Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014
Sự khủng hoảng của Hồi giáo 3
22:43
Hoàng Phong Nhã
No comments
Chương III
Từ quân Thập tự chinh đến quân Đế quốc chủ nghĩa
Các cuộc Thập tự chinh hiển hiện rất rõ trong tâm thức và ngôn từ vùng Trng đông hiện đại , đối với cả những người theo chủ nghĩa quốc gia Ả -rập và tín đồ chính thống Hồi giáo , nhất là Usama bin Ladin . Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy .
Việc các chiến binh Thập tự chinh chiếm đóng Jerusalem vào năm 1099 CE là 1 chiến thắng của đạo Cơ đốc , nhưng lại là 1 tai họa cho người Hồi giáo và cho cả người Do thái sống trong thành phố . Căn cứ theo tài liệu lịch sử thời kỳ này , thì việc chiếm đóng này không được quan tâm mấy trong khu vực . Những lời kêu cứu cầu viện của dân Hồi giáo bản địa không đựơc Damascus và Baghdad trả lời , và các lãnh địa mới do Thập tự chinh thành lập chẳng bao lâu lại chui vào cuộc đỏ đen chính trị của vùng đất mặt trời mọc ( Levantine ) , gồm các liên minh giữa các tôn giáo để giải quyết những tranh giành quyền lực giữa các ông hoàng đạo Hồi và Cơ đốc .
Cuộc chiến tranh chống Thập tự chinh cuối cùng đánh bại và đuổi được quân Thập tự chỉ xảy ra sau đó 1 thế kỷ . Nguyên do trực tiếp là các hoạt động cứơp bóc tràn lan của 1 lãnh tụ quân Thập tự , Reynald od Châtillon , người vây hãm pháo đài Kerak , hiện nay là nam Jordan , trong thời gian từ 1176 và 1187 CF , và từ đó tung ra 1 loạt các cuộc tấn công vào các thương đoàn Hồi giáo tại các vùng phụ cận , kể cả Hijaz . Các sử gia chuyên về Thập tự chinh có lẽ đã đúng khi nói rằng động cơ của Reynald chủ yếu là kinh tế , nói cách khác , là ý đồ cướp bóc. Nhưng người đạo Hồi lại cho rằng những chiến dịch của ông ta có tính khiêu khích và thách thức nhằm tấn công các vùng đất thánh của đạo Hồi . Vào năm 1182 , bằng cách vi phạm cam kết giữa vua của quân Thập tự tại Jerusalem và vua Hồi giáo là Saladin , Reynald đã tấn công và đánh cướp các thương đoàn Hồi giáo , kể cả 1 đoàn hành hương đi Mecca. Lại càng xấc xược hơn theo quan điểm đạo Hồi , khi ông ta đe doạ Arabia , nhất là cuộc hành quân cứơp bóc tại Biển Đỏ , khi tấn công vào các thuyền bè Hồi giáo và tại các cảng Hijaz phục vụ cho Medina và Mecca . Chính do những biến cố này dẫn tới việc Saladin đích thân tuyên bố Jihad chống lại quân Thập tự chinh – đây là một minh chứng hùng hồn về vai trò trung tâm của bán đảo Arabia trong nhận thức của người theo đạo Hồi .
Những chiến thằng do Saladin đạt được và sau đó chiếm lại đựơc Jerusalem từ quân Thập tự chinh năm 1187 từ đó cho đến ngày nay luôn là nguồn hứng khởi đối với các nhà lãnh đạo Ả -rập. Saddam Hussein thường nhắc đến 2 nhà lãnh đạo xa xưa trong lịch sử Iraq mà ông ta coi như người đi trước làm gương cho mình- đó là Saladin đã chấm dứt được mối đe đọa phương tây thời đó khi đánh bại và hất cẳng quân Thập tự , và Nebuchadnezzar , người đã giải quyết chóng vánh và dứt điểm các vấn đề thuộc chủ nghĩa Zion . Vào ngày 8 tháng 10 năm 2002 , thủ tướng Pháp , Jean-Pierre Raffarin , trong 1 diễn văn tại Quốc hội Pháp , đã cho biết bằng cách nào mà Saladin "có thể đánh bại đựơc quân Thập tự và giải phóng Jerusalem". Việc sử dụng từ"giải phóng"một cách thú vị này của 1 Thủ tứơng Pháp để mô tả việc Saladin chiếm đựơc Jerusalem từ quân Thập tự có thể coi như là sự phản ánh tình trạng dàn trận hiện nay , hoặc nói cách khác , đó là 1 trừơng hợp ăn nói đúng về mặt chính trị một cách quá đáng . Ở những nước khác thì cách xếp đặt này có thể coi như là do dốt nát về lịch sử , nhưng đối với nước Pháp , điều này chắc chắn là không phải như thế .
Ngay cả tại châu Âu Cơ đốc giáo , Saladin cũng đựơc tán dương và ca tụng vì đã đối xử rộng rãi và hào hiệp đối với các kẻ thù bại trận . Tuy nhiên , Roger of Chatillon không được hưởng sự rộng rại này . Sử gia Ả -rập vĩ đại Ibn al-Athir đã giải thích tình huống này như sau:"Saladin nói , ta đã 2 lần thề sẽ giết hắn nếu tận tay bắt đựơc ; một lần khi hắn cả gan dẫn quân đến Mecca và Medina , và khi hắn đã quỉ quyệt tấn công thương đoàn trên đường đi đến Hijaz” . Sau chiến thắng vẻ vang , Saladin cho thả các ông hòang và tù truởng tham gia Thập tự chinh bị bắt , nhưng tách riêng Roger of Chatillon ra rồi tự tay Saladin giết và cắt đầu Roger.
Sau khi jihad thành công và chiếm lại Jerusalem , Saladin và các người kế tục dường như không còn quan tâm đến thành phố này nữa , và vào năm 1229 , họ nhường Jerusalem cho Hòang đế Frederick III cắn cứ theo cam kết thỏa thuận giữa nhà lãnh đạo Hồi giáo và các Thập tự binh. Thành phố này bị tái chiếm vào năm 1244 , khi các Thập tự binh cố biến đổi thành 1 thành phố hòan tòan Cơ đốc . Sau một thời gian dài ít được nhắc tới , đến thế kỷ 19 mới khơi dậy mối quan tâm về thành phố . trước tiên là những tranh chấp giữa các cuừơng quốc châu Âu về việc cai quản các nơi thiêng liêng của đạo Cơ đốc và sau đó là các đợt di dân Do thái mới .
Chính trong giai đoạn này , người Hồi giáo bắt đầu quan tâm đến những đợt Thập tự chinh , mà lúc mới xảy ra quả tình ít được lưu ý . Sử Ả -rập chép đầy đủ và phong phú về các chiến binh Thập tự , lúc họ đến , những chiến trận và các quốc gia mà họ thành lập nhưng lại không nêu được bản chất và mục đích cuộc phiêu lưu của những chiến binh này . Những từ ngữ Thập tự chinh và quân Thập tự thậm chí không hề có trong lịch sử Ả -rập vào thời ấy , mà bản thân các Thập tự quân chỉ được coi là những kẻ vô đạo , người Cơ đốc , hoặc thường gặp hơn , người Frank , là 1 từ chung cho người Châu Âu Cơ đốc - và sau này còn có Tin lành - theo Thiên chúa giáo , để phân biệt với những tín đồ Chính thống giáo và các đồng đạo phương đông của họ . Sự nhận biết các đợt Thập tự chinh như là một hiện tượng lịch sử riêng biệt chỉ mới có từ thế kỷ 19 và qua các bản dịch sách vở châu Âu về lịch sử . Kể từ đó , các đợt Thập tự chính đựơc ghi nhận như là hình mẫu sơ khai của sự bành trứơng chủ nghĩa đế quốc châu Âu vào thế giới Hồi giáo . Nếu mô tả chính xác hơn thì các đợt Thập tự chinh này chỉ là 1 sự chống trả lại jihad kéo dài nhiều năm , rất hạn hẹp và cuối cùng không đạt hiệu qủa gì . Các đợt Thập tự chinh kết thúc bằng thại , và sau đó tại các nước Hồi giáo chẳng còn mấy ai nhớ đến , nhưng các nổ lực của châu Âu gần đây nhằm chống trả và đảo ngược sự tiến công Hồi giáo vào lãnh thổ Cơ đốc giáo lại thành công nhiều hơn và mở đầu cho một loạt những thất bại đau đớn tại các vùng biên giới thế giới Hồi giáo .
Dưới sự cai trị của các Caliph Ả -rập thời trung cổ và một lần nữa , dứơi các triều đại Ba tư và Thổ nhĩ kỳ , đế quốc Hồi giáo là 1 vùng giàu có nhất , hùng mạnh nhất , sáng tạo nhất và khai sáng nhất trên thế giới , và trong súôt thời Trung cổ , thế giới Cơ đốc luôn luôn ở thế thủ . Vào thế kỷ 15 , người Cơ đốc mở rộng các cuộc phản công . Người Tatars bị hất ra khỏi nước Nga , người Moors ra khỏi nước Tây ban nha . Nhưng tại vùng đông nam châu Âu , nơi các sultan Ottoman đối đầu trước tiên với hoàng đế Byzantine và sau đó là Hoàng đế Lamã thần thánh , thế lực Hồi giáo còn thắng thế và các phản công nói ở trên chỉ là những bứơc lùi ở ngoài rìa và không đáng kể . Cho đến thế kỷ 17 , các pasha Thổ vẫn còn cai trị Budapest và Belgrade , quân đội Thổ còn đang bao vây Vienna , và bọn cứơp biển vẫn còn tấn công thuyền bè và các bờ biển đến tận nước Anh , Ái nhĩ lan và đôi khi , đến tận Madeira và Băng đảo . Bọn cướp biển này nhận đựơc nhiều sự giúp đỡ của người Âu , những người vì lý do này hay lý do khác , đã định cư tại Bắc Phi và chỉ cho họ cách đóng , lèo lái những con tàu vượt đại dương ở biển Bắc và thậm chí ở Đại tây dương . Giai đoạnnày kéo dài không lâu .
Thếrồi có sự thay đổi lớn . Lần bao vây thứ 2 thành Vienna của người Thổ , vào năm 1683 , đã thất bại hoàn toàn , dẫn đến 1 cuộc thoái lui thiếu suy nghĩ - một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với quân đội Ottoman . Sự thất bại này , lại xảy ra cho chính 1 thế lực quân sự hùng mạnh trong thế giới Hồi giáo , đã làm phát sinh một cuộc tranh luận mới , mà trongmột nghĩa nào đó cho đến bấy giờ vẫn còn tiếp tục. Bắt đầu trong tầng lớp ưu tú về quân sự , chính trị và sau đó là trí thức Ottoman tranh luận về 2 vấn đề : Tại sao những đội quân Ottoman bách thắng lại bị kẻ địch Cơ đốc đáng khinh kia đánh bại tan tác ? Và làm cách nào phục hồi được vị thế thống trị trước kia ?. Cólúc cuộc tranh luận đi từ tầng lớp ưu tú sang các thành phần khác , từ nước Thổ sang nhiều nước khác và các chủ đề càng lúc càng mở rộng .
Có nhiều lý do để lo ngại. Bị thất bại liên tiếp , trong khi đó các lực lượng châu Âu Cơ đốc , sau khi giải phóng đất đai của họ , lại tiếp tục truy đuổi những kẻ xâm lược trước kia cho đến tận nơi xuất phát ở châu Á và châu Phi . Ngay cả những nước nhỏ như Hoà lan và Bồ đào nha cũng tạo dựng được những đế quốc rộng lớn tại phương Đông và đóng vai trò nổi trội trong buôn bán . Vào năm 1593, Selaniki Mustafa Efendi , một viên chức Ottoman giữ nhiệm vụ ghi chép các biến cố xảy ra , ghi lại hình ảnh đến Istanbul của viên đại sứ nước Anh . Viên chức này không chú ý nhiều đến viên đại sứ , nhưng lại rất kinh ngạc khi nhìn thấy chiếc tàu chở viên đại sứ đến . Ông ta viết :" Một con tàu chưa thấy bao giờ cập bến Istanbul . Nó đã vựơt 3700 dặm trên biển và ngoài các khí giới khác , còn mang 83 khẩu súng lớn … Đúng là 1 kỳ quan của thời đại , chưa bao giờ thấy hoặc ghi nhận một chiếc nào tương tự .” Một sự ngạc nhiên khác đó là đấng quân vương đã gởi sứ giả đến"Người cCai trị đảo quốc Anh là 1 phụ nữ được thừa kế vương quyền … có đầy đủ quyền lực".
Một chi tiết kỷ hơn , không được nhà chépsử Ottoman nhắc đến , cũng có đối phần quan trọng . Vị Đại sứ nước Anh đang nói ở đây quả thật đựơc Nữ hoàng Elizabeth chính thức bổ nhiệm , nhưng lại không do chính quyền nước Anh mà do 1 công ty thương mãi tuyển chọn và trả lương – là 1 sự sắp xếp có ích vào thời điểm mà sự quan tâm chính của thế giới phương Tây đối với vùng Trung đông chỉ là việc kinh doanh . Thật vậy , chính sự mở mang kinh tế và kỹ thuật đầy sáng tạo và nhanh chóng của phương Tây - nào là các nhà máy , tàu chở hàng vượt đại dương , công ty cổ phần- đã mở màn cho 1 thời đại mới . Các con tàu châu Âu , được đóng để vựơt Đại tây dương , dĩ nhiên sẽ vượt hẳn những con tàu chỉ quanh quẩn trong vùng Địa trung hải , Biển Đỏ , và biển Ấn độ , trong chiến ranh và trong thương mại , và thương mại lại được củng cố thêm nhờ 2 thói quen của người phương tây – đó là hợp tác và cạnh tranh. Vào thế kỷ 18 , những sản phẩm truyền thống của vùng Trung đông như càphê và đường lại đựơc trồng tại các thuộc địa mới của phương Tây tại châu Á và châu Mỹ và được các lái buôn và công ty châu Âu đem xuất khẩu sang Trung đông . Ngay cả các khách hành hương Hồi giáo đi từ Đông nam Á và Nam Á sang những đô thị thần thánh tại bán đảo Ả -rập đôi khi cũng nhờ đến tàu châu Âu , bởi vì nhanh hơn , rẻ hơn , an toàn hơn và tiện nghi hơn .
Đối với phần với các sử gia Trung đông cũng như Tây phương , thì thời điểm khởi đầu theo qui ứơc của lịch sử hiện đại tại vùng Trung đông bắt đầu từ năm 1798 , khi cách mạng Pháp , qua hình ảnh của 1 viên tứơng trẻ tên là Napoleon Bonaparte đổ bộ lên đất Ai cập . Chỉ trong 1 thời gian khá ngắn , tứơng Bonaparte và đạo quân viễn chính nhỏ bé của mình đã chinh phục , chiếm đóng và cai trị đất nước này . Trước khi việc này xảy ra , đã từng có những đợt tấn công , thoái lui và mất mát đất đai tại những vùng biên thuỳ xa xôi , nơi người Thổ và người Ba tư đối đầu với nước Áo và nước Nga . Nhưng khi 1 lực lượng phương Tây nhỏ bé tấn công 1 trong những vùng trọng tâm của đạo Hồi quả là 1 cú sốc nặng nề . Sự tháo lui của quân Pháp , trong chừng mực thậm chí lại là 1 cú sốc lớn hơn . Quân Pháp bị buộc phải rời Ai cập không phải do người Ai cập , cũng không phải do người Thổ , nhưng lại do một đội quân nhỏ thuộc hải quân Hoàng gia Anh , dưới sự chỉ huy của 1 đô đốc trẻ tên là Horatio Nelson .Đây là một bài học cay đắng mà người Hồi giáo phải học : không những 1 cường quốc châu Âu có thể đến , xâm lăng , cai trị tuỳ ý rồi chỉ có 1 cường quốc chấu Âu mới đẩy họ đi mà thôi .
Chủ nghĩa đế quốc là 1 chủ đề đặc biệt quan trọng đối với Trung đông và đặc biệt hơn , là Hồi giáo chống lại phương Tây . Đối với họ , từ chủ nghĩa đế quốc có 1 ý nghĩa quan trọng . Lấy 1 ví dụ , người Hồi giáo không bao giờ dùng từ này để chỉ các đế quốc Hồi giáo - đế quốc đầu tiên do người Ả -rập dựng nên , những đế quốc sau do người Thổ , những người chinh phục nhiều vùng đất và dân cư rộng lớn , đem sáp nhập vào Nhà Hồi giáo . Theo người Hồi giáo thì thật là hoàn toàn chính đáng khi chinh phục và cai trị châu Âu và người Âu và như thế là giúp cho họ - nhưng không phải bó buộc - tiếp thu đức tin chân chính . Còn ngược lại là 1 trọng tội và là tội ác khi người Âu chinh phục và cai trị người theo đạo Hồi , và tệ hơn nữa là đưa họ vào con đường lầm lạc . Theo nhận thức Hồi giáo , thì sự trở lại đạo Hồi là 1 điều ích lợi cho người đựơc cải đạo và là 1 công đức đối với người giúp họ cải đạo . Theo luật Hồi giáo , từ đạo Hồi chuyển sang 1 đạo khác là phản đạo - đây là 1 tội vô cùng nghiêm trọng cho cả người bị lầm lạc và người làm cho người kia lầm lạc . Về vấn đề này , luật rất rõ ràng và dứt khoát . Nếu 1 người Hồi giáo từ bỏ đạo Hồi , ngay cả đối với một kẻ tân tòng quay trở lại đạo cũ , hình phạt là tội chết . Trong thời đại ngày nay , quan niệm và thực hiện takfir , tức là nhận biết và tố cáo hành vi phản đạo đã đựơc mở rộng rất nhiều . Không phải là hiếm khi các nhóm cực đoan và chính thống cho rằng rằng một số chính sách , hành động hoặc thậm chí chỉ là ý kiến của người rao giảng đạo Hồi cũng được coi là hành vi phản đạo , và án cho kẻ phạm tội là tử hình .Đây là nguyên tắc đựơc nêu trong fatwa đối với Salman Rushdie , việc ám sát Tổng thống Sadat và nhiều người khác .
Các hoạt động của người Âu tại các nước Hồi giáo trải qua nhiều giai đoạn . Giai đoạn đầu là sự bành trứơng thương mại và , theo cách nhìn của người đạo Hồi , đã bóc lột họ và đất nước của họ , trên 2 mặt thương trừơng cũng như nguồn nguyên liệu .Sau đó là những đợt xâm lăng và chinh phục bằng vũ lực , nhờ đó mà các cường quốc châu Âu mới xây dựng đựơc sự thống trị trên nhiều vùng đất quan trọng thuộc thế giới Hồi giáo- người Nga tại vùng Caucasus và vùng Transcaucasus và sau đó là vùng Trung Á ; người Anh tại Ấn độ , người Anh và người Hoà lan tại Malaysia và Indonesia , và giai đoạn chót là người Pháp và người Anh tại vùng Trung đông và Bắc phi. Tại những nơi này chủ nghĩa đế quốc đã cai trị trong nhiều thời kỳ dài ngắn khác nhau - tại một sô nơi trong hàng thế kỷ như tại Đông nam Á và Ấn độ ; ở nơi khác , như tại vùng đất người Ả -rập tại Trung đông , chỉ trong một thời gian tương đối ngắn.
Trong mỗi trừơng hợp , chủ nghĩa đế quốc đều để lại dấu ấn . Trong thế giới Ả -rập , thời kỳ cai trị của đế quốc Anh Pháp bắt đầu bằng sự đô hộ của người Pháp tại Algeria ( 1830) , người Anh tại Aden ( 1839 ) , tiếp tục với sự chiến đóng của người Anh tại Aicập ( 1882) , người Pháp mở rộng kiểm soát tại Tunisia ( 1881) và Morocco ( 1911) và ảnh hưởng của người Anh tại vùng vịnh Ba tư và cúôi cùng là sự phân chia các tỉnh thuộc đế quốc Ottoman Ả -rập tại vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu giữa 2 đế quốc Tây Âu chính . Lần này các lãnh thổ mới bị chiếm đóng không những chỉ sáp nhập đơn thuần , theo kiểu truyền thống , thành các thuộc địa hoặc vùng lệ thuộc . Các lãnh thổ này đựơc Hội quốc liên giao cho Anh và Pháp cai trị với nhiệm vụ rõ ràng là giúp cho họ tiến đến độc lập . Giai đoạn này rất ngắn , từ sau thế chiến thứ 1 đến sau thế chiến thứ 2 , khi quyền uỷ trị chấm dứt và các lãnh thổ bị ủy trị dành độc lập . Phần lớn bán đảo Ả -rập vẫn nằm ngoài tầm của đế quốc .
Tuy nhiên , tác động của chủ nghĩa đế quốc được coi là rất lớn , và dưới mắt của số đông dân cư trong khu vực , quả là cực kỳ độc hại . Tác động và sự thiệt hại chắc chắn là rất đáng kể , nhưng có lẽ ít đựơc quan tâm và không có tầm vóc như là các huyền thọai liên quan đến chủ nghĩa quốc từng được rêu rao . Dù sao thì chủ nghĩa đế quốc cũng đem lại một số lợi lộc – xây dựng hạ tầng , các dịch vụ công cọng , hệ thống giáo dục , cũng như một số thay đổi xã hội , nhất là sự xóa bỏ chế độ nô lệ và sự giảm bớt đáng kể tình trạng đa thê , tuy không lọai bỏ đựơc hòan tòan . Sự tương phản có thể nhận thấy rất rõ khi so sánh tình hình giữa những nước từng bị đế quốc đô hộ , như Ai cập và Algeria , với những nước vẫn còn giữ được độc lập , như Arabia và Afghanistan . Tại Arabia , các trừơng đại học hình thành muộn và cũng không nhiều . Hiện nay , với 1 dân số ứơc tính 21 triệu , chỉ có 8 trường đại học - tức là chỉ nhiều hơn 1 so với 7 cơ sở giáo dục đại học đựơc thành lập tại Palestine kể từ khi vùng đất này bị Israel chiếm đóng năm 1967 . Chế độ nô lệ đến năm 1962 mới được luật pháp bãi bỏ tại Arabia Saudi , và sự áp bực phụ nữ vẫn còn nguyên vẹn .
Nhưng chắc chắn cũng có những hậu qủa tiêu cực lớn của chủ nghĩa đế quốc và nói rộng ra là ảnh hưởng của phương tây hoặc châu Âu , thậm chí tại các quốc gia vẫn còn giữ đựơc sự độc lập chính trị , như tại Thổ nhĩ kỳ và Iran. Trong số những tác động canh tân hóa nổi bật là việc tăng cường quyền lực nhà nước thông qua việc củng cố bộ máy giám sát , đàn áp , và nhồi sọ , và cùng lúc làm suy yếu đi hoặc lọai trừ các thế lực trung gian làm hạn chế quyền lực của các nhà cai trị chuyên chế . Sự thay đổi về xã hội , và sự đổ vỡ các mối quan hệ và ràng buộc xã hội xưa cũ , đã đem lại nhiều mối nguy hại lớn cho xã hội và tạo ra những tương phản mới càng ngày càng rộng , mà các phương tiện truyền thông hiện đại lại càng làm rõ thêm nồn nột . Ngay từ năm 1832 , một quan sát viên sắc sảo người Anh , Aldophus Slade , vốn là 1sĩ quan hải quân trẻ đã nhận ra đựơc sự khác biệt giữa giới quí tộc cũ và giới quí tộc mới . Giới quí tộc cũ sống bằng tài sản . Giới quí tộc mới thì lấy nhà nước làm tài sản của họ . Điều này cho đến nay vẫn còn đúng tại phần lớn các vùng đất Hồi giáo .
Vào đầu thế kỷ 20 - mặc dù nền độc lập mong manh vẫn còn đựơc duy trì tại Thổ nhĩ kỳ và Iran và tại một số quốc gia xa xôi như Afghanistan , vào lúc đó việc xâm lăng cũng chẳng bỏ bèn gì – thì hầu như tòan bộ thế giới Hồi giáo đã đựơc sáp nhập vào 4 đế quốc châu Âu là Anh , Pháp , Nga và Hòa lan . Các chính quyền và phe nhóm Trung đông buộc phải học cách chọc cho các kẻ kình địch hùng mạnh kể trên quay lại chống nhau . Có lúc , họ thắng cuộc chơi ít nhiều . Kể từ lúc các đồng minh phương tây – Anh , Pháp và sau đó là Mỹ - đô hộ tòan bộ khu vực , các kẻ kháng cự Trung đông theo tự nhiên là quay sang tìm sự giúp đỡ của phía kẻ thù của đồng minh. Trong thế chiến thứ 2 , họ quay sang Đức ; trong thời chiến tranh lạnh , đó là Liên Xô.
