  các nhà lãnh đạo  của họ chuyển lòng trung thành  đối với những người  bảo trợ ở Saudi Arabia  sang vị anh hùng mới ở   Iraq . Vào tháng giêng  năm 1992, căng thẳng càng  lúc  càng tăng , phe quân sự hủy  bỏ vòng  bầu cử lần 2 . Trong  những tháng  sau đó , họ giải tán  FIS   và  thiết lập  1 chế độ"thế tục” ,  thực tế là 1 chế độ độc tài  tàn  nhẫn , có sự đồng tình  từ Paris, Washington  và  các thủ đô phương  Tây  khác. Tiếp sau đó là 1 cuộc chiến cay đắng và  đầy chết chóc , với lời tố cáo   đó  là những cuộc tàn sát  từ 2  bên-  phe  chính thống là do  quân đội  và các  công cụ khác  của  nhà  nước,  còn  phe chính thống thì  cho  đó là do bọn  chủ trương thế tục  và  cải cách   cùng  với những kẻ chờ thời không  đảng phái . Năm 1997, Tổ chức Ân xá   quốc tế ước  tính con số nạn nhân khoảng 80.000 người , đa số là dân thường  , tính từ khi  cuộc  chiến đấu bắt đầu .
      Al- Qa’ida một  mực  cho rằng  nước Mỹ   chịu trách  nhiệm   về việc giới quân sự cướp quyền  tại Algeria. Ở đây cũng như tại  nơi khác , Mỹ- kẻ đầu sỏ   của  thế giới  những tên vô đạo -  đương nhiên   là  bị chê trách  cho tất cả những  gì  sai trái , nhất là đối với việc đàn áp các  phong  trào   Hồi giáo ,    tàn sát  các  tín đồ đạo này , việc dựng lên những cái được  coi là  nền cai trị độc tài chống lại  đạo Hồi   với sự tiếp tay  của phương Tây – và nhất là Mỹ . Ở đây  , người Mỹ cũng   bị trách  cứ -   do nhiều người vì  không  phản đối  sự vi phạm  các quyền tự do  dân chủ , do  một số vì đã  tích cực khuyến  khích và  giúp đỡ   cho chế độ quân sự . Những vấn đề   tương tự cũng đã  xảy ra  tại Ai cập, Pakistan   và tại  một  số quốc gia  Hồi giáo  khác  là những nơi  mà  nếu cho bầu cử tự do  và  công  bằng  thì   phe  Hồi giáo  có khả năng  thắng cử.
       Về mặt  này , phe dân chủ đương nhiên  là bị bất lợi . Ý  thức  hệ của họ đòi  hỏi  phải cho phe đối lập Hồi giáo  tự   do  và  quyền lợi   ,  ngay  cả khi họ đang cầm   quyền . Phe Hồi giáo , khi lên cầm quyền ,  đúng ra   phải chịu sự bó buộc tương tự . Nhưng ngược lại , nguyên tắc của phe  Hồi giáo  là phải đàn áp  những  gì  mà họ coi là các hoạt động  không  sùng đạo và  lật đổ .
      Đối với  nhóm chủ trương Hồi giáo ( Islamist) , thì  nền  dân chủ , bày tỏ ý  muốn người dân,  là con đường để nắm quyền lực , nhưng đó  là đường  một chiều , không có điểm lùi , không được từ bỏ quyền lực của Thượng đế , được thể hiện  qua  những  người  đại diện  được chính Thượng đế lựa chọn . Chính  sách  bầu cử của họ được  tóm  tắt kinh điển như sau :"Một người ( chỉ dành cho  nam giới ) ,  một phiếu , một lần duy nhất”.
      Rõ  ràng là ,  trong thế giới Hồi giáo  cũng như tại châu Âu , bầu cử tự do  và  công bằng  chỉ là  1 kết  quả cuối   cùng , chứ không  phải là  sự khởi đầu   của 1  tiến trình xây dựng   dân chủ . Nhưng  đo không phải là lý do để ve vãn các nhà độc tài .

0 nhận xét:

Đăng nhận xét