Ngay từ năm 1914, nước Đức lúc đó liên kết với đế quốc Ottoman , cố gắng huy động tình cảm tôn giáo ở người dân đạo Hồi thuộc các đế quốc Anh , Pháp và Nga để họ chống lại các ông chủ đế quốc và giúp nước Đức thủ lợi . Nổ lực này chỉ đem lại kết qủa quá ít , cho nên bị 1 nhà nghiên cứu Đông phương học người Hòa lan tên là Snouck Hurgronje chế nhạo trong 1 bài báo danh tiếng nhan đề :” Thánh chiến : chế tạo tại Đức".
Nơi mà Kaiser thất bại , thì có lúc Hitler lại đạt được thành công đáng kể . Vào cuối tháng 3 /1933 , ngay sau khi Hitler lên cầm quyền vài tuần , vị Mufti tại Jerusalem , Hajj Amin al-Husseini , đã tiếp cận tiến sĩ Heinrich Wolff , Tổng lãnh sự Đức tại Jerusalem , và đề nghị được cọng tác . Viên lãnh sự , sau khi báo cáo đề nghị này về Berlin , góp ý rằng nên từ chối hoặc ít nhất là cũng bỏ qua . Khi không còn hy vọng đứng về phía đế quốc Anh vì đã là đồng minh của Đức , không còn cách nào khác để chống lại Anh bằng bắt tay với phong trào chủ yếu chống Anh lúc đó . Ngay sau hiệp ước Munich 1938 , khi Hitler rốt cuộc từ bỏ hy vọng lôi kéo Anh vào liên minh chủng tộc Aryan cùng với Đức , thì các đề nghị của giới lãnh đạo Palestine mới đựơc chấp nhận . Từ đó trở đi và trong súôt những năm chiến tranh , mối liên kết của họ rất chặt chẽ và vị Mufti , khi thì ở Jerusalem , lúc ở Beirut , Baghdad , và cuối cùng từ văn phòng tại ngọai ô Berlin , đã đóng 1 vai trò quan trọng trong nền chính trị giữa các nước Ả -rập. Năm 1941 , nhờ sự giúp đỡ của Đúc thông qua Syria do chính phủ Vichy cai quản , Rashid ‘Ali có lúc đã thành công dựng lên 1 chế độ thân phe trục tại Iraq . Ông này bị quân Đồng minh đánh bại và chạy trốn sang Đức . Ngay cả Anwar Sadat , cũng tự thừa nhận là đã làm gián điệp cho Đức tại Ai cập do khi Anh còn cai trị .
Sự thất bại và sụp đổ của Đế chế thứ 3 cùng bộ máy của nó đã để lại 1 khỏang trống nhức nhối . Như nhiều người thấy được , chính trong giai đọan giao thời này mà vào năm 1948 người Do thái đã dựng nên 1 nhà nước và làm cho quân đội các Ả -rập bị thua trận nhục nhã khi ồ ạt tấn công ngăn không cho người Do thái thành lập nhà nước . Vì thế , cần phải tìm 1 ông chủ và người bảo vệ mới để thay thế cho Đế chế thứ 3 , đó là Liên Xô.
Rồi đến phiên Liên xô sụp đổ , chỉ còn lại Mỹ là siêu cường duy nhất . Như vậy kỷ nguyên của lịch sử vùng Trung đông được mở màn với Bonaparte và Nelson và kết thúc với Mikhail Gorbachev và George Bush cha . Thọat đầu , dường như kỷ nguyên cạnh tranh giữa các đế quốc đã chấm dứt với sự rút lui của 2 kình địch - Liên xô do không làm được , còn nước Mỹ thì không muốn đóng vai trò đế quốc . Nhưng trước những biến cố dài hơi , nhất là Cách mạng Iran và chiến tranh do nhà độc tài Iraq , Saddam Hussein , đã buộc nước Mỹ phải tham gia trực tiếp nhiều hơn vào các vụ việc của khu vực . Người dân Trung đông xem đây là 1 giai đọan mới của ván bài đế quốc cũ . Người Mỹ chưa hề có khả năng hoặc ý muốn đóng vai trò đế quốc .
Các nhà lãnh đạo Hồi giáo , cả 2 phe chính phủ và đối lập , phản ứng với tình hình mới này không giống nhau . Đối với một số người , đáp ứng tự nhiên là tìm 1 người bảo trợ mới - người kế tục Đế chế thứ 3 và Liên xô , người mà họ có thể tìm đựơc sự khích lệ , ủng hộ và giúp đỡ khi có chiến tranh chống lại phương Tây . Trong khi đó , phương Tây với tính cách là 1 khối quyền lực càng ngày càng lùi xa về phía tây hơn nữa và hiện nay chủ yếu chính là nước Mỹ , đã tạo ra một khả năng thú vị mới là châu Âu lục địa đóng vai trò đối nghịch . Một số nước châu Âu , vì lý do riêng , lại chia sẻ có mối hiềm thù và ác ý của vùng Trung đông đối với nước Mỹ , bày tỏ ý muốn sẳn lòng chấp nhận vai trò này . Nhưng đó chỉ là ý muốn , mà không có phương tiện .
Việc Liên xô sụp đổ , và thảm bại sau đó của Saddam Hussein trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 , là 1 cú đấm tai hại cho các phong trào quốc gia chủ nghĩa thế tục , nhất là đối với người Palestine , thêm một lần nữa , cũng như năm 1945 , thấy mình bơ vơ không có cường quốc nào bảo trợ và giúp đỡ cho chính nghĩa của mình . Người bảo trợ Liên xô không còn nữa . Thậm chí những nước Ả -rập ủng hộ tài chính cho họ là Kuweit và Saudi Arabia , tức giận vì Palestine ủng hộ nhiệt tình Saddam Hussein , có lúc cũng ngưng không trợ cấp , lại càng làm cho người Palestine thêm cô lập , nghèo đói và yếu hẳn đi .Chính bởi tình hình đó buộc họ phải nghĩ đến điều không thể nghĩ đến là chịu ký thoả hiệp hoà bình với Israel . Dứơi con mắt của nhóm chính thống , thì việc tổ chức PLO đựơc Mỹ và Israel cứu sống và bị đưa vào tròng khi hạ mình đối thoại với Israel là hành động đáng bị khinh bỉ .
Tất cả những điều này càng làm cho nhóm chính thống thấy quan điểm về thế giới của mình có lý hơn , và lý lẽ của họ thôi thúc hơn . Họ - đúng ra là với Usama bin Ladin - diễn giải sự sụp đổ của Liên xô theo 1 cách khác . Theo nhận thức của họ , thì chính họ , chứ không phải là Mỹ đã chiến thắng chiến tranh lạnh . Dưới mắt họ , Liên xô không phải là người giúp đỡ tốt bụng trong cuộc chiến chung chống lại người Do thái và đế quốc phương Tây nhưng lại là nơi xuất phát của chủ nghĩa vô thần và không tín ngưỡng , là nước đã áp bức hàng triệu người Hồi giáo , đã xâm lược Afghanistan . Họ cho rằng , không phải là không có lý , chính sự chiến đấu của họ tại Afghanistan đã đánh bại Hồng quân hùng mạnh và đưa Liên xô đến chỗ thất bại và sụp đổ . Sau khi thanh toán xong một kẻ địch nguy hiểm và hung tàn trong nhóm 2 siêu cường vô đạo , nhiệm vụ kế tiếp của họ là đối phó với kẻ địch còn lại , đó là nước Mỹ , và trong trận chiến này , ai mà thoả hiệp sẽ được coi là công cụ và tay sai cho kẻ địch vô đạo . Dựa trên nhiều lý do , nhóm chủ trương chính thống Hồi giáo cho rằng việc đánh nước Mỹ sẽ đơn giản và dễ dàng hơn . Theo họ , nước Mỹ hiện nay thối nát về đạo đức , xã hội suy đồi , và hệ qủa là nền chính trị và khả năng quân sự đều suy yếu . Nhận thức này có 1 lai lịch khá thú vị .
---------------------
Chương 4
PHÁT HIỆN NỨƠC MỸ
Trong 1 thời gian dài , tại các vùng đất Hồi giáo , nước Mỹ hầu như không hề được biết đến . Thoạt đầu , các chuyến du hành khám phá không được quan tâm mấy – chỉ có 1 bản sao còn sót lại bản đồ châu Mỹ do Christopher Columbus vẽ , được dịch ra tiếng Thổ , và lưu giữ tại bảo tàng Topkapi , Istanbul. Tài liệu về sự khám phá ra Tân thế giới của một nhà địa lý người Thổ vào thế kỷ 16 , có tiêu đề Lịch sử vùng Tây Ấn là một trong những quyển sách đầu tiên in tại Thổ nhĩ kỳ - vào thế kỷ 18. Nhưng sự quan tâm cũng rất ít , và không có mấy tài liệu về nước Mỹ bằng tiếng Thổ, tiếng Ả -rập hoặc bằng các ngôn ngữ Hồi giáo khác cho tới mãi gần đây . Khác với Cách mạng Pháp xảy ra vài năm sau đó , chẳng mấy ai biết đến Cách mạng Mỹ , và được coi , nếu có , chỉ là 1 hình thức nổi dậy quen thuộc . Những điều ghi nhận của viên đại sứ Morocco tại Tây ban nha chắc chắn là tài liệu đầu tiên bằng tiếng Ả rập về Cách mạng Mỹ vào thời điểm đó :
Sultan của xứ Morocco ký 1 hiệp uớc hữu nghị với nước Mỹ vào năm 1787 , và sau đó nước cộng hoà non trẻ này có một số mối quan hệ , khi thì thân thiện , khi thì thù nghịch , chủ yếu là thương mại , nhưng tất cả đều hạn hẹp với các nước Hồi giáo khác .
Tài liệu đựơc ghi chép đầu tiên có nhắc tới nước Mỹ như là 1 biểu tượng đối với thế giới Hồi giáo xảy ra tại Istanbul ngày 14 tháng 7 năm 1793 , khi viên đại sứ Pháp mới đến nhận công tác đã tổ chức một buổi ra mắt trước công chúng mà điểm đỉnh là 1 lọat phát súng chào bắn từ 2 chiến hạm Pháp đậu tại mũi Seraglio . Theo báo cáo của viên đại sứ , họ đã kéo cờ đế quốc Ottoman , cờ của cọng hòa Pháp và Mỹ , và "cờ của những cừơng quốc khác đã không làm bẩn súng khi đứng chung hàng ngũ với những bạo chúa nghịch đạo". Một đại sứ Pháp kế nhiệm , là tứơng Aubert du Bayet ( sau này là Dubayet ) , đến Istanbul vào năm 1796 , cũng có nguồn gốc Mỹ do vì sinh ra tại New Orleans và đã chiến đấu trong quân đội Mỹ . Ông này cố tâm truyền bá các tư tưởng cách mạng tại Thổ nhĩ kỳ .
Nhưng đây là những người Pháp , không phải là các doanh nghiệp của Mỹ và trong khi tư tưởng cách mạng Pháp gây ảnh hưởng đến tư tưởng và văn học của người Thổ , người Ả -rập và những người khác trong súôt thế kỷ 19 , thì Cách mạng Mỹ , và Cọng hòa Mỹ sinh ra từ cuộc cách mạng này , trong một thời gian dài lại không hề đựơc nhắc tới và thậm chí cũng không mấy ai biết. Ngay cả sự hiện diện của nước Mỹ càng ngày càng nhiều thêm - nào là nhà buôn , lãnh sự , nhà truyền giáo và thầy giáo – cũng không cũng gây đựơc được sự hiếu kỳ , và hầu như cũng không hề đựơc văn chương và báo chí thời ấy nhắc đến . Các sách giáo khoa về địa lý , phần lớn đựơc dịch hoặc dựa theo nguyên bản châu Âu , chỉ nêu vắn tắt một vài sự kiện về Tây bán cầu , còn trên báo chí thì rãi rác có một số tài liệu nhắc đến các biến cố xảy ra tại Mỹ , thường được nhắc tới dứơi hình thức tiếng Pháp , États Unis , chuyển sang tiếng Ả -rập là Itazuni , hoặc một dạng tương tự . Một quyển sách giáo khoa đựơc xuất bản tại Aicập vào năm 1833 , đựơc nhà văn và dịch giả nổi tiếng Sheikh Rifa’a Rafi’al - Tahtawi
( 1801-1873) phỏng dịch từ tiếng Pháp có bổ sung một đọan ngắn mô tả :"Itazumi là 1 quốc gia ( dawla ) gồm có nhiều vùng ( iqlim ) , họp lại thành một nước cọng hòa tại vùng đất Bắc Mỹ . Dân chúng gồm các bộ lạc từ nước Anh sang và chiếm cứ vùng đất này . Sau đó họ đứng lên tự giải phóng khỏi sự kiểm sóat của người Anh và dành đựơc tự do độc lập . Đây là một trong những nước văn minh lớn nhất tại châu Mỹ , và tại đây mọi tín ngưỡng và cọng đồng tôn giáo đều đựơc phép . Chính phủ đóng tại 1 thị trấn tên là Washington" Những câu kết luận đáng cho ta chú ý.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 , một mặt trên sách vở và các bách khoa thư và mặt khác trên báo chí có chú ý nhiều hơn về nước Mỹ , nhưng vẫn còn rất hạn chế , và dường như chỉ khu trú vào các nhóm thiểu số không theo Hồi giáo . Các tài liệu tham khảo liên quan đến nước Mỹ trong lãnh vực văn chương nói chung có tính không tích cực hoặc tiêu cực nhưng chỉ đơn thuần là mô tả . Các nhà truyền giáo dĩ nhiên không được ưa chuộng trong các cọng đồng Hồi giáo , nhưng dường như cũng không hề có sự ngờ vực , còn sự căm ghét thì lại càng ít hơn . Sau nội chiến Mỹ , một số sĩ quan Mỹ thất nghiệp chạy sang phục vụ cho các nhà cầm quyền Hồi giáo , giúp họ canh tân quân đội . Các nhà truyền giáo người Mỹ , dù bị cấm không cho cải đạo đối với tín đồ đạo Hồi , nhưng có thể cải đạo cho một số người Cơ đốc chính thống sang các hệ phái Tin lành khác nhau , và điều quan trọng hơn là , cung cấp nền giáo dục trung học và cao đẳng cho số học sinh càng ngày càng đông , đầu tiên là nam , sau đó là nữ , trước hết cho các nhóm thiểu số , sau mới sang cọng đồng Hồi giáo . Một số học sinh tốt nghiệp từ những trường này thậm chí còn sang Mỹ du học tại các trừơng Cao đẳng và Đại học . Lúc đầu , chỉ có du học sinh từ các cọng đồng thiểu số Cơ đốc , sau đó có thêm nhiều học sinh đạo Hồi tham gia , một số trong nhóm này thậm chí còn đựơc nhà nước xuất tiền cử đi học .
Thế chiến lần thứ 2 , kỹ nghệ dầu mỏ , và những phát triển hậu chiến đã đưa nhiều người Mỹ đến các vùng đất Hồi giáo ; thì cũng có nhiều người Hồi giáo đến nước Mỹ ngày càng đông , thọat đầu là học sinh , sau đó là thầy giáo , doanh nhân , hoặc du khách , và cuối cùng là dân di cư . Phim ảnh và sau đó là truyền hình đã du nhập lối sống Mỹ , hoặc ít nhất cũng một dạng của lối sống này , vào hàng triệu người mà trước đó chưa hề nghe hoặc biết đến ngay cả tên nước Mỹ . Nhiều hàng hóa Mỹ , nhất là những năm ngay sau chiến tranh , khi các đối thủ cạnh tranh châu Âu hầu như không còn và sự cạnh tranh Nhật bản chưa có , đã len lõi vào đến những chợ búa hẻo lánh nhất thuộc thế giới Hồi giáo , đã chiếm đựơc nhiều khách hàng mới và có lẽ điều quan trọng hơn cả , là đã tạo ra đựơc những thị hiếu và tham vọng mới . Với một số người , nước Mỹ đại diện cho tự do , công bằng và cơ hội . Đối với nhiều người khác , nước Mỹ tượng trưng cho giàu có , quyền lực và thành công , vào thời điểm này , những tính chất trên chưa đựơc coi là tội lỗi hoặc tội ác .
Và rồi có sự thay đổi lớn , khi các nhà lãnh đạo của 1 phong trào phục hưng rộng khắp và ngày càng mở rộng cố công tìm kiếm và cho rằng kẻ thù của mình là kẻ thù của Thượng đế và xác định"nơi ở và 1 tên gọi"ở Tây bán cầu . Đột nhiên , hoặc dừơng như thế , nước Mỹ bỗng trở thành kẻ thù không đội trời chung , là hiện thân của cái ác , và là kẻ thù hiểm ác của tất cả những gì đựơc coi là tốt đẹp đối với Hồi giáo , và nhất là với tín đồ đạo Hồi . Tại sao như thế ?.
Trong số những yếu tố gây nên tâm trạng chống Mỹ có một số ảnh hưởng của giới trí thức châu Âu . Một trong những ảnh hưởng đó là từ nước Đức , nơi mà cái nhìn tiêu cực về nước Mỹ hình thành một trường phái tư tuởng , trong số đó có những nhà văn thuộc các trừơng phái rất khác nhau như Rainer Maria Rilke , Oswald Spengler , Ernest Junger và Martin Heidegger . Theo nhận thức của những tác giả này thì nước Mỹ là 1 ví dụ tột cùng về một nền văn minh không có văn hóa ; giàu có và tiện nghi , rất phát triển về mặt vật chất nhưng giả tạo và vô tri ; chỉ có tính lắp ráp hoặc quá lắm cũng chỉ là đựơc dụng lên , không hề trưởng thành ; có tính máy móc không chút hữu cơ , chỉ là 1 phức hợp hòan tòan kỹ thuật nhưng không hề có chút gì là tinh thần và sức sống của các nền văn hóa nhân bản , quốc gia , có cội rễ của nước Đức và những dân tộc"chân chính” khác . Nền triết học Đức và nhất là triết học về giáo dục đựơc giới trí thức tại Ả -rập và một số nước Hồi giáo khác hâm mộ nhiều vào những năm thuộc thập kỷ 1930 và đầu 1940 mang thông điệp chủ nghĩa chống Mỹ về mặt triết học . Lối giải thích theo chủ nghĩa quốc xã của ý thức hệ Đức rất có ảnh hưởng trong các nhóm theo chủ nghĩa quốc gia , nhất là đối với những người sáng lập và đảng viên đảng Ba’th ở Syria và Iraq . Sau khi Pháp đầu hàng Đức vào tháng 6/1940 , các lãnh thổ ủy trị của Pháp là Syria và Liban vẫn còn đặt dứơi sự kiểm sóat của chính phủ Vichy và vì thế khá dễ cho người Đức tiếp cận , và sử dụng như là các căn cứ họat động của họ trong thế giới Ả -rập. Nổi bật nhất là cố gắng -có lúc đã thành công - hình thành 1 chế độ thân Quốc xã tại Iraq . Đảng Ba’th đựơc thành lập trong thời kỳ này . Các họat động trên chấm dứt khi người Anh ( và nước Pháp tự do ) chiếm lại Syria – Liban vào tháng 7/1941 , nhưng đảng Ba’th và các ý thức hệ đặc thù của nó vẫn tồn tại .
Chủ đề về tính nhân tạo và thiếu 1 bản sắc dân tộc đích thực của Mỹ cũng giống như các nước Ả -rập đã xuất hiện thường xuyên trên các bài viết của đảng Ba’th và thỉnh thỏang lại được Saddam Hussein khơi dậy , như trong 1 diễn văn đọc hồi tháng giêng năm 2002 . Khi các cuộc chiến - thế chiến thứ 2 , rồi sau đó chiến tranh lạnh - còn tiếp tục , vai trò của Mỹ lãnh đạo phương Tây ngày càng trở nên nổi bật , cho nên cái phần thù ghét dành cho nước Mỹ lại càng đáng chú ý hơn .
Sau khi Đế chế thứ 3 sụp đổ , và ảnh hưởng của Đức không còn , thì một thế lực khác và một triết lý khác , thậm chí còn chống Mỹ dữ dội hơn , thế chân - đó là chủ nghĩa Marxit kiểu Liên xô đứng lên tố cáo chủ nghĩa tư bản phương Tây và nước Mỹ là đại diện nguy hiểm và tiên tiến nhất của nó. Dù thực tế là việc người Nga không hề nhẹ tay khi thống trị phần lớn đế quốc châu Á mênh mông do Sa hòang chinh phục và sau đó bị Liên xô tái chinh phục nhưng ít nhiều cũng không ngăn đựơc việc họ tự cho mình là chiến sĩ và là người bảo trợ cho các phong trào chống chủ nghĩa đế quốc lan tràn trên khắp thế giới sau thế chiến thứ 2 , không chỉ duy nhất tại vùng Trung đông . Vào năm 1945 , dường như chủ nghĩa xã hội sẽ là làn sóng của tương lai . Tại Đông Âu , Liên xô đã hòan tòan thắng trận . Tại Tây Âu , đảng Lao động Anh đã đánh bại ngay cả Winston Churchill vĩ đại trong cuộc tổng tuyển cử năm 1945 . Trên tòan thế giới Arab các chính phủ và phong trào hăng hái tiếp thu các hình thức của chủ nghĩa xã hội .
Nhưng dù rằng các nhà bảo trợ và các chủ nghĩa ngọai nhập có mang lại giúp đỡ vật chất và cách diễn đạt trí thức chống phương Tây và chống Mỹ , thì họ cũng không đề ra , và chắc chắn là không giải thích được vì sao phong trào bài xích phương tây lại làm cho nhiều nước Trung đông và đâu đó trong thế giới Hồi giáo , tiếp thu những tư tưởng như thế . Ta phải nói cho rõ là tạo điều kiện thuận lợi cho các học thuyết cực kỳ khác nhau như thế không phải là lý thuyết chủng tộc của bọn quốc xã Nazi , lý thuyết này không mấy lôi cuốn đối với người Ả -rập , hoặc chủ nghĩa Cọng sản vô thần , lại càng không hấp dẫn được tín đồ đạo Hồi , nhưng chính là ở cái gốc bài phương Tây . Chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cọng sản là những lực lượng chính chống lại phương Tây , cả về lối sống lẫn vai trò cường quốc trên thế giới , và có như thế , 2 chủ nghĩa đó mới tranh thủ được cảm tình hoặc thậm chí sự cọng tác của những ai xem phương tây là kẻ thù chính của mình.
Nhưng tại sao lại như thế? Nếu ta đi từ cái chung đến cái riêng , thì không hề thiếu các hành động hoặc chính sách riêng lẽ , được các chính quyền phương Tây đưa ra hoặc theo đuổi , đã làm khơi dậy tại Trung đông và các dân tộc đạo Hồi khác lòng căm giận sâu sắc diễn ra dưới nhiều hình thức chiến đấu - để dành độc lập khỏi sự cai trị hoặc đô hộ của ngọai bang ; để giải phóng tài nguyên khỏi sự bóc lột của nước ngoài , chủ yếu là dầu mỏ ; để lật đổ những kẻ cầm quyền và chế độ tay sai và theo đuôi của phương tây . Nhưng cái cảnh thường xuyên là khi tất cả những chính sách trên bị hủy bỏ và các vấn đề đã giải quyết xong , tình hình chỉ dịu đi tạm thời và khu trú . Khi người Anh bỏ Ai cập , người Pháp bỏ Algeria , bỏ hết tài sản tại các nước Ả -rập khác , thì các chế độ quân chủ bị lật đổ tại Iraq và Ai cập , vua Shah chủ trương cải cách theo phương tây bỏ chạy khỏi Iran , các công ty dầu mỏ từ bỏ quyền kiểm sóat các giếng dầu mà họ đã bỏ công phát hiện và xây dựng , và tự hài lòng với những thỏa thuận có được với các chính phủ của những nước này – tuy vậy sự phẫn uất tràn lan của những người theo phe chính thống và cực đoan chống lại phương tây vẫn không hề suy giảm .
Có lẽ ví dụ thường đựơc nêu ra nhất về sư can thiệp của phương tây cùng với những hệ qủa của nó là việc lật đổ chính phủ Mosaddeq tại Iran năm 1953. Cuộc khủng hỏang bắt đầu khi Mosaddeq , nhà lãnh đạo bình dân theo chủ nghĩa dân tộc , đựơc nhân dân ủng hộ , quyết định quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ , đặc biệt là công ty Anh-Iran , công ty quan trọng nhất . Chắc chắn là , những điều kiện theo đó công ty này và những công ty dầu mỏ nhượng quyền khác họat động thực ra đều không bình đẳng và phù hợp . Lấy ví dụ , công ty dầu mỏ Anh –Iran trả thuế cho chính phủ Anh nhiều hơn là tiền thuê mỏ cho chính phủ Iran . Nước Mỹ lúc đầu liên đới vì là đồng minh của Anh , rồi sau đó , dần dà , do sợ Liên xô nhảy vào ủng hộ chính phủ Mosaddeg . Vì thế , Anh và Mỹ quyết định , dĩ nhiên là có sự đồng ý của vua Shah , tống khứ Mosaddeg bằng 1 cuộc đảo chính . Lúc đầu , cuộc đảo chính không suông sẻ mấy . Mossadeg chỉ bắt giữ phái viên của vua Shah và ra lệnh bắt tứơng Zahedi , đầu sỏ nhóm đảo chính và dự tính sẽ cầm đầu chính phủ mới thân vua Shah . Có lúc những người ủng hộ Mosaddeg và các đảng viên đảng Tudeh Cọng sản tổ chức biểu tình rộng rãi trên đường phố , đả đảo cả vua Shah và thân phụ ông ta , hô to” Đế quốc Mỹ cút về nước". Vua Shah cùng với vợ bỏ trốn sang Iraq , tại đây ông ta bí mật gặp Đại sứ Mỹ , và sau đó bay sang Rome.
Trong khi đó , các cuộc biểu tình tại Tehran thay đổi tính chất . Lúc trước họ chống vua Shah , bây giờ họ lại quay sang ủng hộ , và nhất là quân đội xuống đừơng ủng hộ nhà vua . Sau nhiều đợt biểu tình , Mosaddeg bị lật đổ và Zahedi đứng ra làm Thủ tứơng . Vào ngày 19/8/1953 ,vua Shah nhận đựơc tin qua 1 bức điện do AP đánh đi :"Tehran: Mosaddeq đã bị lật đổ . Quân đội nhà vua kiểm sóat Tehran. Zahedi làm Thủ tứơg,” Ngay sau đó , vua Shah quay về Tehran và chiếm lại ngai vàng .
Kết cuộc , theo tiêu chuẩn trong vùng , là khá nhẹ nhàng. Bộ trưởng ngọai giao trong chính phủ Mosaddeg bị xử tử và một số khác ủng hộ ông này bị bỏ tù . Còn chính Mosaddeq thì bị đưa ra tòa và bị án 3 năm quản thúc tại nhà . Sau khi đựơc thả vào tháng 8 năm 1956 , ông ta sống tại điền trang dứơi sự giám sát cho đến năm 1967 . Do sự can thiệp tích cực của CIA Mỹ và MI 6 Anh trong vụ lật đổ chế độ và giúp vua Shah quay lại cầm quyền , cho nên vua Shah bị đại đa số thần dân coi như là bù nhìn của Anh , sau đó là của Mỹ.
Nếu đúng vậy , thì bù nhìn vừa không đắc lực vừa không đáng tin cậy .Khi cách mạng Iran xảy ra năm 1979 , cả Anh lẫn Mỹ không hề ra tay để cứu vua Shah khỏi bị lật đổ . Chính quyền Mỹ lúc đó đã không ra tay giúp đỡ mà còn nói rõ là họ không ý định làm gì cả . Thậm chí còn cường điệu hơn nữa khi họ từ chối không cho vua Shah và gia đình tị nạn tại Mỹ . Vua Shah trốn khỏi Tehran vào giữa tháng giêng 1979 và bay qua qua ngã Ai cập đến Morocco, nơi đây ông làm khách của nhà vua vài ngày . Nhưng vua Morocco lại có những nổi lo khác , nhất là dự họp Tổ chức Hội nghị Hồigiáo mà ngài đứng ra tổ chức tại Rabat vào đầu tháng 4 . Vì thế vua Hassan yêu cầu vua Shah ra đi trước ngày 30 tháng 3 . Vua Shah thông báo cho đại sứ Mỹ ý muốn chấp thuận lời đề nghị cho tị nạn của Tổng thống Carter , nhưng hóa ra là đề nghị này đã bị hủy bỏ , rõ ràng là đặt ưu tiên việc thiết lập quan hệ tốt với các nhà lãnh đạo mới của Iran trên việc cho phép vua Shah và gia đình tị nạn . Người Mỹ chỉ động lòng khi vua Shah bệnh nặng gần chết và cần đựơc chăm sóc y tế gấp. Vào ngày 22 tháng 10 , vua Shah được thông báo là có thể chuẩn bị đến Mỹ . Ngài đến New York vào sáng sớm hôm sau và đựơc đưa thẳng vào bệnh viện . Biết rằng sự có mặt của mình sẽ gây khó cho nước Mỹ , cho nên mặc dầu còn đang bệnh nặng , ông ta cũng rời nước Mỹ và đến Panama, chật vật mới khỏi bị trục xuất về Iran và từ Panama , ông ta quay về Ai cập , sống ở đó cho đến khi chết vào năm 1980 .
Các nhóm khác nhau trong vùng rút ra được 2 bài học từ những sự kiện này - một là , người Mỹ sẵn sàng vừa sử dụng vũ lực và âm mưu để sắp đặt hay duy trì các nhà cầm quyền bù nhìn tại các nước Trung đông ; hai là , người Mỹ không phải là kẻ bảo trợ đáng tin cậy khi những bù nhìn bị dân chúng tấn công mạnh mẽ , lúc đó họ sẽ sẳn sàng bỏ rơi . Một bài học gây nên sự óan hận , còn bài học kia sự khinh bỉ - quả là 1 sự kết hợp nguy hiểm.
Rõ ràng là có cái gì đó liên quan nhiều hơn là những mối bất bình cụ thể này , có thể là rất nhiều và quan trọng , là một cái gì đó sâu sắc hơn đã chuyển mỗi sự bất hoà thành 1 vấn đề và làm cho vấn đề này trở nên không thể nào giải quyết được . Cái mà ta phải đối đầu hiện nay không chỉ là 1 lời oán trách về 1 chính sách nào đó của Mỹ mà đúng là 1 sự từ chối và kết tội , chứa đầy giận dữ và khinh miệt tất cả những gì mà nước Mỹ được coi là đại diện trên thế giới hiện nay.
Một khuôn mặt chủ chốt trong quá trình hình thành những thái độ mới đó là Sayyid Auth , người gốc Ai cập đã trở thành một nhà tư tưởng chủ đạo của phong trào chính thống Hồi giáo và là 1 thành viên tích cực của tổ chức chính thống là Các huynh đệ Hồi giáo . Sinh ra tại 1 làng vùng Thượng Ai cập năm 1906 , ông này học tại Cairo , rồi đi dạy học vài năm và sau đó làm công chức tại bộ Giáo dục Ai cập . Nhờ có khả năng , ông ta được gởi đi dự 1 khoá học đặc biệt tại Mỹ từ tháng 11/1948 đến tháng 8/1950 . Tính cực đoan về chủ nghĩa chính thống và khả năng viết lách của ông phát triển ngay sau khi từ Mỹ trở về nước . Sau vụ đảo chánh quân sự tháng 7/1952 , lúc đầu ông ta liên hệ chặt chẽ với nhóm đựơc gọi là Sĩ quan tự do , nhưng sau đó không theo họ nữa khi những bài giảng về Hồi giáo của ông va chạm với cácchính sách của phe theo đường lối thế tục . Sau nhiều lần đụng độ với nhà cầm quyền , vào năm 1955 ông ta bị kết án 15 năm tù . Nhờ sự can thiệp của Tổng thống Arif của Iraq , ông đựơc thả vào năm 1964 , và vào cuối năm này ông xuất bản một trong những tác phẩm chính của mình , Ma’alim fil-Tariq ( Những chỉ báo trên đường Đạo ) . Vào ngày 9 tháng 8 , 1965 , ông ta bị bắt trở lại , và lần này bị kết tội là phản bội và , cụ thể là có âm mưu ám sát Tổng thống Nasser . Sau 1 phiên xử bỏ qua những thủ tục , ông ta bị kết án tử hình vào ngày 21tháng 8 năm 1966. Án lệnh đựơc thi hành 8 ngày sau đó .
Thời gian lưu trú tại Mỹ của Sayyid Quth dường như là giai doạn quyết định trong sự hình thành các tư tưởng của ông ta về các mối liên hệ giữa đạo Hồi với thế giới bên ngoài , và nhất là , chính bên trong thế giới Hồi giáo . Nhà nước Israel mới vừa được thành lập và tồn tại đựơc nhờ đánh thắng trận đầu trong 1 loạt các cuộc chiến giữa khối Ả -rập và Israel. Chính đây là thời điểm thế giới mới biết đựơc sự huỷ diệt gần như toàn bộ người Do thái tại các nước châu Âu do Quốc xã chiếm đóng , và công luận tại Mỹ , cũng như tại nhiều nơi trên thế giới , đa số đều đứng về phía Israel. Mối liên hệ thời chiến giữa Đệ tam Đế chế và các nhà lãnh đạo Ả -rập nổi tiếng như Mufti tại Jerusalem và Rashid ‘ Ali của Iraq cũng đựơc đưa lên báo , và như thế cảm tình của quần chúng đương nhiên là dồn cho phía đựơc coi là nạn nhân của Hitler trong nổ lực đấu tranh thoát khỏi sự tàn sát của các đồng phạm của Hitler . Sayyid Quth bị choáng khi thấy mức độ ủng hộ tại Mỹ đối với những gì mà ông ta coi như sự tàn sát của người Dothái đối với đạo Hồi với sự đồng loã của người Cơ đốc .
Càng rõ hơn nữa là cái phản ứng choáng váng của ông ta đối với lối sống Mỹ - chỉ toàn là tội lỗi và sa đoạ , thói ham mê những điều mà ông ta gọi là sự chung chạ xác thịt . Sayyid Quth nhận ra đựơc sự đối nghịch giữa phương Đông tâm linh và phương tây với chủ nghĩa ưa vật chất , và coi nước Mỹ là 1 hình thái tận cùng của chủ nghĩa này . Ông ta viết rằng , ở Mỹ , mọi thứ , thậm chí cả tôn giáo cũng được đo bằng những lời lẽ vật chất . Ông ta nhận thấy ở Mỹ có nhiều nhà thờ nhưng lại cảnh báo người đọc là không nên hiểu rằng cứ nhiều nhà thờ là tình cảm tôn giáo và tâm linh cũng nhiều . Theo ông , nhà thờ ở Mỹ hoạt động như kinh doanh , tranh nhau khách hàng và quảng cáo , và sử dụng các phương pháp như ở cửa hàng và nhà hát để thu hút khách hàng và người xem . Mục sư nhà thờ , cũng giống như người quản lý 1 doanh nghiệp hoặc 1 nhà hát , thành công là tất cả , và thành công đựơc đo bằng kích thứơc - mức độ to lớn , bằng con số . Để chiêu dụ khách hàng , nhà thờ còn trơ trẻn đứng ra quảng cáo và chào mời cái mà người Mỹ tìm kiếm nhiều nhất - thoải mái hoặc vui vẻ ( ông ta ghi tiếng Anh – a good time và fun trong bản tiếng Ả -rập ) . Kết qủa đưa đến là các sảnh sinh hoạt của nhà thờ , nơi mà các giáo sĩ làm ban phép lành , trở thành nơi nhảy nhót , nơi đàn ông đàn bà gặp nhau , buông tuồng , sàm sỡ . Các mục sư thậm chí còn đi đến mức để đèn mờ nhằm làm cho cuộc khiêu vũ cuồng nhiệt hơn. Ông ta viết một cách kinh tởm " Tiếng nhạc từ máy hát làm điệu nhảy khích động hơn , sàn nhảy trở thành nơi quay cuồng giữa giữa gót chân , và đùi , tay quấn lấy hông , môi vú kề nhau , bầu không khí đầy vẻ dâm dật". Ông ta cũng trích dẫn bản báo cáo Kinsey về hành vi tình dục để làm căn cứ cho phần mô tả và kết tội tính sa đoạ của xã hội người Mỹ . Qua nhận thức này về phương Tây và lối sống của nó có thể giải thích tạo sao các tên khủng bố sùng đạo lại coi các vũ sảnh , hộp đêm và những nơi khác có thanh niên nam nữ tụ tập là các mục tiêu hợp logic . Những lời tố cáo chống lối sống Mỹ của Sayyid Quth quá dữ dội cho nên ông ta phải rời bỏ vị trí công tác tại Bộ giáo dục vào năm 1952 . Hiển nhiên là sua đó ông ta gia nhập tổ chức Huynh đệ Hồi giáo .
Công kích chính trong các bài viết và bài giảng của Sayyid Quth nhắm vào kẻ thù nội bộ - vào cái mà ông ta gọi là kỷ nguyên mới của sự ngu dốt , theo tiếng Ả -rập là jahiliyya , là 1 từ cổ điển Hồi giáo để chỉ thời kỳ đầy rẫy bọn ngọai đạo tại đất Ả -rập trước khi có đấng Tiên tri và đạo Hồi xuất hiện . Theo Sayyid Quth , đợt jahiliyya mới này đã nuốt chửng các dân tộc Hồi giáo và những tên bạo chúa pharaon mới – ám chỉ các chế độ cầm quyền hiện hữu – đang cai trị họ . Nhưng mối đe dọa của kẻ thù bên ngoài càng ngày càng lớn mạnh . Có ý cho rằng thái độ chống Mỹ của Sayyid Quth chỉ là kết quả của cái thực tế mà ông ta gặp khi sang Mỹ , nếu ông ta đựơc cử sang bất cứ nước nào ở châu Âu thì ông ta cũng có thái độ tương tự . Nhưng vào thời điểm đó , người ta chỉ nhắc đến nước Mỹ , và vai trò lãnh đạo của nước này , từ xấu đến tốt , đối với các nước không- Hồi giáo đựơc thừa nhận và bàn cãi ngày càng nhiều . Chính bộ mặt tội lỗi và cả sự suy đồi của nước Mỹ và sự đe dọa nhiên hậu đối với đạo Hồi và tín đồ đạo Hồi đã trở thành chủ đề về đức tin trong các nhóm Hồi giáo chính thống .
Hiện nay , tại các nước Hồi giáo , trên các phương tiện truyền thông đại chúng , truyền đơn , bài giảng và trong các bài phát biểu trước công chúng , ra rã 1 bài tụng dường như dập khuôn về các tội lỗi của Mỹ . Lấy một ví dụ là trong một bài phát biểu của 1 giáo sự người Ai cập tại buổi họp chung giĩưa EU và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo tổ chức tại Istanbul vào tháng 3 năm 2002. Danh sách tội ác đựơc tính ngược đến thời mới định cư sơ khai tại Bắc Mỹ bao gồm việc tước đọat tài sản và tiêu diệt dân bản địa và sau đó là ngược đãi những người còn sống sót . Tiếp đến là việc bắt làm nô lệ , bóc lột người da đen ( lời tố cáo kỳ quặc từ nguồn tin đặc biệt này ) và người nhập cư tại Mỹ . Lời tố cáo cũng bao gồm những tội ác chiến tranh chống Nhật bản tại Hiroshima và Nagasaki cũng như tại Triều tiên , Việt nam , Somalia và các nơi khác . Đáng chú ý trong những tội ác của hành động xâm lăng đế quốc là việc làm của Mỹ tại Liban , Khartoum , Lybia , Iraq và dĩ nhiên có việc Mỹ giúp Israel chống lại ngườiPalestine. Nói rộng ra , danh sách buộc tội còn nêu ra sự ủng hộ của Mỹ tại Trung đông và sự ủng hộ dành cho một số nhà cầm quyền chuyên chế khác , như vua Shah tại Iran và Haile Selassie tại Ethiopia , cũng như 1 danh sách ( được điều chỉnh tùy theo tình huống) các nhà độc Ả -rập , chống lại nhân dân của họ .
Tuy nhiên lời cáo buộc mạnh mẽ nhất trong tất cả là sự suy đồi và trụy lạc của lối sống Mỹ , và mối đe dọa của lối sống này đối với đạo Hồi . Mối đe dọa này , thọat đầu là do Sayyid Quth nêu ra , ngày nay đã trở thành 1 thành phần thường trực trong vốn từ vựng và ý thức hệ của nhóm Hồi giáo chính thống , và rõ nhất là trong ngôn ngữ của Cách Mạng Iran . Chính đây là ý nghĩa của từ Satan đầu sỏ do cố giáo sĩ Ayatollah Khomeni gán cho nước Mỹ . Theo kinh Qur’an mô tả thì Satan cũng chẳng phải là bọn đế quốc hoặc kẻ bóc lột . Hắn chính là tên dụ dỗ ,"là tên ma vương quỉ quyệt nhỏ to vào lòng người"( Qur’an CXIV,4,5) .
Chương V
SATAN VÀ LIÊN XÔ
Vai trò mới của nước Mỹ - theo nhận thức của vùng Trung đông về vai trò này - được minh hoạ đầy sinh động bằng sự cố xảy ra tại Pakistan vào năm 1979. Vào ngày 20 tháng 11 , một nhóm hàng ngàn người Hồi giáo cấp tiến chiếm giữ Nhà thờ lớn tại Mecca chống lại lực lượng an ninh một thời gian . Mục đích của họ là để "làm thanh sạch đạo Hồi"và để giải phóng đất thánh Ả -rập khỏi"bè lủ những tên vô đạo hoàng gia " và các lãnh đạo tôn giáo thối nát đang ủng hộ chúng . Qua loa phóng thanh , các nhà lãnh đạo sự cố này tố cáo phương tây là kẻ phá hoại các giá trị cơ bản của Hồi giáo và chính quyền Saudi là những kẻ đồng phạm . Kẻ cầm đầu kêu gọi nên quay về những truyền thống xa xưa ” bình đẳng và công bằng” của Hồi giáo . Sau một hồi giao tranh dữ dội , quân khởi loạn bị đè bẹp . Người cầm đầu bị xử tử vào ngày 9 tháng giêng ,1980 cùng với 62 tòng đảng , trong đó có người Ai cập , Kuwait , Yemen và công dân của các nước Ả -rập khác .
Trong khi đó , tại Islamabad , Pakistan nổ ra 1 cuộc biểu tình ủng hộ quân khởi loạn . 1 tin đồn lan truyền - đựơc Ayatollah Khomeni , lúc này đang cố đóng vai là nhà cách mạng tại Iran , đồng tình – là quân Mỹ có tham gia vào những vụ đụng độ tại Mecca. . Đám biểu tình Hồi giáo tấn công sứ quán Mỹ , làm chết 2 người Mỹ và 2 viên chức Pakistan . Tại sao Khomeni lại đưa ra 1 báo cáo không những là giả mạo và không thể nào xảy ra đựơc ?.
Những biến cố này xảy ra trong bối cảnh Cách mạng Hồi giáo năm 1979 . Vào ngày 4 tháng 11 , sứ quán Mỹ tại Tehran bị chiếm , và 62 người Mỹ bị bắt làm con tin . 10 người trong bọn họ , là phụ nữ và người Mỹ da đen , đựơc thả ra ngay ; các con tin còn lại bị giữ 444 ngày , cho đến khi đựơc thả ra vào ngày 20 tháng giêng 1981. Cho đến lúc này mới rõ động cơ của việc bắt giữ , thông qua lời khia và phát hiện sau đó của người bắt con tin và một số nguồn tin khác . Khi ấy người ta mới biết là vụ khủng hoảng con tin xảy ra không phải vì mối quan hệ giữa Mỹ và Iran xấu đi nhưng chính là do đựơc cải thiện . Vào mùa thu năm 1979 , Mehdi Bazargan , là thủ tứơng Iran chủ trương tương đối ôn hoà , nhờ sự giúp đỡ của chính phủ Algeria , đã thu xếp để gặp cố vấn an ninh quốc gia Mỹ là Zbigniew Brezinski . 2 vị này đã gặp nhau vào ngày 1 tháng 11 và theo báo cáo là có chụp ảnh bắt tay nhau . Một khả năng có thể trở thành hiện thực - dưới mắt của những người cấp tiến, một mối nguy hiểm thực sự - có thể có sự thoả hiệp nào đó giữa 2 quốc gia . Đám phản đối chiếm lấy sứ quán và bắt các nhà ngoại giao Mỹ làm con tin để bóp dí hy vọng đối thoại xa hơn . Về việc này , họ đã thành công hoàn toàn , ít nhất cũng vào lúc ấy .
Theo Khomeni , thì nước Mỹ là kẻ thù chính mà ông ta phải phát động thánh chiến để chống lại . Thế thì , cũng như trong quá khứ , cái thế giới của những kẻ không có đức tin này được coi như là 1 thế lực đáng gờm đang cạnh tranh và ngăn không cho đạo Hồi chiến thắng và truyền bá theo sứ mạng đựơc thánh thần giao cho . Trong tác phẩm trước đó của Khomeni và nhất là quyển"Chính quyền Hồi giáo"viết năm 1970 , nước Mỹ đôi khi đựơc nhắc , và sua đó được nhắc tới khi nói về chủ nghĩa đế quốc - ban đầu chỉ đóng vai trò hỗ trợ , dần dần với tính cách là người thay thế cho Đế quốc Anh quen thuộc nhiều hơn . Vào thời điểm cách mạng xảy ra , và khi sự đối đầu trực tiếp ngày càng tăng , thì nước Mỹ theo ông ta, đã trở thành kẻ thù chính , và là mục tiêu trung tâm của sự giận dự và sự khinh miệt của tín đồ Hồi giáo.
Mối thù đích đặc biệt của Khomeini đối với nước Mỹ dường như bắt đầu từ tháng 10 năm 1964 , trong bài phát biểu trước tư dinh tại Qum, , ông ta kịch liệt tố cáo điều luật trình Quốc hội Iran về đặc quyền ngoại giao dành cho phái bộ quân sự Mỹ , cùng với gia đình , nhân viên , cố vấn , người giúp việc của họ được miễn trừ theo luật pháp Iran . Rõ ràng là ông ta không biết rằng quyền miễn trừ tương tự cũng đã được đề nghị và đương nhiên được chấp thuận cho các lực lượng Mỹ đóng tai Anh trong thế chiến thứ 2 . Nhưng vấn đề về cái gọi là nhượng bộ , đặc quyền miễn trừ ngoại giao trong quá khứ dành cho các thương gia người Âu và du khách khác đến xứ Hồi giáo là 1 vấn đề tế nhị , nhưng Khomeini lại vận dụng một cách khéo léo :"Họ đã đẩy người Iran xuống vị trí thấp hơn con chó của người Mỹ . Nếu có ai chẹn phải con chó của người Mỹ , người đó sẽ bị trừng trị . Ngay cả vua Shah , nếu ngài chẹn chết 1 con chó của người Mỹ , ngài cũng sẽ bị trừng trị . Nhưng nếu 1 đứa nấu bếp người Mỹ đụng phải vua Shah , là nguyên thủ quốc gia , thì không ai có quyền xâm phạm tên nấu bếp đó"Do đã đụng chạm với nhà cầm quyền , sau bài phát biểu này , Khomeini bị trục xuất khỏi Iran vào ngày 4 tháng 11 . Ông ta trở lại chủ đề này nhiều lần trong các bài phát biểu và bài viết sau đó , mạt sát người Mỹ là miệng thì cam kết tôn trọng nhân quyền , nhưng lại không hề đếm xỉa đến những quyền này đối với Iran và một số nước khác , trong số đó có các nước thuộc châu Mỹ Latinh ” tại sân nhà của họ . Những lời kết tội khác gồm có tước đoạt sự phồn vinh của Iran , và ủng hộ chế độ quân chủ Iran. .
Trong những bài phát biểu sau khi trở lại Iran , danh mục những nổi bất bình và danh sách các kẻ thù ngày càng dài thêm , nhưng bao giờ nước Mỹ cũng đứng đầu bảng .Và không chỉ duy nhất tại Iran . Trong bài phát biểu vào tháng 9 năm 1979 tại Qum , ông ta than phiền rằng toàn bộ thế giới Hồi giáo đều nằm trong nanh vuốt của người Mỹ và kêu gọi toàn thể người Hồi giáo trên thế giới đứng lên chống lại kẻ thù . Chính vào thời điểm này , ông ta bắt đầu gọi nước Mỹ là tên "Satan đầu sỏ". Cũng vào thời điểm này , ông ta tố cáo Anwar Sadat của Aicập và Saddam Hussein của Iraq là đầy tớ và tay sai của Mỹ . Sadat phục vụ người Mỹ khi ký kết hoà bình với Israel ; Saddam Hussein phục vụ Mỹ vì đã gây chiến với Iran . Sự đối đầu với Mỹ trong vụ khủng hoảng con tin , trong cuộc xâm lăng của Iraq , và trong nhiều trận chiến về kinh tế và ngoại giao đã chứng minh nhận định của Khomeini về vai trò chính của Mỹ trong cuộc chiến giữa Hồi giáo và phương Tây . Từ đó trở đi , nước Mỹ là"tên Satan đầu sỏ", Israel là tay sai của Mỹ , là"tên Satan con", nhật lệnh là" nước Mỹ phải chết". Đó là khẩu hiệu đựơc hô to và giương lên trong các cuộc tuần hành chống Mỹ năm 1979. Về sau , khẩu hiệu này đựơc tô vẻ thêm trịnh trọng , đầy nghi thức tôn giáo cho nên không còn ý nghĩa thực sự của nó nữa.
Các nhà quan sát người Mỹ , bừng tỉnh vì bị Cách mạng Iran lớn tiếng xỉ vả là tên Satan đầu sỏ , cố gắng tìm hiểu vì sao tình cảm chống Mỹ lại trổi dậy mạnh mẽ trong thế giới Hồi giáo vào thời điểm đó . Một cách giải thích có lúc đựơc nhiều người chấp nhận , nhất là trong giới đối ngoại Mỹ , là hình ảnh nước Mỹ bị hoen ố trong thời chiến và do tiếp tục liên kết với các cừơng quốc thuộc địa châu Âu . Để biện hộ cho đất nước mình , một số nhà bình luận Mỹ cho rằng , khác với các đế quốc Tây Âu , bản thân nước Mỹ cũng là nạn nhân của chủ nghĩa thuộc địa , nước Mỹ là quốc gia đầu tiên giành đựơc độc lập thoát khỏi sự cai trị của nước Anh . Nhưng các tác giả Ả -rập đã nhanh chóng chỉ ra rằng đó chỉ là viễn vông khi hy vọng rằng dân bị trị của các đế quốc Anh và Pháp tại vùng Trung đông sẽ coi cách mạng Mỹ là tấm gương trong cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc của họ . Cuộc cách mạng Mỹ như họ thường lưu ý , không phải do người Mỹ bản xứ , mà lại do dân lập nghiệp người Anh đứng lên chiến đấu , như thế hoàn toàn không phải là chiến thắng chống lại chủ nghia thực dân , mà đó là cuộc chiến chung quyết của chủ nghĩa thực dân , là người Anh tại Bắc Mỹ đã thành công trong việc thực dân hoá vùng đất này một cách trọn vẹn đến mức họ không cần đến sự hỗ trợ của mẫu quốc để chống lại dân bản địa .
Không mấy ngạc nhiên khi thấy dân bị trị của các nước thực dân cũ tại vùng Trung đông coi nước Mỹ cũng mang tính đế quốc chủ nghĩa như các nước Tây Âu . Nhưng sự uất hận của nhân dân vùng Trung đông đối với các cừơng quốc đế quốc không phải lúc nào cũng nhất quán . Liên xô , nước đã duy trì và nới rộng các phần lãnh thổ do Sa hoàng chinh phục , cai trị hà khắc hàng chục triệu người Hồi giáo tại các nước cọng hoà Trung Á và vùng Caucasus. Nhưng Liên xô lại không hề bị những cọng đồng Arập thù hận và căm ghét đến thế.
Mối quan tâm của Nga tại vùng Trung đông có từ lâu . Qua nhiều thế kỷ các Sa hoàng đã mở rộng xuống phía nam và phía đông , và đã sáp nhập nhiều vùng đất Hồi giáo rộng lớn vào đế quốc Nga , chỉ trừ nước Thổ và Ba tư và các nước Hồi giáo đã độc lập tại tại Trung Á. Việc thất trận của phe trục năm 1945 đã làm nẩy sinh mối đe doạ mới từ Liên xô. Liên xô lúc này đang nắm chắc vùng Balkan và có thể đe doạ Thổ nhĩ kỳ cà 2 mặt biên giới đông và tây. Họ đã thọc sâu vào Iran khi chiếm vùng Azerbaijan . Mối đe doạ đối với Iran đã có từ lâu . Trong các cuộc chiến tranh Nga- Iran năm 1804-1813 và 1826-1828 , người Nga đã chiếm phía bắc Azerbaijan , biến vùng này thành 1 tỉnh của đế quốc Sa hoàng và sau đó trở thành một nước cọng hoà trong Liên bang Xô viết. Trong thế chiến thứ 2 , cùng với người Anh , Liên xô chiếm lấy Iran để bảo đảm phòng tuyến liên lạc cho cả 2 nước . Khi chiến tranh chấm dứt , người Anh rút quân ; Liên xô vẫn ở lại , rõ ràng là có ý định sáp nhập phần còn lại của Azerbaijan vào Liên xô.
Lần đó họ bị chặn lại . Nhờ sự giúp đỡ chủ yếu từ phía Mỹ , người Thổ gạt phắt yêu cầu của Liên xô đòi xây dựng căn cứ tại vùng eo biển Dardanelles , còn Iran thì lật đổ chính phủ cọng sản bù nhìn mà quân Xô viết chiếm đóng dựng lên tại vùng Azerbaijan Ba tư và tái xác lập chủ quyền quốc gia của chính phủ Iran trên toàn bộ lãnh thổ của mình .
Trong một thời gian , ý đồ thực hiện giấc mộng nhiều năm của Sa hoàng của Liên xô bị dội ngược , và cả Thổ nhĩ kỳ lẫn Iran đều gia nhập liên minh Châu Âu . Nhưng hiệp ứơc khí giới Nga - Aicập năm 1955 đã đưa Nga trở lại chơi ván bài Trung đông , lần này đóng vai trò chủ đạo . Người Thổ và người Iran đã có nhiều kinh nghiệm với chủ nghĩa đế quốc của Nga cho nên rất dè chừng . Còn các nước Ả -rập chỉ quen với chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây , cho nên hồ hỡi chờ đón Liên xô . Bằng cách vựơt qua rào cản phía bắc và tiếp xúc trực tiếp với các nước Ả -rập mới độc lập , trong một thời gian ngắn , người Nga đã tạo dựng đựơc một vị trí rất vũng vàng .
Lúc đầu họ đi những bứơc cũng giống như những người Tây Âu tiền nhiệm - đặt căn cứ quân sự , cung cấp vũ khí , "hứơng dẫn" quân sự , rồi xâm nhập kinh tế và văn hoá . Nhưng với Liên xô , các mối quan hệ kiểu này chỉ mới là bứơc đầu , ý đồ của họ rõ ràng là càng tiến xa càng tốt. Không mấy nghi ngờ là , nếu không có sự chống đối của Mỹ , chiến tranh lạnh , và sau đó là sự sụp đổ của Liên xô , thì thế giơi Ả -rập trước sau gì rồi cũng rơi vào số phận của Balan và Hungari , chắc chắn hơn nữa sẽ là Uzbekistan. Nhưng không phải chỉ có thế . Trong khi cố đặt ách bảo hộ lên các đồng minh Trung đông , Liên xô lại tỏ ra không xứng với vai trò bảo hộ chút nào. Trong chiến tranh Israel-Ả -rập năm 1967 và sau đó năm 1973, họ đã không muốn hoặc không thể cứu người đựơc bảo trợ khỏi bị thất bại và nhục nhả . Tất cả cái mà họ làm được chỉ là cùng với Mỹ kêu gọi Israel ngừng tiến công.
Đến đầu thập niên 1970 , thì sự hiện diện của Liên xô không những không hữu hiệu mà lại còn gây lắm phiền toái. Giống như các đế quốc châu Âu đi trước , Liên xô xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên đất Aicập mà không người Aicập nào đựơc phép bén mảng đến và tiến sang giai đọan cổ điển mới là ký kết các hiệp ứơc bất bình đẳng .
Có một số lãnh đạo Trung đông thấm thía bài học và với ít nhiều miễn cưởng , quay sang phương Tây . Rõ nhất là Tổng thống Anwar Sadat của Ai cập , vốn từng thừa hưởng mối liên hệ với Liên xô từ người tiền nhiệm là Tổng thống Nasser. Vào tháng 5/1971, ông ta buộc phải ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác rất không bình đẳng với Liên xô ; đến tháng 7/1972 , ông ta ra lệnh buộc tất cả các cố vấn quân sự Liên xô phải rời Ai cập và bắt đầu tiếp cận với Mỹ và tìm kiếm hoà bình với Israel. Tuy nhiên , dừơng như Tổng thống Sadat hoàn toàn đơn độc khi đưa ra đường lối và chính sách như thế y , và nhìn chung thì những sự cố trên không làm sứt mẻ thiện chí của Liên xô cũng như tăng thêm thiện chí đối với Mỹ . Liên xô không hề sây sứt hoặc thậm chí không hề bị trách cứ gì vì hành động đàn áp Hồi giáo tại các cộng hoà Trung Á và vùng Caucasus , nơi có đến 50 triệu người theo đạo Hồi. Về mặt này , người Tàu cũng không bị tố cáo vì đã từng đàn áp người Hồi giáo tại Tân cương . Người Mỹ cũng không hề nhận đựơc bất cứ sự tri ân nào khi ra sức cứu người Hồi giáo tại Bosnia , Kosovo và tại Albania. Rõ ràng là ỏ đây có những chuẩn mực khác .
Có lẽ thí dụ minh hoạ sâu sắc nhất cho sự thiên lệch này là vụ Liên xô xâm lăng Afghanistan vào cúôi tháng chạp năm 1979 và dựng lên 1 chính phủ bù nhìn tại đây. Thật là khó mà tìm được 1 ví dụ nào rõ ràng , hiển nhiên hơn về sự xâm lăng , chinh phục và thống trị của đế quốc bằng trừơng hợp này. Tuy thế , hầu như không hề có phản ứng từ khối Ả -rập , và của thế giới Hồi giáo nói chung . Vào ngày 14 tháng giêng 1980 , sau nhiều lần trì hoãn , cuối cùng Đại hội đồng Liên hiệp quốc cũng thông qua 1 nghị quyết về biến cố này , không phải để tố cáo Liên xô xâm lăng nhưng” rất lấy làm tiếc về sự can thiệp bằng vũ lực tại Afghanistan". Ở đây không dùng từ"xâm lăng", cụm từ ” kẻ can thiệp"cũng không hề đựơc nhắc tới . Kết qủa bỏ phiếu biểu quyết là 104/ 18. Trong số những nước khối Ả -rập , Syria và Algeria bỏ phiếu trắng , nam Yemen bỏ phiếu chống , còn Lybia thì vắng mặt . PLO là quan sát viên , không có quyền bỏ phiếu nhưng lại đọc 1 diễn văn biện hộ mạnh mẽ cho hành động của Liên xô. Tổ chức Hội nghị Hồi giáo ( OIC) cũng không xử sự khá hơn. Ngày 27 tháng giêng, sau nhiều lần vận động và thương thuyết , OIC cũng tổ chức đựơc 1 cuộc họp tại Islamabad để thảo luận về vấn đề Liên xô-Afghanistan . 2 nước thành viên , Nam Yemen và Syria tẩy chay cuộc họp. Đại biểu của Libya công kích kịch liệt nước Mỹ , còn PLO , là thành viên chính thức của OIC , lại từ chối bỏ phiếu về nghị quyết chống Liên xô, thay vào đó , trình ra 1 văn bản bảo lưu .
Cũng có một vài đáp ứng từ thế giới Hồi giáo đối với sự xâm lăng của Liên xô- Saudi Arabia cho một ít tiền , Ai cập cho một ít khí giới , và nhiều quân tình nguyện Ả -rập. Nhưng chính Mỹ là nước đứng ra tổ chức mặt trận phản công của Hồi giáo chống lại chủ nghĩa đế quốc Liên xô tại Afghanistan có phần nào thành công . OIC giúp người Afghan không nhiều , muốn tập trung sức lực vào những vấn đề khác – hướng về một số cộng đồng Hồi giáo nhỏ tại các khu vực chưa thoát khỏi ách thực dân , và dĩ nhiên là bao gồm cuộc xung đột Israel-Palestin.
Israel là 1 trong số nhiều điểm ( gồm Nigeria, Sudan, Bosnia , Kosovo, Chechnya , tân cương , Kashmir , Timor , Mindanao , và v.v…) mà thế giới Hồi giáo và không- Hồi giáo gặp nhau . Mỗi nơi trong những điểm này là 1 chủ đề trung tâm cho những phe tham gia, và nhưng lại là lý do né tránh khó chịu cho nhóm khác . Ngược lại , phương Tây thường cố hết sức giải quyết những nổi bất bình của người này với cái giá là gây bất bình cho người khác . Cuộc xung đột Israel-Palestine chắc chắn là đã gây nhiều chú ý hơn bất cứ cuộc xung đột nào khác , vì nhiều lý do . Một là , vì Israel là 1 quốc gia dân chủ và là 1 xã hội cởi mở , cho nên sẽ dễ dàng hơn khi báo cáo – và báo cáo sai - về những gì xảy ra ở đó. Hai là , vì có liên quan đến người Do thái , cho nên điều này bảo đảm sẽ đựơc nhiều người nghe, trong số đó có người vì lý do này hay lý do khác ủng hộ hay là chống đối họ . Một ví dụ tiêu biểu cho sự khác biệt này là chiến tranh Iran-Iraq kéo dài 8 năm từ 1980 đến 1988. Cuộc chiến này đã gây ra nhiều thương vong và huỷ hoại nhiều hơn tất cả các trận chiến Israel- Ả -rập cọng lại nhưng lại không được mấy ai chú ý. Bởi vì 1 lý do là , cả Iraq lẫn Iran đều không có dân chủ , và có nhiều khó khăn và nguy hiểm hơn trong việc từơng trình . Mặt khác , do không liên quan đến người Do thái , với tư cách là nạn nhân hoặc kẻ thủ ác , cho nên không có gì thú vị khi tường thuật cả .
Lý do thứ 3 , chủ yếu quan trọng nhất khi đặt vấn đề Palestine lên hàng đầu là vì , cứ cho là thế , nổi bất bình được cho phép - nổi bất bình duy nhất được phát biểu tự do và an toàn tại những nước Hồi giáo nói trên , nơi mà báo chí chỉ do nhà nước làm chủ hoặc bị theo dõi gắt gao . Thật vậy , Israel là chỗ để trút mọi lời óan trách về sự thiếu thốn kinh tế và áp bức chính trị mà đại đa số người Hồi giáo hứng chịu , và được sử dụng như 1 phương tiện để làm chệch hứơng nổi căm giận đó . Phương pháp này rất có ích khi xảy ra trùng hợp với hòan cảnh nội tại của Israel , khi có bất cứ sự sai sót nào của chính phủ , quân đội , của người lập nghiệp hoặc bất cứ người nào bị phát hiện hoặc bất cứ sự dối trá nào tại Israel vừa bị bị bóc trần , từ phía người Do thái lẫn người Ả -rập , trên báo chí và nghị viện Israel. Đa số những nước thù nghịch với Israel đều không bị những khó khăn này trong quan hệ ngọai giao của họ .
Khi các đế quốc Tây Âu suy tàn , thì tính chống Mỹ tại vùng Trung đông lại đựơc gán cho những nguyên nhân khác , đặc thù hơn : sự bóc lột kinh tế thường đựơc mô tả như là sự cứơp bóc các tài nguyên của người Hồi giáo ; sự giúp đỡ cho các nhà độc tài thối nát địa phương phục vụ cho các mục tiêu của nước Mỹ khi áp bức và cứơp đọat tài sản của chính nhân dân mình , và còn nhiều , nhiều hơn nữa là 1 nguyên nhân khác : người Mỹ ủng hộ cho Israel , lúc đầu trong vụ xung đột của người Palestine gốc Ả -rập , sau đó là xung đột với các nước Ả -rập láng giềng và cuối cùng là thế giới Hồi giáo .Trên báo chí bằng tiếng Ả -rập và Ba tư chắc chắn có người ủng hộ giả thiết này , nhưng sẽ không phù hợp mấy nếu cho rằng không có những trở ngại này thì các chính sách của Mỹ tại Trung đông sẽ thuận lợi hơn . Vấn đề Palestine chắc chắn đang gây nổi căm giận ngày càng lớn , đôi khi đựơc hâm nóng và trở nên nghiêm trọng hơn vì các chính sách và hành động của chính phủ hoặc các đảng phái Israel . Nhưng thực sự đó có phải là lý do chính để gây nên tình cảm chống Mỹ , như một số người lập luận ?.
Lịch sử cứ diễn lại một số oái ăm . Vào những năm 1930 , các chính sách của Đức quốc xã là nguyên nhân khiến người Do thái di cư sang Palestine , lúc đó dứơi quyền ủy trị của Anh , và kết cuộc là làm tăng số dân Do thái ở đây . Bọn Quốc xã không những chỉ cho phép di cư , mà họ còn tạo thêm điều kiện thuận lợi cho đến khi chiến tranh nổ ra , còn người Anh , với hy vọng heo hắt là tranh thủ thiện chí của khối Ả -rập , đã đưa ra các biện pháp hạn chế di cư . Tuy nhiên , giới lãnh đạo Palestine thời ấy , cũng như các nhà lãnh đạo khối Ả -rập khác , lại ủng hộ người Đúc , vốn chủ trương tống người Do thái sang Palestine, chứ không phải là nước Anh , cố gắng không cho họ đến vùng này.
Cũng có thể thấy tình hình tréo cẳng ngỗng tương tự trong những biến cố dẫn đến sự thành lập nhà nước Israel vào năm 1948 và sau đó . Liên xô lúc ấy đã đóng 1 vai trò quan trọng khi vận động Đại hội đồng Liên hiệp quốc biểu quyết thành lập 1 nhà nước Israel tại Palestine và lập tức công nhận Israel về mặt pháp lý ( de jure) . Nước Mỹ thì lại dè dặt hơn và chỉ công nhận trên thực tế ( de facto ) .Quan trọng hơn nữa , là chính phủ Mỹ duy trì lệnh cấm vận một phần vũ khí cho Israel , trong khi đó , đựơc sự cho phép của Moscow, Tiệp khắc lập tức chuyển ngay một số lượng vũ khí để giúp cho nhà nước Israel non trẻ sống sót . Lý do vì sao Liên xô có chính sách như thế vào thời điểm đó không phải vì có thiện ý đối với người Do thái hoặc ác ý đối với người Ả -rập. Đó là do 1sự tin tưởng sai lầm- nhưng lúc ấy lại đựơc nhiều người chia xẻ - đó là nước Anh vẫn còn là 1 cường quốc phương tây , và như thế là kẻ cạnh tranh chính của Liên xô .Theo cách nhìn này , thì ai phá nhiễu người Anh - kiểu mà người Do thái đang làm trong những năm cuối cùng khi Anh thực hiện quyền ủy trị Palestine- đều đáng được Liên xô giúp đỡ . Sau này , Stalin nhận thấy mình đã sai cho nên đã chú tâm vào nước Mỹ thay vì nước Anh.
Trong thập kỷ sau , khi nhà nước Israel đựơc thành lập , việc đối xử của Mỹ với nhà nước Do thái vẫn còn hạn chế và dè chừng. Sau chiến tranh kênh đào Suez năm 1956 , người Mỹ đã can thiệp mạnh mẻ và quyết liệt để buộc các lực lượng Anh . Pháp , và Israel rút lui. Nhà lãnh đạo Liên xô lúc ấy là Khrushchev , khi cuộc chiến nổ ra vẫn còn im hơi thận trọng , cho rằng 1 tuyên cáo thân Arập cũng không dẫn đến đụng độ với Mỹ , và chỉ từ sau lần đó - mới mạnh dạn đứng về phía Ả -rập . Cho đến tận chiến tranh năm 1967 , Israel dựa vào kho vũ khí châu Âu cung cấp , chủ yếu do Pháp , chứ không phải của Mỹ.
Tuy thế , chủ nghĩa đế quốc Nga , giờ đây dưới hình thức Liên xô , quay lại đóng 1 vai trò tích cực hơn đối với tình hình Trung đông đã mang đến 1 đáp ứng cuồng nhiệt trong thế giới Ả -rập . Sau vài lần thăm viếng ngọai giao cùng với các họat động khác , một mối quan hệ mới đựơc chính thức tuyên bố vào cuối tháng 9/1955 , là 1 thỏa hiệp về vũ khí được ký kết giữa Liên xô và Ai cập , là nước càng ngày càng lộ rõ là 1 chư hầu của Liên xô . Thậm chí hiệp định vũ khí đã tạo ra một sự chào đón hồ hỡi còn ấn tượng hơn là chính bản thân nó trong thế giới Ả -rập , vượt qua mọi sự khác biệt và bất bình tại địa phương . Hạ nghị viện các nước Syria . Liban , và Jordan họp ngay và đưa ra nghị quyết chúc mừng Thủ tứơng Nasser thời đó , ngay cà Nuri Said , là nhà lãnh đạo thân phương Tây của Iraq , dù đang tranh giành với Nasser chiếc ghế lãnh đạo phong trào toàn - Ả -rập , cũng buộc phải chúc mừng người đồng sự Aicập . Hầu như toàn bộ giới báo chí tiếng Ả -rập đều nhất loạt tán thành .
Tại sao lại có phản ứng này ? Chắc chắn là người Ả -rập chẳng yêu thương gì nước Nga, cũng như tín đồ đạo Hồi trong và ngoài thế giới Ả -rập lại muốn đem chủ nghĩa Cọng sản hoặc sức mạnh của Liên xô vào nước mình . Đó cũng chẳng phải là phần thưởng cho chính sách đối với Israel của Moscow , là chính sách khá thân thiện . Cái làm cho người Ả -rập hồ hỡi là họ coi thỏa hiệp về vũ khí - chắc chắn là đúng như thế - là 1 cái tát vào mặt phương tây . Cái tát này , và hình ảnh phương Tây bị rối tung thấy rõ và nhất là phản ứng của Mỹ , đã củng cố thêm cái tâm trạng thù hận và khinh bỉ đối với phương Tây và cổ vũ cho người có tâm trạng đó.
Do ảnh hưởng của Liên xô mở rộng tại Trung đông và thái độ hồ hởi chào đón của vùng này khiến cho người Mỹ có thiện cảm hơn với Israel , giờ đây đựơc coi như là 1 đồng minh tin cậy và là 1 đồng minh có ích lâu dài tại 1 vùng đất đầy thù nghịch . Ngày nay , ít ai còn nhớ rằng mối quan hệ chiến lược giữa Mỹ và Israel chỉ là hậu quả , chứ không phải là nguyên nhân của sự xâm nhập của Liên xô .
Đương nhiên điều quan tâm đầu tiên của bất cứ chính phủ Mỹ nào cũng là xác định quyền lợi của Mỹ và đề ra chính sách để bảo vệ và đẩy mạnh các lợi ích đó. Trong thời gian sau thế chiến thứ 2 , chính sách của Mỹ tại Trung đông , cũng như tại các nơi khác , chỉ nhấn mạnh yêu cầu làm sao ngăn chận đựơc sự xâm nhập của Liên xô . Đáng tiếc là nước Mỹ đã từ bỏ ưu thế về đạo đức của kẻ đứng ngoài cuộc và nhảy vào sân khấu : đầu tiên là ủng hộ vị trí đang rệu rã của người Anh , rồi sau đó , khi đã rõ là không thể nào giữ vị trí này vững được , lại tham gia một cách trực tiếp hơn và cuối cùng là thay thế người Anh để bảo vệ vùng Trung đông khỏi bị bên ngoài tấn công , nhất là từ Liên xô.
Nhu cầu hậu chiến ngay sau đó là chống trả lại áp lực của Liên xô ở rìa phía bắc - bảo đảm để Liên xô rút ra khỏi vùng Azerbaijan thuộc Iran và từ bỏ yêu sách đối với Thổ nhĩ kỳ . Chính sách này rõ ràng và có thể hiểu được và , nói chung , đã thành công trong việc cứu Iran và Thổ nhĩ kỳ . Nhưng khi thử mở rộng sang thế giới Ả -rập qua hiệp ứơc Baghdah , quả tình đã bị trở quẻ một cách tai hại vì đã đối đầu hoặc làm giảm uy tín những kẻ mà nước Mỹ muốn lôi cuốn . Nhà lãnh đạo Ai cập , Gamal’ Abd al- Nasser , nhận thấy hiệp ứơc trên đe dọa đến quyền lãnh đạo của mình , nên đã quay sang phía Liên xô . Chế độ thân phương tây tại Iraq bị lật đổ , các chế độ thân thiện khác tại Liban và Jordan lâm vào tình cảnh nguy hiểm đến mức phải cầu viện phương tây giúp đỡ bằng quân sự mới cầm cự được . Từ năm 1955 , khi Liên xô nhảy vượt từ biên giới phía bắc vào thế giới Ả -rập , thì cả sự đe dọa lẫn phương tiện để chống lại sự đe dọa này đã thay đổi một cách triệt để . Trong khi rìa phía băc vẫn còn giữ vững , thì vùng đất Ả -rập lại trở thành thù nghịch , hoặc ít nhất cũng giữ thế trung lập một cách áy náy . Trong tình thế này , mối quan hệ của Mỹ đối với Israel bứơc vào 1 giai đọan mới .
Mối quan hệ này đã định hình từ lâu dựa trên 2 sự cân nhắc hòan tòan khác nhau : cái thứ nhất dựa trên ý thức hệ hoặc tình cảm , cái kia là vị trí chiến lược . Người Mỹ , được nhồi nhét Kinh thánh và lịch sử nước họ , dễ dàng nhận thấy sự ra đời của nhà nước Israel hiện đại là 1 đợt di dân ( Exodus) mới quay về vùng đất hứa , và cũng dễ cảm tình vói những người dừơng như lập lại cái kinh nghiệm đi sang Mỹ lập nghiệp của cha ông họ , những người đi khai phá và những người kế tục . Còn người Ả -rập , dĩ nhiên không hề nhìn theo cách này , và nhiều nước châu Âu cũng chia sẻ quan niệm này .
Mối gắn kết khác giữa Mỹ và Israel là mối liên hệ chiến lược , khởi đầu từ những năm 1960 , đã nẩy nổ mạnh trong những năm 1970 và 1980 , chao đảo trong thập niên 1990 và trở nên quan trọng khi nước Mỹ cùng lúc đối diện với sự đe dọa do tham vọng bá quyền của Saddam Hussein và sự khủng bố của bọn al-Qa’ida chính thống , và từ những nỗi bất bình trong số các đồng minh của Mỹ vốn đã có từ lâu , nay lại tăng thêm . Vai trò lợi thế chiến lựơc của Israel đối với Mỹ đã gây nhiều tranh cải . Có một số người ở Mỹ coi Israel là 1 đồng minh chiến lược chính trong khu vực và là 1 thành lũy tin cậy chống lại kẻ thù trong và ngoài khu vực . Những người khác lý luận rằng Isreal còn lâu mới là 1 lợi điểm chiến lược , chỉ là cái của nợ chiến lược , bỏi vì nó làm rạn nứt mối quan hệ của Mỹ đối với thế giới Ả -rập và là nguyên do làm cho các chính sách của Mỹ trong khu vực thất bại.
Nhưng nếu ta so sánh hồ sơ của chính sách Mỹ tại vùng Trung đông với các vùng khác , ta sẽ ngạc nhiên vì đó không phải là thất bại mà lại là thành công . Nói cho cùng , không hề có Việt nam tại Trung đông , không có Cuba hoặc Nicaragua hoặc El Salvador , thậm chí không có Angola nữa . Ngựơc lại , qua suốt một lọat các khủng hỏang liên tiếp làm rung chuyển cả khu vực , luôn luôn vẫn còn sự hiện diện đường bệ của nước Mỹ trên các mặt chính trị , kinh tế và văn hóa tại nhiều quốc gia trong khu vực - cho đến khi chiến tranh vùng Vịnh xảy ra năm 1991 , mà không cần đến bất cứ sự can thiệp quân sự đáng kể nào .Và thậm chí cho đến lúc đó , sự hiện diện của Mỹ là để giải cứu những nạn nhân của 1 sự xâm lăng giữa 2 nước Ả -rập , không hề có liên quan gì đến người Israel hoặc Palestine. Những ai chỉ chăm chú vào miền Trung đông luôn luôn xoi mói đến những khó khăn và thất bại của chính sách Mỹ tại khu vực này , nhưng nếu ta nhìn rộng hơn , ta sẽ lấy làm ngạc nhiên về hiệu qủa của chính sách Mỹ tại vùng này trái ngược hẵn với chính sách tại Đông nam Á , Trung Mỹ hoặc tại Đông Phi .
Từ khi Liên xô sụp đổ , một chính sách Mỹ mới xuất hiện tại Trung đông , liên quan đến nhiều mục tiêu khác nhau . Mục đích chính của chính sách này là ngăn ngừa sự hình thành 1 bá quyền khu vực - tức là 1 cường quốc duy nhất trong vùng có khả năng thống trị khu vực và tiến đến việc kiểm sóat độc quyền dầu mỏ khu vực này .Đây là mối quan tâm cơ bản của các chính sách kế tiếp nhau của Mỹ đối với Iran , Iraq , hoặc đối với bất cứ nước nào đựơc cảm nhận là mối đe dọa tương lai trong khu vực .
Cho tới nay chính sách được chấp nhận , nhằm ngăn chận 1 bá quyền như thế, là khuyến khích , cung cấp vũ khí , và khi cần thiết sẽ hỗ trọ cho 1 hiệp ứơc an ninh khu vực , chủ yếu là các nước Ả -rập. Chính sách này đương nhiên là sẽ làm sống lại quá khứ không có gì vui của những toan tính trước kia , quả là lợi bất cập hại . Lần này , hiệp ứơc đựơc đề ra có phần gặp may mắn hơn. Kẻ thù giả định không còn là Liên xô đáng sợ , và các kẻ thù trong khu vực lại có nhận định tỉnh táo hơn về tình hình thế giới và vị trí của mình . Nhưng một hiệp ước như thế , dựa trên các chế độ bấp bênh , cai trị những xã hội dễ thay đổi , rõ ràng là liều lĩnh bởi vì theo lẽ thường mắc xích yếu nhất sẽ quyết định độ mạnh của dây xích . Lịch sử Iraq mới đây đã cho thấy rõ ràng vì sao một chính sách như thế có thể mắc sai lầm . Khi tích cực ủng hộ vua Shah , Mỹ đã đưa ông ta đến chỗ bị lật đổ ; khi chăm sóc Saddam Hussein , Mỹ đã nuôi dưỡng 1 con quái vật . Thật là dễ dàng một cách tai hại khi lập lại một hoặc cả 2 sai lầm trên , gây nguy hiểm cho các lợi ích của phương tây trong khu vực và đem lại những hậu quả khủng khiếp cho nhân dân sống trong vùng đó .
Trong khung cảnh này , cũng dễ hiểu khi thấy thiện chí của một số chính phủ Ả -rập muốn thương thuyết hòa bình với Israel , và người Mỹ muốn đẩy mạnh tiến trình hòa bình . Nhiều nước Ả -rập bắt đầu nhận ra rằng , dựa trên điểm mạnh và điểm yếu của Israel , Israel không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với họ , cũng không phải là mối đe dọa lớn nhất mà họ phải đối đầu . Một nước Israel gây chiến với láng giềng sẽ là 1 mối nguy hiểm thường xuyên , là 1 cách đánh lạc hứơng mà 1 Saddam Hussein mới - thậm chí cũ cũng được - bao giờ cũng có thể dùng tới . Nhưng 1 Israel hòa bình với láng giềng ,ít nhất , cũng có thể đóng vai trò 1 yếu tố ổn định dân chủ trong vùng .
Nói chung , có 2 kiểu liên minh hòan tòan khác nhau . Một kiểu là chiến lược và có thể chỉ là hòan tòan hòa hõan tạm thời dựa trên cơ sở cảm nhận có chung những mối đe dọa . Một sự hòa hõan như thế có thể đạt đựơc với bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng đựơc - không cần quan tâm đến cách điều hành chính phủ , mô hình xã hội mà ông ta cai trị . Phía đối tác của một liên minh như vậy có thể thay đổi ý kiến bất cứ lúc nào , hoặc thay ngựa giữa dòng nếu ông ta bị lật đổ hoặc bị thay thế . Như thế , liên minh này có thể chấm dứt khi thay đổi chế độ , thay đổi lãnh đạo , hoặc thậm chí thay đổi tầm nhìn .Các biến cố tại Lybia , Iraq , Iran và Sudan sẽ làm rõ ý này khi chính trị thay đổi thì chính sách bị đảo ngược hòan tòan , hoặc theo chiều hứơng khác như tại Ai cập , dù không thay đổi chế độ , các nhà lãnh đạo cũng có thể chuyển hứơng từ phương Tây sang Liên xô và sau đó quay về hàng ngũ phương Tây.
Phía Mỹ cũng có tính uyển chuyễn tương tự . Vì lọai đồng minh như vậy có thể bỏ rơi Mỹ bất cứ lúc nào , Mỹ rõ ràng là cũng thấy thỏai mái khi bỏ rơi những đồng minh như thế , nếu việc liên minh tỏ ra quá phiền phức hoặc không còn hiệu qủa kinh tế nữa- lấy ví dụ, trừơng hợp của Việt nam , Kurdistan và Liban . Người ta có thể bỏ rơi 1 đồng minh chỉ vỏn vẹn đóng vai trò hòa hõan chiến lược , mà không hề tỏ ra ân hận hoặc lo lắng vì bị chỉ trích mạnh mẽ trong nước .
Kiểu liên minh còn lại đặt cơ sở trên sự tương đồng về định chế , nguyện vọng , và lối sống - kiểu này khó thay đổi . Liên xô vào thời điểm vàng son ý thức rõ điều này và đã cố gắng tạo dựng các chế độ độc tài cọng sản tại những nơi họ có mặt . Các chế độ dân chủ tạo ra khó khăn hơn . Và cũng khó phá hủy hơn.
Từ quân Thập tự chinh đến quân Đế quốc chủ nghĩa
Các cuộc Thập tự chinh hiển hiện rất rõ trong tâm thức và ngôn từ vùng Trng đông hiện đại , đối với cả những người theo chủ nghĩa quốc gia Ả -rập và tín đồ chính thống Hồi giáo , nhất là Usama bin Ladin . Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy .
Việc các chiến binh Thập tự chinh chiếm đóng Jerusalem vào năm 1099 CE là 1 chiến thắng của đạo Cơ đốc , nhưng lại là 1 tai họa cho người Hồi giáo và cho cả người Do thái sống trong thành phố . Căn cứ theo tài liệu lịch sử thời kỳ này , thì việc chiếm đóng này không được quan tâm mấy trong khu vực . Những lời kêu cứu cầu viện của dân Hồi giáo bản địa không đựơc Damascus và Baghdad trả lời , và các lãnh địa mới do Thập tự chinh thành lập chẳng bao lâu lại chui vào cuộc đỏ đen chính trị của vùng đất mặt trời mọc ( Levantine ) , gồm các liên minh giữa các tôn giáo để giải quyết những tranh giành quyền lực giữa các ông hoàng đạo Hồi và Cơ đốc .
Cuộc chiến tranh chống Thập tự chinh cuối cùng đánh bại và đuổi được quân Thập tự chỉ xảy ra sau đó 1 thế kỷ . Nguyên do trực tiếp là các hoạt động cứơp bóc tràn lan của 1 lãnh tụ quân Thập tự , Reynald od Châtillon , người vây hãm pháo đài Kerak , hiện nay là nam Jordan , trong thời gian từ 1176 và 1187 CF , và từ đó tung ra 1 loạt các cuộc tấn công vào các thương đoàn Hồi giáo tại các vùng phụ cận , kể cả Hijaz . Các sử gia chuyên về Thập tự chinh có lẽ đã đúng khi nói rằng động cơ của Reynald chủ yếu là kinh tế , nói cách khác , là ý đồ cướp bóc. Nhưng người đạo Hồi lại cho rằng những chiến dịch của ông ta có tính khiêu khích và thách thức nhằm tấn công các vùng đất thánh của đạo Hồi . Vào năm 1182 , bằng cách vi phạm cam kết giữa vua của quân Thập tự tại Jerusalem và vua Hồi giáo là Saladin , Reynald đã tấn công và đánh cướp các thương đoàn Hồi giáo , kể cả 1 đoàn hành hương đi Mecca. Lại càng xấc xược hơn theo quan điểm đạo Hồi , khi ông ta đe doạ Arabia , nhất là cuộc hành quân cứơp bóc tại Biển Đỏ , khi tấn công vào các thuyền bè Hồi giáo và tại các cảng Hijaz phục vụ cho Medina và Mecca . Chính do những biến cố này dẫn tới việc Saladin đích thân tuyên bố Jihad chống lại quân Thập tự chinh – đây là một minh chứng hùng hồn về vai trò trung tâm của bán đảo Arabia trong nhận thức của người theo đạo Hồi .
Những chiến thằng do Saladin đạt được và sau đó chiếm lại đựơc Jerusalem từ quân Thập tự chinh năm 1187 từ đó cho đến ngày nay luôn là nguồn hứng khởi đối với các nhà lãnh đạo Ả -rập. Saddam Hussein thường nhắc đến 2 nhà lãnh đạo xa xưa trong lịch sử Iraq mà ông ta coi như người đi trước làm gương cho mình- đó là Saladin đã chấm dứt được mối đe đọa phương tây thời đó khi đánh bại và hất cẳng quân Thập tự , và Nebuchadnezzar , người đã giải quyết chóng vánh và dứt điểm các vấn đề thuộc chủ nghĩa Zion . Vào ngày 8 tháng 10 năm 2002 , thủ tướng Pháp , Jean-Pierre Raffarin , trong 1 diễn văn tại Quốc hội Pháp , đã cho biết bằng cách nào mà Saladin "có thể đánh bại đựơc quân Thập tự và giải phóng Jerusalem". Việc sử dụng từ"giải phóng"một cách thú vị này của 1 Thủ tứơng Pháp để mô tả việc Saladin chiếm đựơc Jerusalem từ quân Thập tự có thể coi như là sự phản ánh tình trạng dàn trận hiện nay , hoặc nói cách khác , đó là 1 trừơng hợp ăn nói đúng về mặt chính trị một cách quá đáng . Ở những nước khác thì cách xếp đặt này có thể coi như là do dốt nát về lịch sử , nhưng đối với nước Pháp , điều này chắc chắn là không phải như thế .
Ngay cả tại châu Âu Cơ đốc giáo , Saladin cũng đựơc tán dương và ca tụng vì đã đối xử rộng rãi và hào hiệp đối với các kẻ thù bại trận . Tuy nhiên , Roger of Chatillon không được hưởng sự rộng rại này . Sử gia Ả -rập vĩ đại Ibn al-Athir đã giải thích tình huống này như sau:"Saladin nói , ta đã 2 lần thề sẽ giết hắn nếu tận tay bắt đựơc ; một lần khi hắn cả gan dẫn quân đến Mecca và Medina , và khi hắn đã quỉ quyệt tấn công thương đoàn trên đường đi đến Hijaz” . Sau chiến thắng vẻ vang , Saladin cho thả các ông hòang và tù truởng tham gia Thập tự chinh bị bắt , nhưng tách riêng Roger of Chatillon ra rồi tự tay Saladin giết và cắt đầu Roger.
Sau khi jihad thành công và chiếm lại Jerusalem , Saladin và các người kế tục dường như không còn quan tâm đến thành phố này nữa , và vào năm 1229 , họ nhường Jerusalem cho Hòang đế Frederick III cắn cứ theo cam kết thỏa thuận giữa nhà lãnh đạo Hồi giáo và các Thập tự binh. Thành phố này bị tái chiếm vào năm 1244 , khi các Thập tự binh cố biến đổi thành 1 thành phố hòan tòan Cơ đốc . Sau một thời gian dài ít được nhắc tới , đến thế kỷ 19 mới khơi dậy mối quan tâm về thành phố . trước tiên là những tranh chấp giữa các cuừơng quốc châu Âu về việc cai quản các nơi thiêng liêng của đạo Cơ đốc và sau đó là các đợt di dân Do thái mới .
Chính trong giai đoạn này , người Hồi giáo bắt đầu quan tâm đến những đợt Thập tự chinh , mà lúc mới xảy ra quả tình ít được lưu ý . Sử Ả -rập chép đầy đủ và phong phú về các chiến binh Thập tự , lúc họ đến , những chiến trận và các quốc gia mà họ thành lập nhưng lại không nêu được bản chất và mục đích cuộc phiêu lưu của những chiến binh này . Những từ ngữ Thập tự chinh và quân Thập tự thậm chí không hề có trong lịch sử Ả -rập vào thời ấy , mà bản thân các Thập tự quân chỉ được coi là những kẻ vô đạo , người Cơ đốc , hoặc thường gặp hơn , người Frank , là 1 từ chung cho người Châu Âu Cơ đốc - và sau này còn có Tin lành - theo Thiên chúa giáo , để phân biệt với những tín đồ Chính thống giáo và các đồng đạo phương đông của họ . Sự nhận biết các đợt Thập tự chinh như là một hiện tượng lịch sử riêng biệt chỉ mới có từ thế kỷ 19 và qua các bản dịch sách vở châu Âu về lịch sử . Kể từ đó , các đợt Thập tự chính đựơc ghi nhận như là hình mẫu sơ khai của sự bành trứơng chủ nghĩa đế quốc châu Âu vào thế giới Hồi giáo . Nếu mô tả chính xác hơn thì các đợt Thập tự chinh này chỉ là 1 sự chống trả lại jihad kéo dài nhiều năm , rất hạn hẹp và cuối cùng không đạt hiệu qủa gì . Các đợt Thập tự chinh kết thúc bằng thại , và sau đó tại các nước Hồi giáo chẳng còn mấy ai nhớ đến , nhưng các nổ lực của châu Âu gần đây nhằm chống trả và đảo ngược sự tiến công Hồi giáo vào lãnh thổ Cơ đốc giáo lại thành công nhiều hơn và mở đầu cho một loạt những thất bại đau đớn tại các vùng biên giới thế giới Hồi giáo .
Dưới sự cai trị của các Caliph Ả -rập thời trung cổ và một lần nữa , dứơi các triều đại Ba tư và Thổ nhĩ kỳ , đế quốc Hồi giáo là 1 vùng giàu có nhất , hùng mạnh nhất , sáng tạo nhất và khai sáng nhất trên thế giới , và trong súôt thời Trung cổ , thế giới Cơ đốc luôn luôn ở thế thủ . Vào thế kỷ 15 , người Cơ đốc mở rộng các cuộc phản công . Người Tatars bị hất ra khỏi nước Nga , người Moors ra khỏi nước Tây ban nha . Nhưng tại vùng đông nam châu Âu , nơi các sultan Ottoman đối đầu trước tiên với hoàng đế Byzantine và sau đó là Hoàng đế Lamã thần thánh , thế lực Hồi giáo còn thắng thế và các phản công nói ở trên chỉ là những bứơc lùi ở ngoài rìa và không đáng kể . Cho đến thế kỷ 17 , các pasha Thổ vẫn còn cai trị Budapest và Belgrade , quân đội Thổ còn đang bao vây Vienna , và bọn cứơp biển vẫn còn tấn công thuyền bè và các bờ biển đến tận nước Anh , Ái nhĩ lan và đôi khi , đến tận Madeira và Băng đảo . Bọn cướp biển này nhận đựơc nhiều sự giúp đỡ của người Âu , những người vì lý do này hay lý do khác , đã định cư tại Bắc Phi và chỉ cho họ cách đóng , lèo lái những con tàu vượt đại dương ở biển Bắc và thậm chí ở Đại tây dương . Giai đoạnnày kéo dài không lâu .
Thếrồi có sự thay đổi lớn . Lần bao vây thứ 2 thành Vienna của người Thổ , vào năm 1683 , đã thất bại hoàn toàn , dẫn đến 1 cuộc thoái lui thiếu suy nghĩ - một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với quân đội Ottoman . Sự thất bại này , lại xảy ra cho chính 1 thế lực quân sự hùng mạnh trong thế giới Hồi giáo , đã làm phát sinh một cuộc tranh luận mới , mà trongmột nghĩa nào đó cho đến bấy giờ vẫn còn tiếp tục. Bắt đầu trong tầng lớp ưu tú về quân sự , chính trị và sau đó là trí thức Ottoman tranh luận về 2 vấn đề : Tại sao những đội quân Ottoman bách thắng lại bị kẻ địch Cơ đốc đáng khinh kia đánh bại tan tác ? Và làm cách nào phục hồi được vị thế thống trị trước kia ?. Cólúc cuộc tranh luận đi từ tầng lớp ưu tú sang các thành phần khác , từ nước Thổ sang nhiều nước khác và các chủ đề càng lúc càng mở rộng .
Có nhiều lý do để lo ngại. Bị thất bại liên tiếp , trong khi đó các lực lượng châu Âu Cơ đốc , sau khi giải phóng đất đai của họ , lại tiếp tục truy đuổi những kẻ xâm lược trước kia cho đến tận nơi xuất phát ở châu Á và châu Phi . Ngay cả những nước nhỏ như Hoà lan và Bồ đào nha cũng tạo dựng được những đế quốc rộng lớn tại phương Đông và đóng vai trò nổi trội trong buôn bán . Vào năm 1593, Selaniki Mustafa Efendi , một viên chức Ottoman giữ nhiệm vụ ghi chép các biến cố xảy ra , ghi lại hình ảnh đến Istanbul của viên đại sứ nước Anh . Viên chức này không chú ý nhiều đến viên đại sứ , nhưng lại rất kinh ngạc khi nhìn thấy chiếc tàu chở viên đại sứ đến . Ông ta viết :" Một con tàu chưa thấy bao giờ cập bến Istanbul . Nó đã vựơt 3700 dặm trên biển và ngoài các khí giới khác , còn mang 83 khẩu súng lớn … Đúng là 1 kỳ quan của thời đại , chưa bao giờ thấy hoặc ghi nhận một chiếc nào tương tự .” Một sự ngạc nhiên khác đó là đấng quân vương đã gởi sứ giả đến"Người cCai trị đảo quốc Anh là 1 phụ nữ được thừa kế vương quyền … có đầy đủ quyền lực".
Một chi tiết kỷ hơn , không được nhà chépsử Ottoman nhắc đến , cũng có đối phần quan trọng . Vị Đại sứ nước Anh đang nói ở đây quả thật đựơc Nữ hoàng Elizabeth chính thức bổ nhiệm , nhưng lại không do chính quyền nước Anh mà do 1 công ty thương mãi tuyển chọn và trả lương – là 1 sự sắp xếp có ích vào thời điểm mà sự quan tâm chính của thế giới phương Tây đối với vùng Trung đông chỉ là việc kinh doanh . Thật vậy , chính sự mở mang kinh tế và kỹ thuật đầy sáng tạo và nhanh chóng của phương Tây - nào là các nhà máy , tàu chở hàng vượt đại dương , công ty cổ phần- đã mở màn cho 1 thời đại mới . Các con tàu châu Âu , được đóng để vựơt Đại tây dương , dĩ nhiên sẽ vượt hẳn những con tàu chỉ quanh quẩn trong vùng Địa trung hải , Biển Đỏ , và biển Ấn độ , trong chiến ranh và trong thương mại , và thương mại lại được củng cố thêm nhờ 2 thói quen của người phương tây – đó là hợp tác và cạnh tranh. Vào thế kỷ 18 , những sản phẩm truyền thống của vùng Trung đông như càphê và đường lại đựơc trồng tại các thuộc địa mới của phương Tây tại châu Á và châu Mỹ và được các lái buôn và công ty châu Âu đem xuất khẩu sang Trung đông . Ngay cả các khách hành hương Hồi giáo đi từ Đông nam Á và Nam Á sang những đô thị thần thánh tại bán đảo Ả -rập đôi khi cũng nhờ đến tàu châu Âu , bởi vì nhanh hơn , rẻ hơn , an toàn hơn và tiện nghi hơn .
Đối với phần với các sử gia Trung đông cũng như Tây phương , thì thời điểm khởi đầu theo qui ứơc của lịch sử hiện đại tại vùng Trung đông bắt đầu từ năm 1798 , khi cách mạng Pháp , qua hình ảnh của 1 viên tứơng trẻ tên là Napoleon Bonaparte đổ bộ lên đất Ai cập . Chỉ trong 1 thời gian khá ngắn , tứơng Bonaparte và đạo quân viễn chính nhỏ bé của mình đã chinh phục , chiếm đóng và cai trị đất nước này . Trước khi việc này xảy ra , đã từng có những đợt tấn công , thoái lui và mất mát đất đai tại những vùng biên thuỳ xa xôi , nơi người Thổ và người Ba tư đối đầu với nước Áo và nước Nga . Nhưng khi 1 lực lượng phương Tây nhỏ bé tấn công 1 trong những vùng trọng tâm của đạo Hồi quả là 1 cú sốc nặng nề . Sự tháo lui của quân Pháp , trong chừng mực thậm chí lại là 1 cú sốc lớn hơn . Quân Pháp bị buộc phải rời Ai cập không phải do người Ai cập , cũng không phải do người Thổ , nhưng lại do một đội quân nhỏ thuộc hải quân Hoàng gia Anh , dưới sự chỉ huy của 1 đô đốc trẻ tên là Horatio Nelson .Đây là một bài học cay đắng mà người Hồi giáo phải học : không những 1 cường quốc châu Âu có thể đến , xâm lăng , cai trị tuỳ ý rồi chỉ có 1 cường quốc chấu Âu mới đẩy họ đi mà thôi .
Chủ nghĩa đế quốc là 1 chủ đề đặc biệt quan trọng đối với Trung đông và đặc biệt hơn , là Hồi giáo chống lại phương Tây . Đối với họ , từ chủ nghĩa đế quốc có 1 ý nghĩa quan trọng . Lấy 1 ví dụ , người Hồi giáo không bao giờ dùng từ này để chỉ các đế quốc Hồi giáo - đế quốc đầu tiên do người Ả -rập dựng nên , những đế quốc sau do người Thổ , những người chinh phục nhiều vùng đất và dân cư rộng lớn , đem sáp nhập vào Nhà Hồi giáo . Theo người Hồi giáo thì thật là hoàn toàn chính đáng khi chinh phục và cai trị châu Âu và người Âu và như thế là giúp cho họ - nhưng không phải bó buộc - tiếp thu đức tin chân chính . Còn ngược lại là 1 trọng tội và là tội ác khi người Âu chinh phục và cai trị người theo đạo Hồi , và tệ hơn nữa là đưa họ vào con đường lầm lạc . Theo nhận thức Hồi giáo , thì sự trở lại đạo Hồi là 1 điều ích lợi cho người đựơc cải đạo và là 1 công đức đối với người giúp họ cải đạo . Theo luật Hồi giáo , từ đạo Hồi chuyển sang 1 đạo khác là phản đạo - đây là 1 tội vô cùng nghiêm trọng cho cả người bị lầm lạc và người làm cho người kia lầm lạc . Về vấn đề này , luật rất rõ ràng và dứt khoát . Nếu 1 người Hồi giáo từ bỏ đạo Hồi , ngay cả đối với một kẻ tân tòng quay trở lại đạo cũ , hình phạt là tội chết . Trong thời đại ngày nay , quan niệm và thực hiện takfir , tức là nhận biết và tố cáo hành vi phản đạo đã đựơc mở rộng rất nhiều . Không phải là hiếm khi các nhóm cực đoan và chính thống cho rằng rằng một số chính sách , hành động hoặc thậm chí chỉ là ý kiến của người rao giảng đạo Hồi cũng được coi là hành vi phản đạo , và án cho kẻ phạm tội là tử hình .Đây là nguyên tắc đựơc nêu trong fatwa đối với Salman Rushdie , việc ám sát Tổng thống Sadat và nhiều người khác .
Các hoạt động của người Âu tại các nước Hồi giáo trải qua nhiều giai đoạn . Giai đoạn đầu là sự bành trứơng thương mại và , theo cách nhìn của người đạo Hồi , đã bóc lột họ và đất nước của họ , trên 2 mặt thương trừơng cũng như nguồn nguyên liệu .Sau đó là những đợt xâm lăng và chinh phục bằng vũ lực , nhờ đó mà các cường quốc châu Âu mới xây dựng đựơc sự thống trị trên nhiều vùng đất quan trọng thuộc thế giới Hồi giáo- người Nga tại vùng Caucasus và vùng Transcaucasus và sau đó là vùng Trung Á ; người Anh tại Ấn độ , người Anh và người Hoà lan tại Malaysia và Indonesia , và giai đoạn chót là người Pháp và người Anh tại vùng Trung đông và Bắc phi. Tại những nơi này chủ nghĩa đế quốc đã cai trị trong nhiều thời kỳ dài ngắn khác nhau - tại một sô nơi trong hàng thế kỷ như tại Đông nam Á và Ấn độ ; ở nơi khác , như tại vùng đất người Ả -rập tại Trung đông , chỉ trong một thời gian tương đối ngắn.
Trong mỗi trừơng hợp , chủ nghĩa đế quốc đều để lại dấu ấn . Trong thế giới Ả -rập , thời kỳ cai trị của đế quốc Anh Pháp bắt đầu bằng sự đô hộ của người Pháp tại Algeria ( 1830) , người Anh tại Aden ( 1839 ) , tiếp tục với sự chiến đóng của người Anh tại Aicập ( 1882) , người Pháp mở rộng kiểm soát tại Tunisia ( 1881) và Morocco ( 1911) và ảnh hưởng của người Anh tại vùng vịnh Ba tư và cúôi cùng là sự phân chia các tỉnh thuộc đế quốc Ottoman Ả -rập tại vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu giữa 2 đế quốc Tây Âu chính . Lần này các lãnh thổ mới bị chiếm đóng không những chỉ sáp nhập đơn thuần , theo kiểu truyền thống , thành các thuộc địa hoặc vùng lệ thuộc . Các lãnh thổ này đựơc Hội quốc liên giao cho Anh và Pháp cai trị với nhiệm vụ rõ ràng là giúp cho họ tiến đến độc lập . Giai đoạn này rất ngắn , từ sau thế chiến thứ 1 đến sau thế chiến thứ 2 , khi quyền uỷ trị chấm dứt và các lãnh thổ bị ủy trị dành độc lập . Phần lớn bán đảo Ả -rập vẫn nằm ngoài tầm của đế quốc .
Tuy nhiên , tác động của chủ nghĩa đế quốc được coi là rất lớn , và dưới mắt của số đông dân cư trong khu vực , quả là cực kỳ độc hại . Tác động và sự thiệt hại chắc chắn là rất đáng kể , nhưng có lẽ ít đựơc quan tâm và không có tầm vóc như là các huyền thọai liên quan đến chủ nghĩa quốc từng được rêu rao . Dù sao thì chủ nghĩa đế quốc cũng đem lại một số lợi lộc – xây dựng hạ tầng , các dịch vụ công cọng , hệ thống giáo dục , cũng như một số thay đổi xã hội , nhất là sự xóa bỏ chế độ nô lệ và sự giảm bớt đáng kể tình trạng đa thê , tuy không lọai bỏ đựơc hòan tòan . Sự tương phản có thể nhận thấy rất rõ khi so sánh tình hình giữa những nước từng bị đế quốc đô hộ , như Ai cập và Algeria , với những nước vẫn còn giữ được độc lập , như Arabia và Afghanistan . Tại Arabia , các trừơng đại học hình thành muộn và cũng không nhiều . Hiện nay , với 1 dân số ứơc tính 21 triệu , chỉ có 8 trường đại học - tức là chỉ nhiều hơn 1 so với 7 cơ sở giáo dục đại học đựơc thành lập tại Palestine kể từ khi vùng đất này bị Israel chiếm đóng năm 1967 . Chế độ nô lệ đến năm 1962 mới được luật pháp bãi bỏ tại Arabia Saudi , và sự áp bực phụ nữ vẫn còn nguyên vẹn .
Nhưng chắc chắn cũng có những hậu qủa tiêu cực lớn của chủ nghĩa đế quốc và nói rộng ra là ảnh hưởng của phương tây hoặc châu Âu , thậm chí tại các quốc gia vẫn còn giữ đựơc sự độc lập chính trị , như tại Thổ nhĩ kỳ và Iran. Trong số những tác động canh tân hóa nổi bật là việc tăng cường quyền lực nhà nước thông qua việc củng cố bộ máy giám sát , đàn áp , và nhồi sọ , và cùng lúc làm suy yếu đi hoặc lọai trừ các thế lực trung gian làm hạn chế quyền lực của các nhà cai trị chuyên chế . Sự thay đổi về xã hội , và sự đổ vỡ các mối quan hệ và ràng buộc xã hội xưa cũ , đã đem lại nhiều mối nguy hại lớn cho xã hội và tạo ra những tương phản mới càng ngày càng rộng , mà các phương tiện truyền thông hiện đại lại càng làm rõ thêm nồn nột . Ngay từ năm 1832 , một quan sát viên sắc sảo người Anh , Aldophus Slade , vốn là 1sĩ quan hải quân trẻ đã nhận ra đựơc sự khác biệt giữa giới quí tộc cũ và giới quí tộc mới . Giới quí tộc cũ sống bằng tài sản . Giới quí tộc mới thì lấy nhà nước làm tài sản của họ . Điều này cho đến nay vẫn còn đúng tại phần lớn các vùng đất Hồi giáo .
Vào đầu thế kỷ 20 - mặc dù nền độc lập mong manh vẫn còn đựơc duy trì tại Thổ nhĩ kỳ và Iran và tại một số quốc gia xa xôi như Afghanistan , vào lúc đó việc xâm lăng cũng chẳng bỏ bèn gì – thì hầu như tòan bộ thế giới Hồi giáo đã đựơc sáp nhập vào 4 đế quốc châu Âu là Anh , Pháp , Nga và Hòa lan . Các chính quyền và phe nhóm Trung đông buộc phải học cách chọc cho các kẻ kình địch hùng mạnh kể trên quay lại chống nhau . Có lúc , họ thắng cuộc chơi ít nhiều . Kể từ lúc các đồng minh phương tây – Anh , Pháp và sau đó là Mỹ - đô hộ tòan bộ khu vực , các kẻ kháng cự Trung đông theo tự nhiên là quay sang tìm sự giúp đỡ của phía kẻ thù của đồng minh. Trong thế chiến thứ 2 , họ quay sang Đức ; trong thời chiến tranh lạnh , đó là Liên Xô.
Ngay từ năm 1914, nước Đức lúc đó liên kết với đế quốc Ottoman , cố gắng huy động tình cảm tôn giáo ở người dân đạo Hồi thuộc các đế quốc Anh , Pháp và Nga để họ chống lại các ông chủ đế quốc và giúp nước Đức thủ lợi . Nổ lực này chỉ đem lại kết qủa quá ít , cho nên bị 1 nhà nghiên cứu Đông phương học người Hòa lan tên là Snouck Hurgronje chế nhạo trong 1 bài báo danh tiếng nhan đề :” Thánh chiến : chế tạo tại Đức".
Nơi mà Kaiser thất bại , thì có lúc Hitler lại đạt được thành công đáng kể . Vào cuối tháng 3 /1933 , ngay sau khi Hitler lên cầm quyền vài tuần , vị Mufti tại Jerusalem , Hajj Amin al-Husseini , đã tiếp cận tiến sĩ Heinrich Wolff , Tổng lãnh sự Đức tại Jerusalem , và đề nghị được cọng tác . Viên lãnh sự , sau khi báo cáo đề nghị này về Berlin , góp ý rằng nên từ chối hoặc ít nhất là cũng bỏ qua . Khi không còn hy vọng đứng về phía đế quốc Anh vì đã là đồng minh của Đức , không còn cách nào khác để chống lại Anh bằng bắt tay với phong trào chủ yếu chống Anh lúc đó . Ngay sau hiệp ước Munich 1938 , khi Hitler rốt cuộc từ bỏ hy vọng lôi kéo Anh vào liên minh chủng tộc Aryan cùng với Đức , thì các đề nghị của giới lãnh đạo Palestine mới đựơc chấp nhận . Từ đó trở đi và trong súôt những năm chiến tranh , mối liên kết của họ rất chặt chẽ và vị Mufti , khi thì ở Jerusalem , lúc ở Beirut , Baghdad , và cuối cùng từ văn phòng tại ngọai ô Berlin , đã đóng 1 vai trò quan trọng trong nền chính trị giữa các nước Ả -rập. Năm 1941 , nhờ sự giúp đỡ của Đúc thông qua Syria do chính phủ Vichy cai quản , Rashid ‘Ali có lúc đã thành công dựng lên 1 chế độ thân phe trục tại Iraq . Ông này bị quân Đồng minh đánh bại và chạy trốn sang Đức . Ngay cả Anwar Sadat , cũng tự thừa nhận là đã làm gián điệp cho Đức tại Ai cập do khi Anh còn cai trị .
Sự thất bại và sụp đổ của Đế chế thứ 3 cùng bộ máy của nó đã để lại 1 khỏang trống nhức nhối . Như nhiều người thấy được , chính trong giai đọan giao thời này mà vào năm 1948 người Do thái đã dựng nên 1 nhà nước và làm cho quân đội các Ả -rập bị thua trận nhục nhã khi ồ ạt tấn công ngăn không cho người Do thái thành lập nhà nước . Vì thế , cần phải tìm 1 ông chủ và người bảo vệ mới để thay thế cho Đế chế thứ 3 , đó là Liên Xô.
Rồi đến phiên Liên xô sụp đổ , chỉ còn lại Mỹ là siêu cường duy nhất . Như vậy kỷ nguyên của lịch sử vùng Trung đông được mở màn với Bonaparte và Nelson và kết thúc với Mikhail Gorbachev và George Bush cha . Thọat đầu , dường như kỷ nguyên cạnh tranh giữa các đế quốc đã chấm dứt với sự rút lui của 2 kình địch - Liên xô do không làm được , còn nước Mỹ thì không muốn đóng vai trò đế quốc . Nhưng trước những biến cố dài hơi , nhất là Cách mạng Iran và chiến tranh do nhà độc tài Iraq , Saddam Hussein , đã buộc nước Mỹ phải tham gia trực tiếp nhiều hơn vào các vụ việc của khu vực . Người dân Trung đông xem đây là 1 giai đọan mới của ván bài đế quốc cũ . Người Mỹ chưa hề có khả năng hoặc ý muốn đóng vai trò đế quốc .
Các nhà lãnh đạo Hồi giáo , cả 2 phe chính phủ và đối lập , phản ứng với tình hình mới này không giống nhau . Đối với một số người , đáp ứng tự nhiên là tìm 1 người bảo trợ mới - người kế tục Đế chế thứ 3 và Liên xô , người mà họ có thể tìm đựơc sự khích lệ , ủng hộ và giúp đỡ khi có chiến tranh chống lại phương Tây . Trong khi đó , phương Tây với tính cách là 1 khối quyền lực càng ngày càng lùi xa về phía tây hơn nữa và hiện nay chủ yếu chính là nước Mỹ , đã tạo ra một khả năng thú vị mới là châu Âu lục địa đóng vai trò đối nghịch . Một số nước châu Âu , vì lý do riêng , lại chia sẻ có mối hiềm thù và ác ý của vùng Trung đông đối với nước Mỹ , bày tỏ ý muốn sẳn lòng chấp nhận vai trò này . Nhưng đó chỉ là ý muốn , mà không có phương tiện .
Việc Liên xô sụp đổ , và thảm bại sau đó của Saddam Hussein trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 , là 1 cú đấm tai hại cho các phong trào quốc gia chủ nghĩa thế tục , nhất là đối với người Palestine , thêm một lần nữa , cũng như năm 1945 , thấy mình bơ vơ không có cường quốc nào bảo trợ và giúp đỡ cho chính nghĩa của mình . Người bảo trợ Liên xô không còn nữa . Thậm chí những nước Ả -rập ủng hộ tài chính cho họ là Kuweit và Saudi Arabia , tức giận vì Palestine ủng hộ nhiệt tình Saddam Hussein , có lúc cũng ngưng không trợ cấp , lại càng làm cho người Palestine thêm cô lập , nghèo đói và yếu hẳn đi .Chính bởi tình hình đó buộc họ phải nghĩ đến điều không thể nghĩ đến là chịu ký thoả hiệp hoà bình với Israel . Dứơi con mắt của nhóm chính thống , thì việc tổ chức PLO đựơc Mỹ và Israel cứu sống và bị đưa vào tròng khi hạ mình đối thoại với Israel là hành động đáng bị khinh bỉ .
Tất cả những điều này càng làm cho nhóm chính thống thấy quan điểm về thế giới của mình có lý hơn , và lý lẽ của họ thôi thúc hơn . Họ - đúng ra là với Usama bin Ladin - diễn giải sự sụp đổ của Liên xô theo 1 cách khác . Theo nhận thức của họ , thì chính họ , chứ không phải là Mỹ đã chiến thắng chiến tranh lạnh . Dưới mắt họ , Liên xô không phải là người giúp đỡ tốt bụng trong cuộc chiến chung chống lại người Do thái và đế quốc phương Tây nhưng lại là nơi xuất phát của chủ nghĩa vô thần và không tín ngưỡng , là nước đã áp bức hàng triệu người Hồi giáo , đã xâm lược Afghanistan . Họ cho rằng , không phải là không có lý , chính sự chiến đấu của họ tại Afghanistan đã đánh bại Hồng quân hùng mạnh và đưa Liên xô đến chỗ thất bại và sụp đổ . Sau khi thanh toán xong một kẻ địch nguy hiểm và hung tàn trong nhóm 2 siêu cường vô đạo , nhiệm vụ kế tiếp của họ là đối phó với kẻ địch còn lại , đó là nước Mỹ , và trong trận chiến này , ai mà thoả hiệp sẽ được coi là công cụ và tay sai cho kẻ địch vô đạo . Dựa trên nhiều lý do , nhóm chủ trương chính thống Hồi giáo cho rằng việc đánh nước Mỹ sẽ đơn giản và dễ dàng hơn . Theo họ , nước Mỹ hiện nay thối nát về đạo đức , xã hội suy đồi , và hệ qủa là nền chính trị và khả năng quân sự đều suy yếu . Nhận thức này có 1 lai lịch khá thú vị .
---------------------
Chương 4
PHÁT HIỆN NỨƠC MỸ
Trong 1 thời gian dài , tại các vùng đất Hồi giáo , nước Mỹ hầu như không hề được biết đến . Thoạt đầu , các chuyến du hành khám phá không được quan tâm mấy – chỉ có 1 bản sao còn sót lại bản đồ châu Mỹ do Christopher Columbus vẽ , được dịch ra tiếng Thổ , và lưu giữ tại bảo tàng Topkapi , Istanbul. Tài liệu về sự khám phá ra Tân thế giới của một nhà địa lý người Thổ vào thế kỷ 16 , có tiêu đề Lịch sử vùng Tây Ấn là một trong những quyển sách đầu tiên in tại Thổ nhĩ kỳ - vào thế kỷ 18. Nhưng sự quan tâm cũng rất ít , và không có mấy tài liệu về nước Mỹ bằng tiếng Thổ, tiếng Ả -rập hoặc bằng các ngôn ngữ Hồi giáo khác cho tới mãi gần đây . Khác với Cách mạng Pháp xảy ra vài năm sau đó , chẳng mấy ai biết đến Cách mạng Mỹ , và được coi , nếu có , chỉ là 1 hình thức nổi dậy quen thuộc . Những điều ghi nhận của viên đại sứ Morocco tại Tây ban nha chắc chắn là tài liệu đầu tiên bằng tiếng Ả rập về Cách mạng Mỹ vào thời điểm đó :
Sultan của xứ Morocco ký 1 hiệp uớc hữu nghị với nước Mỹ vào năm 1787 , và sau đó nước cộng hoà non trẻ này có một số mối quan hệ , khi thì thân thiện , khi thì thù nghịch , chủ yếu là thương mại , nhưng tất cả đều hạn hẹp với các nước Hồi giáo khác .
Tài liệu đựơc ghi chép đầu tiên có nhắc tới nước Mỹ như là 1 biểu tượng đối với thế giới Hồi giáo xảy ra tại Istanbul ngày 14 tháng 7 năm 1793 , khi viên đại sứ Pháp mới đến nhận công tác đã tổ chức một buổi ra mắt trước công chúng mà điểm đỉnh là 1 lọat phát súng chào bắn từ 2 chiến hạm Pháp đậu tại mũi Seraglio . Theo báo cáo của viên đại sứ , họ đã kéo cờ đế quốc Ottoman , cờ của cọng hòa Pháp và Mỹ , và "cờ của những cừơng quốc khác đã không làm bẩn súng khi đứng chung hàng ngũ với những bạo chúa nghịch đạo". Một đại sứ Pháp kế nhiệm , là tứơng Aubert du Bayet ( sau này là Dubayet ) , đến Istanbul vào năm 1796 , cũng có nguồn gốc Mỹ do vì sinh ra tại New Orleans và đã chiến đấu trong quân đội Mỹ . Ông này cố tâm truyền bá các tư tưởng cách mạng tại Thổ nhĩ kỳ .
Nhưng đây là những người Pháp , không phải là các doanh nghiệp của Mỹ và trong khi tư tưởng cách mạng Pháp gây ảnh hưởng đến tư tưởng và văn học của người Thổ , người Ả -rập và những người khác trong súôt thế kỷ 19 , thì Cách mạng Mỹ , và Cọng hòa Mỹ sinh ra từ cuộc cách mạng này , trong một thời gian dài lại không hề đựơc nhắc tới và thậm chí cũng không mấy ai biết. Ngay cả sự hiện diện của nước Mỹ càng ngày càng nhiều thêm - nào là nhà buôn , lãnh sự , nhà truyền giáo và thầy giáo – cũng không cũng gây đựơc được sự hiếu kỳ , và hầu như cũng không hề đựơc văn chương và báo chí thời ấy nhắc đến . Các sách giáo khoa về địa lý , phần lớn đựơc dịch hoặc dựa theo nguyên bản châu Âu , chỉ nêu vắn tắt một vài sự kiện về Tây bán cầu , còn trên báo chí thì rãi rác có một số tài liệu nhắc đến các biến cố xảy ra tại Mỹ , thường được nhắc tới dứơi hình thức tiếng Pháp , États Unis , chuyển sang tiếng Ả -rập là Itazuni , hoặc một dạng tương tự . Một quyển sách giáo khoa đựơc xuất bản tại Aicập vào năm 1833 , đựơc nhà văn và dịch giả nổi tiếng Sheikh Rifa’a Rafi’al - Tahtawi
( 1801-1873) phỏng dịch từ tiếng Pháp có bổ sung một đọan ngắn mô tả :"Itazumi là 1 quốc gia ( dawla ) gồm có nhiều vùng ( iqlim ) , họp lại thành một nước cọng hòa tại vùng đất Bắc Mỹ . Dân chúng gồm các bộ lạc từ nước Anh sang và chiếm cứ vùng đất này . Sau đó họ đứng lên tự giải phóng khỏi sự kiểm sóat của người Anh và dành đựơc tự do độc lập . Đây là một trong những nước văn minh lớn nhất tại châu Mỹ , và tại đây mọi tín ngưỡng và cọng đồng tôn giáo đều đựơc phép . Chính phủ đóng tại 1 thị trấn tên là Washington" Những câu kết luận đáng cho ta chú ý.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 , một mặt trên sách vở và các bách khoa thư và mặt khác trên báo chí có chú ý nhiều hơn về nước Mỹ , nhưng vẫn còn rất hạn chế , và dường như chỉ khu trú vào các nhóm thiểu số không theo Hồi giáo . Các tài liệu tham khảo liên quan đến nước Mỹ trong lãnh vực văn chương nói chung có tính không tích cực hoặc tiêu cực nhưng chỉ đơn thuần là mô tả . Các nhà truyền giáo dĩ nhiên không được ưa chuộng trong các cọng đồng Hồi giáo , nhưng dường như cũng không hề có sự ngờ vực , còn sự căm ghét thì lại càng ít hơn . Sau nội chiến Mỹ , một số sĩ quan Mỹ thất nghiệp chạy sang phục vụ cho các nhà cầm quyền Hồi giáo , giúp họ canh tân quân đội . Các nhà truyền giáo người Mỹ , dù bị cấm không cho cải đạo đối với tín đồ đạo Hồi , nhưng có thể cải đạo cho một số người Cơ đốc chính thống sang các hệ phái Tin lành khác nhau , và điều quan trọng hơn là , cung cấp nền giáo dục trung học và cao đẳng cho số học sinh càng ngày càng đông , đầu tiên là nam , sau đó là nữ , trước hết cho các nhóm thiểu số , sau mới sang cọng đồng Hồi giáo . Một số học sinh tốt nghiệp từ những trường này thậm chí còn sang Mỹ du học tại các trừơng Cao đẳng và Đại học . Lúc đầu , chỉ có du học sinh từ các cọng đồng thiểu số Cơ đốc , sau đó có thêm nhiều học sinh đạo Hồi tham gia , một số trong nhóm này thậm chí còn đựơc nhà nước xuất tiền cử đi học .
Thế chiến lần thứ 2 , kỹ nghệ dầu mỏ , và những phát triển hậu chiến đã đưa nhiều người Mỹ đến các vùng đất Hồi giáo ; thì cũng có nhiều người Hồi giáo đến nước Mỹ ngày càng đông , thọat đầu là học sinh , sau đó là thầy giáo , doanh nhân , hoặc du khách , và cuối cùng là dân di cư . Phim ảnh và sau đó là truyền hình đã du nhập lối sống Mỹ , hoặc ít nhất cũng một dạng của lối sống này , vào hàng triệu người mà trước đó chưa hề nghe hoặc biết đến ngay cả tên nước Mỹ . Nhiều hàng hóa Mỹ , nhất là những năm ngay sau chiến tranh , khi các đối thủ cạnh tranh châu Âu hầu như không còn và sự cạnh tranh Nhật bản chưa có , đã len lõi vào đến những chợ búa hẻo lánh nhất thuộc thế giới Hồi giáo , đã chiếm đựơc nhiều khách hàng mới và có lẽ điều quan trọng hơn cả , là đã tạo ra đựơc những thị hiếu và tham vọng mới . Với một số người , nước Mỹ đại diện cho tự do , công bằng và cơ hội . Đối với nhiều người khác , nước Mỹ tượng trưng cho giàu có , quyền lực và thành công , vào thời điểm này , những tính chất trên chưa đựơc coi là tội lỗi hoặc tội ác .
Và rồi có sự thay đổi lớn , khi các nhà lãnh đạo của 1 phong trào phục hưng rộng khắp và ngày càng mở rộng cố công tìm kiếm và cho rằng kẻ thù của mình là kẻ thù của Thượng đế và xác định"nơi ở và 1 tên gọi"ở Tây bán cầu . Đột nhiên , hoặc dừơng như thế , nước Mỹ bỗng trở thành kẻ thù không đội trời chung , là hiện thân của cái ác , và là kẻ thù hiểm ác của tất cả những gì đựơc coi là tốt đẹp đối với Hồi giáo , và nhất là với tín đồ đạo Hồi . Tại sao như thế ?.
Trong số những yếu tố gây nên tâm trạng chống Mỹ có một số ảnh hưởng của giới trí thức châu Âu . Một trong những ảnh hưởng đó là từ nước Đức , nơi mà cái nhìn tiêu cực về nước Mỹ hình thành một trường phái tư tuởng , trong số đó có những nhà văn thuộc các trừơng phái rất khác nhau như Rainer Maria Rilke , Oswald Spengler , Ernest Junger và Martin Heidegger . Theo nhận thức của những tác giả này thì nước Mỹ là 1 ví dụ tột cùng về một nền văn minh không có văn hóa ; giàu có và tiện nghi , rất phát triển về mặt vật chất nhưng giả tạo và vô tri ; chỉ có tính lắp ráp hoặc quá lắm cũng chỉ là đựơc dụng lên , không hề trưởng thành ; có tính máy móc không chút hữu cơ , chỉ là 1 phức hợp hòan tòan kỹ thuật nhưng không hề có chút gì là tinh thần và sức sống của các nền văn hóa nhân bản , quốc gia , có cội rễ của nước Đức và những dân tộc"chân chính” khác . Nền triết học Đức và nhất là triết học về giáo dục đựơc giới trí thức tại Ả -rập và một số nước Hồi giáo khác hâm mộ nhiều vào những năm thuộc thập kỷ 1930 và đầu 1940 mang thông điệp chủ nghĩa chống Mỹ về mặt triết học . Lối giải thích theo chủ nghĩa quốc xã của ý thức hệ Đức rất có ảnh hưởng trong các nhóm theo chủ nghĩa quốc gia , nhất là đối với những người sáng lập và đảng viên đảng Ba’th ở Syria và Iraq . Sau khi Pháp đầu hàng Đức vào tháng 6/1940 , các lãnh thổ ủy trị của Pháp là Syria và Liban vẫn còn đặt dứơi sự kiểm sóat của chính phủ Vichy và vì thế khá dễ cho người Đức tiếp cận , và sử dụng như là các căn cứ họat động của họ trong thế giới Ả -rập. Nổi bật nhất là cố gắng -có lúc đã thành công - hình thành 1 chế độ thân Quốc xã tại Iraq . Đảng Ba’th đựơc thành lập trong thời kỳ này . Các họat động trên chấm dứt khi người Anh ( và nước Pháp tự do ) chiếm lại Syria – Liban vào tháng 7/1941 , nhưng đảng Ba’th và các ý thức hệ đặc thù của nó vẫn tồn tại .
Chủ đề về tính nhân tạo và thiếu 1 bản sắc dân tộc đích thực của Mỹ cũng giống như các nước Ả -rập đã xuất hiện thường xuyên trên các bài viết của đảng Ba’th và thỉnh thỏang lại được Saddam Hussein khơi dậy , như trong 1 diễn văn đọc hồi tháng giêng năm 2002 . Khi các cuộc chiến - thế chiến thứ 2 , rồi sau đó chiến tranh lạnh - còn tiếp tục , vai trò của Mỹ lãnh đạo phương Tây ngày càng trở nên nổi bật , cho nên cái phần thù ghét dành cho nước Mỹ lại càng đáng chú ý hơn .
Sau khi Đế chế thứ 3 sụp đổ , và ảnh hưởng của Đức không còn , thì một thế lực khác và một triết lý khác , thậm chí còn chống Mỹ dữ dội hơn , thế chân - đó là chủ nghĩa Marxit kiểu Liên xô đứng lên tố cáo chủ nghĩa tư bản phương Tây và nước Mỹ là đại diện nguy hiểm và tiên tiến nhất của nó. Dù thực tế là việc người Nga không hề nhẹ tay khi thống trị phần lớn đế quốc châu Á mênh mông do Sa hòang chinh phục và sau đó bị Liên xô tái chinh phục nhưng ít nhiều cũng không ngăn đựơc việc họ tự cho mình là chiến sĩ và là người bảo trợ cho các phong trào chống chủ nghĩa đế quốc lan tràn trên khắp thế giới sau thế chiến thứ 2 , không chỉ duy nhất tại vùng Trung đông . Vào năm 1945 , dường như chủ nghĩa xã hội sẽ là làn sóng của tương lai . Tại Đông Âu , Liên xô đã hòan tòan thắng trận . Tại Tây Âu , đảng Lao động Anh đã đánh bại ngay cả Winston Churchill vĩ đại trong cuộc tổng tuyển cử năm 1945 . Trên tòan thế giới Arab các chính phủ và phong trào hăng hái tiếp thu các hình thức của chủ nghĩa xã hội .
Nhưng dù rằng các nhà bảo trợ và các chủ nghĩa ngọai nhập có mang lại giúp đỡ vật chất và cách diễn đạt trí thức chống phương Tây và chống Mỹ , thì họ cũng không đề ra , và chắc chắn là không giải thích được vì sao phong trào bài xích phương tây lại làm cho nhiều nước Trung đông và đâu đó trong thế giới Hồi giáo , tiếp thu những tư tưởng như thế . Ta phải nói cho rõ là tạo điều kiện thuận lợi cho các học thuyết cực kỳ khác nhau như thế không phải là lý thuyết chủng tộc của bọn quốc xã Nazi , lý thuyết này không mấy lôi cuốn đối với người Ả -rập , hoặc chủ nghĩa Cọng sản vô thần , lại càng không hấp dẫn được tín đồ đạo Hồi , nhưng chính là ở cái gốc bài phương Tây . Chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cọng sản là những lực lượng chính chống lại phương Tây , cả về lối sống lẫn vai trò cường quốc trên thế giới , và có như thế , 2 chủ nghĩa đó mới tranh thủ được cảm tình hoặc thậm chí sự cọng tác của những ai xem phương tây là kẻ thù chính của mình.
Nhưng tại sao lại như thế? Nếu ta đi từ cái chung đến cái riêng , thì không hề thiếu các hành động hoặc chính sách riêng lẽ , được các chính quyền phương Tây đưa ra hoặc theo đuổi , đã làm khơi dậy tại Trung đông và các dân tộc đạo Hồi khác lòng căm giận sâu sắc diễn ra dưới nhiều hình thức chiến đấu - để dành độc lập khỏi sự cai trị hoặc đô hộ của ngọai bang ; để giải phóng tài nguyên khỏi sự bóc lột của nước ngoài , chủ yếu là dầu mỏ ; để lật đổ những kẻ cầm quyền và chế độ tay sai và theo đuôi của phương tây . Nhưng cái cảnh thường xuyên là khi tất cả những chính sách trên bị hủy bỏ và các vấn đề đã giải quyết xong , tình hình chỉ dịu đi tạm thời và khu trú . Khi người Anh bỏ Ai cập , người Pháp bỏ Algeria , bỏ hết tài sản tại các nước Ả -rập khác , thì các chế độ quân chủ bị lật đổ tại Iraq và Ai cập , vua Shah chủ trương cải cách theo phương tây bỏ chạy khỏi Iran , các công ty dầu mỏ từ bỏ quyền kiểm sóat các giếng dầu mà họ đã bỏ công phát hiện và xây dựng , và tự hài lòng với những thỏa thuận có được với các chính phủ của những nước này – tuy vậy sự phẫn uất tràn lan của những người theo phe chính thống và cực đoan chống lại phương tây vẫn không hề suy giảm .
Có lẽ ví dụ thường đựơc nêu ra nhất về sư can thiệp của phương tây cùng với những hệ qủa của nó là việc lật đổ chính phủ Mosaddeq tại Iran năm 1953. Cuộc khủng hỏang bắt đầu khi Mosaddeq , nhà lãnh đạo bình dân theo chủ nghĩa dân tộc , đựơc nhân dân ủng hộ , quyết định quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ , đặc biệt là công ty Anh-Iran , công ty quan trọng nhất . Chắc chắn là , những điều kiện theo đó công ty này và những công ty dầu mỏ nhượng quyền khác họat động thực ra đều không bình đẳng và phù hợp . Lấy ví dụ , công ty dầu mỏ Anh –Iran trả thuế cho chính phủ Anh nhiều hơn là tiền thuê mỏ cho chính phủ Iran . Nước Mỹ lúc đầu liên đới vì là đồng minh của Anh , rồi sau đó , dần dà , do sợ Liên xô nhảy vào ủng hộ chính phủ Mosaddeg . Vì thế , Anh và Mỹ quyết định , dĩ nhiên là có sự đồng ý của vua Shah , tống khứ Mosaddeg bằng 1 cuộc đảo chính . Lúc đầu , cuộc đảo chính không suông sẻ mấy . Mossadeg chỉ bắt giữ phái viên của vua Shah và ra lệnh bắt tứơng Zahedi , đầu sỏ nhóm đảo chính và dự tính sẽ cầm đầu chính phủ mới thân vua Shah . Có lúc những người ủng hộ Mosaddeg và các đảng viên đảng Tudeh Cọng sản tổ chức biểu tình rộng rãi trên đường phố , đả đảo cả vua Shah và thân phụ ông ta , hô to” Đế quốc Mỹ cút về nước". Vua Shah cùng với vợ bỏ trốn sang Iraq , tại đây ông ta bí mật gặp Đại sứ Mỹ , và sau đó bay sang Rome.
Trong khi đó , các cuộc biểu tình tại Tehran thay đổi tính chất . Lúc trước họ chống vua Shah , bây giờ họ lại quay sang ủng hộ , và nhất là quân đội xuống đừơng ủng hộ nhà vua . Sau nhiều đợt biểu tình , Mosaddeg bị lật đổ và Zahedi đứng ra làm Thủ tứơng . Vào ngày 19/8/1953 ,vua Shah nhận đựơc tin qua 1 bức điện do AP đánh đi :"Tehran: Mosaddeq đã bị lật đổ . Quân đội nhà vua kiểm sóat Tehran. Zahedi làm Thủ tứơg,” Ngay sau đó , vua Shah quay về Tehran và chiếm lại ngai vàng .
Kết cuộc , theo tiêu chuẩn trong vùng , là khá nhẹ nhàng. Bộ trưởng ngọai giao trong chính phủ Mosaddeg bị xử tử và một số khác ủng hộ ông này bị bỏ tù . Còn chính Mosaddeq thì bị đưa ra tòa và bị án 3 năm quản thúc tại nhà . Sau khi đựơc thả vào tháng 8 năm 1956 , ông ta sống tại điền trang dứơi sự giám sát cho đến năm 1967 . Do sự can thiệp tích cực của CIA Mỹ và MI 6 Anh trong vụ lật đổ chế độ và giúp vua Shah quay lại cầm quyền , cho nên vua Shah bị đại đa số thần dân coi như là bù nhìn của Anh , sau đó là của Mỹ.
Nếu đúng vậy , thì bù nhìn vừa không đắc lực vừa không đáng tin cậy .Khi cách mạng Iran xảy ra năm 1979 , cả Anh lẫn Mỹ không hề ra tay để cứu vua Shah khỏi bị lật đổ . Chính quyền Mỹ lúc đó đã không ra tay giúp đỡ mà còn nói rõ là họ không ý định làm gì cả . Thậm chí còn cường điệu hơn nữa khi họ từ chối không cho vua Shah và gia đình tị nạn tại Mỹ . Vua Shah trốn khỏi Tehran vào giữa tháng giêng 1979 và bay qua qua ngã Ai cập đến Morocco, nơi đây ông làm khách của nhà vua vài ngày . Nhưng vua Morocco lại có những nổi lo khác , nhất là dự họp Tổ chức Hội nghị Hồigiáo mà ngài đứng ra tổ chức tại Rabat vào đầu tháng 4 . Vì thế vua Hassan yêu cầu vua Shah ra đi trước ngày 30 tháng 3 . Vua Shah thông báo cho đại sứ Mỹ ý muốn chấp thuận lời đề nghị cho tị nạn của Tổng thống Carter , nhưng hóa ra là đề nghị này đã bị hủy bỏ , rõ ràng là đặt ưu tiên việc thiết lập quan hệ tốt với các nhà lãnh đạo mới của Iran trên việc cho phép vua Shah và gia đình tị nạn . Người Mỹ chỉ động lòng khi vua Shah bệnh nặng gần chết và cần đựơc chăm sóc y tế gấp. Vào ngày 22 tháng 10 , vua Shah được thông báo là có thể chuẩn bị đến Mỹ . Ngài đến New York vào sáng sớm hôm sau và đựơc đưa thẳng vào bệnh viện . Biết rằng sự có mặt của mình sẽ gây khó cho nước Mỹ , cho nên mặc dầu còn đang bệnh nặng , ông ta cũng rời nước Mỹ và đến Panama, chật vật mới khỏi bị trục xuất về Iran và từ Panama , ông ta quay về Ai cập , sống ở đó cho đến khi chết vào năm 1980 .
Các nhóm khác nhau trong vùng rút ra được 2 bài học từ những sự kiện này - một là , người Mỹ sẵn sàng vừa sử dụng vũ lực và âm mưu để sắp đặt hay duy trì các nhà cầm quyền bù nhìn tại các nước Trung đông ; hai là , người Mỹ không phải là kẻ bảo trợ đáng tin cậy khi những bù nhìn bị dân chúng tấn công mạnh mẽ , lúc đó họ sẽ sẳn sàng bỏ rơi . Một bài học gây nên sự óan hận , còn bài học kia sự khinh bỉ - quả là 1 sự kết hợp nguy hiểm.
Rõ ràng là có cái gì đó liên quan nhiều hơn là những mối bất bình cụ thể này , có thể là rất nhiều và quan trọng , là một cái gì đó sâu sắc hơn đã chuyển mỗi sự bất hoà thành 1 vấn đề và làm cho vấn đề này trở nên không thể nào giải quyết được . Cái mà ta phải đối đầu hiện nay không chỉ là 1 lời oán trách về 1 chính sách nào đó của Mỹ mà đúng là 1 sự từ chối và kết tội , chứa đầy giận dữ và khinh miệt tất cả những gì mà nước Mỹ được coi là đại diện trên thế giới hiện nay.
Một khuôn mặt chủ chốt trong quá trình hình thành những thái độ mới đó là Sayyid Auth , người gốc Ai cập đã trở thành một nhà tư tưởng chủ đạo của phong trào chính thống Hồi giáo và là 1 thành viên tích cực của tổ chức chính thống là Các huynh đệ Hồi giáo . Sinh ra tại 1 làng vùng Thượng Ai cập năm 1906 , ông này học tại Cairo , rồi đi dạy học vài năm và sau đó làm công chức tại bộ Giáo dục Ai cập . Nhờ có khả năng , ông ta được gởi đi dự 1 khoá học đặc biệt tại Mỹ từ tháng 11/1948 đến tháng 8/1950 . Tính cực đoan về chủ nghĩa chính thống và khả năng viết lách của ông phát triển ngay sau khi từ Mỹ trở về nước . Sau vụ đảo chánh quân sự tháng 7/1952 , lúc đầu ông ta liên hệ chặt chẽ với nhóm đựơc gọi là Sĩ quan tự do , nhưng sau đó không theo họ nữa khi những bài giảng về Hồi giáo của ông va chạm với cácchính sách của phe theo đường lối thế tục . Sau nhiều lần đụng độ với nhà cầm quyền , vào năm 1955 ông ta bị kết án 15 năm tù . Nhờ sự can thiệp của Tổng thống Arif của Iraq , ông đựơc thả vào năm 1964 , và vào cuối năm này ông xuất bản một trong những tác phẩm chính của mình , Ma’alim fil-Tariq ( Những chỉ báo trên đường Đạo ) . Vào ngày 9 tháng 8 , 1965 , ông ta bị bắt trở lại , và lần này bị kết tội là phản bội và , cụ thể là có âm mưu ám sát Tổng thống Nasser . Sau 1 phiên xử bỏ qua những thủ tục , ông ta bị kết án tử hình vào ngày 21tháng 8 năm 1966. Án lệnh đựơc thi hành 8 ngày sau đó .
Thời gian lưu trú tại Mỹ của Sayyid Quth dường như là giai doạn quyết định trong sự hình thành các tư tưởng của ông ta về các mối liên hệ giữa đạo Hồi với thế giới bên ngoài , và nhất là , chính bên trong thế giới Hồi giáo . Nhà nước Israel mới vừa được thành lập và tồn tại đựơc nhờ đánh thắng trận đầu trong 1 loạt các cuộc chiến giữa khối Ả -rập và Israel. Chính đây là thời điểm thế giới mới biết đựơc sự huỷ diệt gần như toàn bộ người Do thái tại các nước châu Âu do Quốc xã chiếm đóng , và công luận tại Mỹ , cũng như tại nhiều nơi trên thế giới , đa số đều đứng về phía Israel. Mối liên hệ thời chiến giữa Đệ tam Đế chế và các nhà lãnh đạo Ả -rập nổi tiếng như Mufti tại Jerusalem và Rashid ‘ Ali của Iraq cũng đựơc đưa lên báo , và như thế cảm tình của quần chúng đương nhiên là dồn cho phía đựơc coi là nạn nhân của Hitler trong nổ lực đấu tranh thoát khỏi sự tàn sát của các đồng phạm của Hitler . Sayyid Quth bị choáng khi thấy mức độ ủng hộ tại Mỹ đối với những gì mà ông ta coi như sự tàn sát của người Dothái đối với đạo Hồi với sự đồng loã của người Cơ đốc .
Càng rõ hơn nữa là cái phản ứng choáng váng của ông ta đối với lối sống Mỹ - chỉ toàn là tội lỗi và sa đoạ , thói ham mê những điều mà ông ta gọi là sự chung chạ xác thịt . Sayyid Quth nhận ra đựơc sự đối nghịch giữa phương Đông tâm linh và phương tây với chủ nghĩa ưa vật chất , và coi nước Mỹ là 1 hình thái tận cùng của chủ nghĩa này . Ông ta viết rằng , ở Mỹ , mọi thứ , thậm chí cả tôn giáo cũng được đo bằng những lời lẽ vật chất . Ông ta nhận thấy ở Mỹ có nhiều nhà thờ nhưng lại cảnh báo người đọc là không nên hiểu rằng cứ nhiều nhà thờ là tình cảm tôn giáo và tâm linh cũng nhiều . Theo ông , nhà thờ ở Mỹ hoạt động như kinh doanh , tranh nhau khách hàng và quảng cáo , và sử dụng các phương pháp như ở cửa hàng và nhà hát để thu hút khách hàng và người xem . Mục sư nhà thờ , cũng giống như người quản lý 1 doanh nghiệp hoặc 1 nhà hát , thành công là tất cả , và thành công đựơc đo bằng kích thứơc - mức độ to lớn , bằng con số . Để chiêu dụ khách hàng , nhà thờ còn trơ trẻn đứng ra quảng cáo và chào mời cái mà người Mỹ tìm kiếm nhiều nhất - thoải mái hoặc vui vẻ ( ông ta ghi tiếng Anh – a good time và fun trong bản tiếng Ả -rập ) . Kết qủa đưa đến là các sảnh sinh hoạt của nhà thờ , nơi mà các giáo sĩ làm ban phép lành , trở thành nơi nhảy nhót , nơi đàn ông đàn bà gặp nhau , buông tuồng , sàm sỡ . Các mục sư thậm chí còn đi đến mức để đèn mờ nhằm làm cho cuộc khiêu vũ cuồng nhiệt hơn. Ông ta viết một cách kinh tởm " Tiếng nhạc từ máy hát làm điệu nhảy khích động hơn , sàn nhảy trở thành nơi quay cuồng giữa giữa gót chân , và đùi , tay quấn lấy hông , môi vú kề nhau , bầu không khí đầy vẻ dâm dật". Ông ta cũng trích dẫn bản báo cáo Kinsey về hành vi tình dục để làm căn cứ cho phần mô tả và kết tội tính sa đoạ của xã hội người Mỹ . Qua nhận thức này về phương Tây và lối sống của nó có thể giải thích tạo sao các tên khủng bố sùng đạo lại coi các vũ sảnh , hộp đêm và những nơi khác có thanh niên nam nữ tụ tập là các mục tiêu hợp logic . Những lời tố cáo chống lối sống Mỹ của Sayyid Quth quá dữ dội cho nên ông ta phải rời bỏ vị trí công tác tại Bộ giáo dục vào năm 1952 . Hiển nhiên là sua đó ông ta gia nhập tổ chức Huynh đệ Hồi giáo .
Công kích chính trong các bài viết và bài giảng của Sayyid Quth nhắm vào kẻ thù nội bộ - vào cái mà ông ta gọi là kỷ nguyên mới của sự ngu dốt , theo tiếng Ả -rập là jahiliyya , là 1 từ cổ điển Hồi giáo để chỉ thời kỳ đầy rẫy bọn ngọai đạo tại đất Ả -rập trước khi có đấng Tiên tri và đạo Hồi xuất hiện . Theo Sayyid Quth , đợt jahiliyya mới này đã nuốt chửng các dân tộc Hồi giáo và những tên bạo chúa pharaon mới – ám chỉ các chế độ cầm quyền hiện hữu – đang cai trị họ . Nhưng mối đe dọa của kẻ thù bên ngoài càng ngày càng lớn mạnh . Có ý cho rằng thái độ chống Mỹ của Sayyid Quth chỉ là kết quả của cái thực tế mà ông ta gặp khi sang Mỹ , nếu ông ta đựơc cử sang bất cứ nước nào ở châu Âu thì ông ta cũng có thái độ tương tự . Nhưng vào thời điểm đó , người ta chỉ nhắc đến nước Mỹ , và vai trò lãnh đạo của nước này , từ xấu đến tốt , đối với các nước không- Hồi giáo đựơc thừa nhận và bàn cãi ngày càng nhiều . Chính bộ mặt tội lỗi và cả sự suy đồi của nước Mỹ và sự đe dọa nhiên hậu đối với đạo Hồi và tín đồ đạo Hồi đã trở thành chủ đề về đức tin trong các nhóm Hồi giáo chính thống .
Hiện nay , tại các nước Hồi giáo , trên các phương tiện truyền thông đại chúng , truyền đơn , bài giảng và trong các bài phát biểu trước công chúng , ra rã 1 bài tụng dường như dập khuôn về các tội lỗi của Mỹ . Lấy một ví dụ là trong một bài phát biểu của 1 giáo sự người Ai cập tại buổi họp chung giĩưa EU và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo tổ chức tại Istanbul vào tháng 3 năm 2002. Danh sách tội ác đựơc tính ngược đến thời mới định cư sơ khai tại Bắc Mỹ bao gồm việc tước đọat tài sản và tiêu diệt dân bản địa và sau đó là ngược đãi những người còn sống sót . Tiếp đến là việc bắt làm nô lệ , bóc lột người da đen ( lời tố cáo kỳ quặc từ nguồn tin đặc biệt này ) và người nhập cư tại Mỹ . Lời tố cáo cũng bao gồm những tội ác chiến tranh chống Nhật bản tại Hiroshima và Nagasaki cũng như tại Triều tiên , Việt nam , Somalia và các nơi khác . Đáng chú ý trong những tội ác của hành động xâm lăng đế quốc là việc làm của Mỹ tại Liban , Khartoum , Lybia , Iraq và dĩ nhiên có việc Mỹ giúp Israel chống lại ngườiPalestine. Nói rộng ra , danh sách buộc tội còn nêu ra sự ủng hộ của Mỹ tại Trung đông và sự ủng hộ dành cho một số nhà cầm quyền chuyên chế khác , như vua Shah tại Iran và Haile Selassie tại Ethiopia , cũng như 1 danh sách ( được điều chỉnh tùy theo tình huống) các nhà độc Ả -rập , chống lại nhân dân của họ .
Tuy nhiên lời cáo buộc mạnh mẽ nhất trong tất cả là sự suy đồi và trụy lạc của lối sống Mỹ , và mối đe dọa của lối sống này đối với đạo Hồi . Mối đe dọa này , thọat đầu là do Sayyid Quth nêu ra , ngày nay đã trở thành 1 thành phần thường trực trong vốn từ vựng và ý thức hệ của nhóm Hồi giáo chính thống , và rõ nhất là trong ngôn ngữ của Cách Mạng Iran . Chính đây là ý nghĩa của từ Satan đầu sỏ do cố giáo sĩ Ayatollah Khomeni gán cho nước Mỹ . Theo kinh Qur’an mô tả thì Satan cũng chẳng phải là bọn đế quốc hoặc kẻ bóc lột . Hắn chính là tên dụ dỗ ,"là tên ma vương quỉ quyệt nhỏ to vào lòng người"( Qur’an CXIV,4,5) .
Chương V
SATAN VÀ LIÊN XÔ
Vai trò mới của nước Mỹ - theo nhận thức của vùng Trung đông về vai trò này - được minh hoạ đầy sinh động bằng sự cố xảy ra tại Pakistan vào năm 1979. Vào ngày 20 tháng 11 , một nhóm hàng ngàn người Hồi giáo cấp tiến chiếm giữ Nhà thờ lớn tại Mecca chống lại lực lượng an ninh một thời gian . Mục đích của họ là để "làm thanh sạch đạo Hồi"và để giải phóng đất thánh Ả -rập khỏi"bè lủ những tên vô đạo hoàng gia " và các lãnh đạo tôn giáo thối nát đang ủng hộ chúng . Qua loa phóng thanh , các nhà lãnh đạo sự cố này tố cáo phương tây là kẻ phá hoại các giá trị cơ bản của Hồi giáo và chính quyền Saudi là những kẻ đồng phạm . Kẻ cầm đầu kêu gọi nên quay về những truyền thống xa xưa ” bình đẳng và công bằng” của Hồi giáo . Sau một hồi giao tranh dữ dội , quân khởi loạn bị đè bẹp . Người cầm đầu bị xử tử vào ngày 9 tháng giêng ,1980 cùng với 62 tòng đảng , trong đó có người Ai cập , Kuwait , Yemen và công dân của các nước Ả -rập khác .
Trong khi đó , tại Islamabad , Pakistan nổ ra 1 cuộc biểu tình ủng hộ quân khởi loạn . 1 tin đồn lan truyền - đựơc Ayatollah Khomeni , lúc này đang cố đóng vai là nhà cách mạng tại Iran , đồng tình – là quân Mỹ có tham gia vào những vụ đụng độ tại Mecca. . Đám biểu tình Hồi giáo tấn công sứ quán Mỹ , làm chết 2 người Mỹ và 2 viên chức Pakistan . Tại sao Khomeni lại đưa ra 1 báo cáo không những là giả mạo và không thể nào xảy ra đựơc ?.
Những biến cố này xảy ra trong bối cảnh Cách mạng Hồi giáo năm 1979 . Vào ngày 4 tháng 11 , sứ quán Mỹ tại Tehran bị chiếm , và 62 người Mỹ bị bắt làm con tin . 10 người trong bọn họ , là phụ nữ và người Mỹ da đen , đựơc thả ra ngay ; các con tin còn lại bị giữ 444 ngày , cho đến khi đựơc thả ra vào ngày 20 tháng giêng 1981. Cho đến lúc này mới rõ động cơ của việc bắt giữ , thông qua lời khia và phát hiện sau đó của người bắt con tin và một số nguồn tin khác . Khi ấy người ta mới biết là vụ khủng hoảng con tin xảy ra không phải vì mối quan hệ giữa Mỹ và Iran xấu đi nhưng chính là do đựơc cải thiện . Vào mùa thu năm 1979 , Mehdi Bazargan , là thủ tứơng Iran chủ trương tương đối ôn hoà , nhờ sự giúp đỡ của chính phủ Algeria , đã thu xếp để gặp cố vấn an ninh quốc gia Mỹ là Zbigniew Brezinski . 2 vị này đã gặp nhau vào ngày 1 tháng 11 và theo báo cáo là có chụp ảnh bắt tay nhau . Một khả năng có thể trở thành hiện thực - dưới mắt của những người cấp tiến, một mối nguy hiểm thực sự - có thể có sự thoả hiệp nào đó giữa 2 quốc gia . Đám phản đối chiếm lấy sứ quán và bắt các nhà ngoại giao Mỹ làm con tin để bóp dí hy vọng đối thoại xa hơn . Về việc này , họ đã thành công hoàn toàn , ít nhất cũng vào lúc ấy .
Theo Khomeni , thì nước Mỹ là kẻ thù chính mà ông ta phải phát động thánh chiến để chống lại . Thế thì , cũng như trong quá khứ , cái thế giới của những kẻ không có đức tin này được coi như là 1 thế lực đáng gờm đang cạnh tranh và ngăn không cho đạo Hồi chiến thắng và truyền bá theo sứ mạng đựơc thánh thần giao cho . Trong tác phẩm trước đó của Khomeni và nhất là quyển"Chính quyền Hồi giáo"viết năm 1970 , nước Mỹ đôi khi đựơc nhắc , và sua đó được nhắc tới khi nói về chủ nghĩa đế quốc - ban đầu chỉ đóng vai trò hỗ trợ , dần dần với tính cách là người thay thế cho Đế quốc Anh quen thuộc nhiều hơn . Vào thời điểm cách mạng xảy ra , và khi sự đối đầu trực tiếp ngày càng tăng , thì nước Mỹ theo ông ta, đã trở thành kẻ thù chính , và là mục tiêu trung tâm của sự giận dự và sự khinh miệt của tín đồ Hồi giáo.
Mối thù đích đặc biệt của Khomeini đối với nước Mỹ dường như bắt đầu từ tháng 10 năm 1964 , trong bài phát biểu trước tư dinh tại Qum, , ông ta kịch liệt tố cáo điều luật trình Quốc hội Iran về đặc quyền ngoại giao dành cho phái bộ quân sự Mỹ , cùng với gia đình , nhân viên , cố vấn , người giúp việc của họ được miễn trừ theo luật pháp Iran . Rõ ràng là ông ta không biết rằng quyền miễn trừ tương tự cũng đã được đề nghị và đương nhiên được chấp thuận cho các lực lượng Mỹ đóng tai Anh trong thế chiến thứ 2 . Nhưng vấn đề về cái gọi là nhượng bộ , đặc quyền miễn trừ ngoại giao trong quá khứ dành cho các thương gia người Âu và du khách khác đến xứ Hồi giáo là 1 vấn đề tế nhị , nhưng Khomeini lại vận dụng một cách khéo léo :"Họ đã đẩy người Iran xuống vị trí thấp hơn con chó của người Mỹ . Nếu có ai chẹn phải con chó của người Mỹ , người đó sẽ bị trừng trị . Ngay cả vua Shah , nếu ngài chẹn chết 1 con chó của người Mỹ , ngài cũng sẽ bị trừng trị . Nhưng nếu 1 đứa nấu bếp người Mỹ đụng phải vua Shah , là nguyên thủ quốc gia , thì không ai có quyền xâm phạm tên nấu bếp đó"Do đã đụng chạm với nhà cầm quyền , sau bài phát biểu này , Khomeini bị trục xuất khỏi Iran vào ngày 4 tháng 11 . Ông ta trở lại chủ đề này nhiều lần trong các bài phát biểu và bài viết sau đó , mạt sát người Mỹ là miệng thì cam kết tôn trọng nhân quyền , nhưng lại không hề đếm xỉa đến những quyền này đối với Iran và một số nước khác , trong số đó có các nước thuộc châu Mỹ Latinh ” tại sân nhà của họ . Những lời kết tội khác gồm có tước đoạt sự phồn vinh của Iran , và ủng hộ chế độ quân chủ Iran. .
Trong những bài phát biểu sau khi trở lại Iran , danh mục những nổi bất bình và danh sách các kẻ thù ngày càng dài thêm , nhưng bao giờ nước Mỹ cũng đứng đầu bảng .Và không chỉ duy nhất tại Iran . Trong bài phát biểu vào tháng 9 năm 1979 tại Qum , ông ta than phiền rằng toàn bộ thế giới Hồi giáo đều nằm trong nanh vuốt của người Mỹ và kêu gọi toàn thể người Hồi giáo trên thế giới đứng lên chống lại kẻ thù . Chính vào thời điểm này , ông ta bắt đầu gọi nước Mỹ là tên "Satan đầu sỏ". Cũng vào thời điểm này , ông ta tố cáo Anwar Sadat của Aicập và Saddam Hussein của Iraq là đầy tớ và tay sai của Mỹ . Sadat phục vụ người Mỹ khi ký kết hoà bình với Israel ; Saddam Hussein phục vụ Mỹ vì đã gây chiến với Iran . Sự đối đầu với Mỹ trong vụ khủng hoảng con tin , trong cuộc xâm lăng của Iraq , và trong nhiều trận chiến về kinh tế và ngoại giao đã chứng minh nhận định của Khomeini về vai trò chính của Mỹ trong cuộc chiến giữa Hồi giáo và phương Tây . Từ đó trở đi , nước Mỹ là"tên Satan đầu sỏ", Israel là tay sai của Mỹ , là"tên Satan con", nhật lệnh là" nước Mỹ phải chết". Đó là khẩu hiệu đựơc hô to và giương lên trong các cuộc tuần hành chống Mỹ năm 1979. Về sau , khẩu hiệu này đựơc tô vẻ thêm trịnh trọng , đầy nghi thức tôn giáo cho nên không còn ý nghĩa thực sự của nó nữa.
Các nhà quan sát người Mỹ , bừng tỉnh vì bị Cách mạng Iran lớn tiếng xỉ vả là tên Satan đầu sỏ , cố gắng tìm hiểu vì sao tình cảm chống Mỹ lại trổi dậy mạnh mẽ trong thế giới Hồi giáo vào thời điểm đó . Một cách giải thích có lúc đựơc nhiều người chấp nhận , nhất là trong giới đối ngoại Mỹ , là hình ảnh nước Mỹ bị hoen ố trong thời chiến và do tiếp tục liên kết với các cừơng quốc thuộc địa châu Âu . Để biện hộ cho đất nước mình , một số nhà bình luận Mỹ cho rằng , khác với các đế quốc Tây Âu , bản thân nước Mỹ cũng là nạn nhân của chủ nghĩa thuộc địa , nước Mỹ là quốc gia đầu tiên giành đựơc độc lập thoát khỏi sự cai trị của nước Anh . Nhưng các tác giả Ả -rập đã nhanh chóng chỉ ra rằng đó chỉ là viễn vông khi hy vọng rằng dân bị trị của các đế quốc Anh và Pháp tại vùng Trung đông sẽ coi cách mạng Mỹ là tấm gương trong cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc của họ . Cuộc cách mạng Mỹ như họ thường lưu ý , không phải do người Mỹ bản xứ , mà lại do dân lập nghiệp người Anh đứng lên chiến đấu , như thế hoàn toàn không phải là chiến thắng chống lại chủ nghia thực dân , mà đó là cuộc chiến chung quyết của chủ nghĩa thực dân , là người Anh tại Bắc Mỹ đã thành công trong việc thực dân hoá vùng đất này một cách trọn vẹn đến mức họ không cần đến sự hỗ trợ của mẫu quốc để chống lại dân bản địa .
Không mấy ngạc nhiên khi thấy dân bị trị của các nước thực dân cũ tại vùng Trung đông coi nước Mỹ cũng mang tính đế quốc chủ nghĩa như các nước Tây Âu . Nhưng sự uất hận của nhân dân vùng Trung đông đối với các cừơng quốc đế quốc không phải lúc nào cũng nhất quán . Liên xô , nước đã duy trì và nới rộng các phần lãnh thổ do Sa hoàng chinh phục , cai trị hà khắc hàng chục triệu người Hồi giáo tại các nước cọng hoà Trung Á và vùng Caucasus. Nhưng Liên xô lại không hề bị những cọng đồng Arập thù hận và căm ghét đến thế.
Mối quan tâm của Nga tại vùng Trung đông có từ lâu . Qua nhiều thế kỷ các Sa hoàng đã mở rộng xuống phía nam và phía đông , và đã sáp nhập nhiều vùng đất Hồi giáo rộng lớn vào đế quốc Nga , chỉ trừ nước Thổ và Ba tư và các nước Hồi giáo đã độc lập tại tại Trung Á. Việc thất trận của phe trục năm 1945 đã làm nẩy sinh mối đe doạ mới từ Liên xô. Liên xô lúc này đang nắm chắc vùng Balkan và có thể đe doạ Thổ nhĩ kỳ cà 2 mặt biên giới đông và tây. Họ đã thọc sâu vào Iran khi chiếm vùng Azerbaijan . Mối đe doạ đối với Iran đã có từ lâu . Trong các cuộc chiến tranh Nga- Iran năm 1804-1813 và 1826-1828 , người Nga đã chiếm phía bắc Azerbaijan , biến vùng này thành 1 tỉnh của đế quốc Sa hoàng và sau đó trở thành một nước cọng hoà trong Liên bang Xô viết. Trong thế chiến thứ 2 , cùng với người Anh , Liên xô chiếm lấy Iran để bảo đảm phòng tuyến liên lạc cho cả 2 nước . Khi chiến tranh chấm dứt , người Anh rút quân ; Liên xô vẫn ở lại , rõ ràng là có ý định sáp nhập phần còn lại của Azerbaijan vào Liên xô.
Lần đó họ bị chặn lại . Nhờ sự giúp đỡ chủ yếu từ phía Mỹ , người Thổ gạt phắt yêu cầu của Liên xô đòi xây dựng căn cứ tại vùng eo biển Dardanelles , còn Iran thì lật đổ chính phủ cọng sản bù nhìn mà quân Xô viết chiếm đóng dựng lên tại vùng Azerbaijan Ba tư và tái xác lập chủ quyền quốc gia của chính phủ Iran trên toàn bộ lãnh thổ của mình .
Trong một thời gian , ý đồ thực hiện giấc mộng nhiều năm của Sa hoàng của Liên xô bị dội ngược , và cả Thổ nhĩ kỳ lẫn Iran đều gia nhập liên minh Châu Âu . Nhưng hiệp ứơc khí giới Nga - Aicập năm 1955 đã đưa Nga trở lại chơi ván bài Trung đông , lần này đóng vai trò chủ đạo . Người Thổ và người Iran đã có nhiều kinh nghiệm với chủ nghĩa đế quốc của Nga cho nên rất dè chừng . Còn các nước Ả -rập chỉ quen với chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây , cho nên hồ hỡi chờ đón Liên xô . Bằng cách vựơt qua rào cản phía bắc và tiếp xúc trực tiếp với các nước Ả -rập mới độc lập , trong một thời gian ngắn , người Nga đã tạo dựng đựơc một vị trí rất vũng vàng .
Lúc đầu họ đi những bứơc cũng giống như những người Tây Âu tiền nhiệm - đặt căn cứ quân sự , cung cấp vũ khí , "hứơng dẫn" quân sự , rồi xâm nhập kinh tế và văn hoá . Nhưng với Liên xô , các mối quan hệ kiểu này chỉ mới là bứơc đầu , ý đồ của họ rõ ràng là càng tiến xa càng tốt. Không mấy nghi ngờ là , nếu không có sự chống đối của Mỹ , chiến tranh lạnh , và sau đó là sự sụp đổ của Liên xô , thì thế giơi Ả -rập trước sau gì rồi cũng rơi vào số phận của Balan và Hungari , chắc chắn hơn nữa sẽ là Uzbekistan. Nhưng không phải chỉ có thế . Trong khi cố đặt ách bảo hộ lên các đồng minh Trung đông , Liên xô lại tỏ ra không xứng với vai trò bảo hộ chút nào. Trong chiến tranh Israel-Ả -rập năm 1967 và sau đó năm 1973, họ đã không muốn hoặc không thể cứu người đựơc bảo trợ khỏi bị thất bại và nhục nhả . Tất cả cái mà họ làm được chỉ là cùng với Mỹ kêu gọi Israel ngừng tiến công.
Đến đầu thập niên 1970 , thì sự hiện diện của Liên xô không những không hữu hiệu mà lại còn gây lắm phiền toái. Giống như các đế quốc châu Âu đi trước , Liên xô xây dựng nhiều căn cứ quân sự trên đất Aicập mà không người Aicập nào đựơc phép bén mảng đến và tiến sang giai đọan cổ điển mới là ký kết các hiệp ứơc bất bình đẳng .
Có một số lãnh đạo Trung đông thấm thía bài học và với ít nhiều miễn cưởng , quay sang phương Tây . Rõ nhất là Tổng thống Anwar Sadat của Ai cập , vốn từng thừa hưởng mối liên hệ với Liên xô từ người tiền nhiệm là Tổng thống Nasser. Vào tháng 5/1971, ông ta buộc phải ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác rất không bình đẳng với Liên xô ; đến tháng 7/1972 , ông ta ra lệnh buộc tất cả các cố vấn quân sự Liên xô phải rời Ai cập và bắt đầu tiếp cận với Mỹ và tìm kiếm hoà bình với Israel. Tuy nhiên , dừơng như Tổng thống Sadat hoàn toàn đơn độc khi đưa ra đường lối và chính sách như thế y , và nhìn chung thì những sự cố trên không làm sứt mẻ thiện chí của Liên xô cũng như tăng thêm thiện chí đối với Mỹ . Liên xô không hề sây sứt hoặc thậm chí không hề bị trách cứ gì vì hành động đàn áp Hồi giáo tại các cộng hoà Trung Á và vùng Caucasus , nơi có đến 50 triệu người theo đạo Hồi. Về mặt này , người Tàu cũng không bị tố cáo vì đã từng đàn áp người Hồi giáo tại Tân cương . Người Mỹ cũng không hề nhận đựơc bất cứ sự tri ân nào khi ra sức cứu người Hồi giáo tại Bosnia , Kosovo và tại Albania. Rõ ràng là ỏ đây có những chuẩn mực khác .
Có lẽ thí dụ minh hoạ sâu sắc nhất cho sự thiên lệch này là vụ Liên xô xâm lăng Afghanistan vào cúôi tháng chạp năm 1979 và dựng lên 1 chính phủ bù nhìn tại đây. Thật là khó mà tìm được 1 ví dụ nào rõ ràng , hiển nhiên hơn về sự xâm lăng , chinh phục và thống trị của đế quốc bằng trừơng hợp này. Tuy thế , hầu như không hề có phản ứng từ khối Ả -rập , và của thế giới Hồi giáo nói chung . Vào ngày 14 tháng giêng 1980 , sau nhiều lần trì hoãn , cuối cùng Đại hội đồng Liên hiệp quốc cũng thông qua 1 nghị quyết về biến cố này , không phải để tố cáo Liên xô xâm lăng nhưng” rất lấy làm tiếc về sự can thiệp bằng vũ lực tại Afghanistan". Ở đây không dùng từ"xâm lăng", cụm từ ” kẻ can thiệp"cũng không hề đựơc nhắc tới . Kết qủa bỏ phiếu biểu quyết là 104/ 18. Trong số những nước khối Ả -rập , Syria và Algeria bỏ phiếu trắng , nam Yemen bỏ phiếu chống , còn Lybia thì vắng mặt . PLO là quan sát viên , không có quyền bỏ phiếu nhưng lại đọc 1 diễn văn biện hộ mạnh mẽ cho hành động của Liên xô. Tổ chức Hội nghị Hồi giáo ( OIC) cũng không xử sự khá hơn. Ngày 27 tháng giêng, sau nhiều lần vận động và thương thuyết , OIC cũng tổ chức đựơc 1 cuộc họp tại Islamabad để thảo luận về vấn đề Liên xô-Afghanistan . 2 nước thành viên , Nam Yemen và Syria tẩy chay cuộc họp. Đại biểu của Libya công kích kịch liệt nước Mỹ , còn PLO , là thành viên chính thức của OIC , lại từ chối bỏ phiếu về nghị quyết chống Liên xô, thay vào đó , trình ra 1 văn bản bảo lưu .
Cũng có một vài đáp ứng từ thế giới Hồi giáo đối với sự xâm lăng của Liên xô- Saudi Arabia cho một ít tiền , Ai cập cho một ít khí giới , và nhiều quân tình nguyện Ả -rập. Nhưng chính Mỹ là nước đứng ra tổ chức mặt trận phản công của Hồi giáo chống lại chủ nghĩa đế quốc Liên xô tại Afghanistan có phần nào thành công . OIC giúp người Afghan không nhiều , muốn tập trung sức lực vào những vấn đề khác – hướng về một số cộng đồng Hồi giáo nhỏ tại các khu vực chưa thoát khỏi ách thực dân , và dĩ nhiên là bao gồm cuộc xung đột Israel-Palestin.
Israel là 1 trong số nhiều điểm ( gồm Nigeria, Sudan, Bosnia , Kosovo, Chechnya , tân cương , Kashmir , Timor , Mindanao , và v.v…) mà thế giới Hồi giáo và không- Hồi giáo gặp nhau . Mỗi nơi trong những điểm này là 1 chủ đề trung tâm cho những phe tham gia, và nhưng lại là lý do né tránh khó chịu cho nhóm khác . Ngược lại , phương Tây thường cố hết sức giải quyết những nổi bất bình của người này với cái giá là gây bất bình cho người khác . Cuộc xung đột Israel-Palestine chắc chắn là đã gây nhiều chú ý hơn bất cứ cuộc xung đột nào khác , vì nhiều lý do . Một là , vì Israel là 1 quốc gia dân chủ và là 1 xã hội cởi mở , cho nên sẽ dễ dàng hơn khi báo cáo – và báo cáo sai - về những gì xảy ra ở đó. Hai là , vì có liên quan đến người Do thái , cho nên điều này bảo đảm sẽ đựơc nhiều người nghe, trong số đó có người vì lý do này hay lý do khác ủng hộ hay là chống đối họ . Một ví dụ tiêu biểu cho sự khác biệt này là chiến tranh Iran-Iraq kéo dài 8 năm từ 1980 đến 1988. Cuộc chiến này đã gây ra nhiều thương vong và huỷ hoại nhiều hơn tất cả các trận chiến Israel- Ả -rập cọng lại nhưng lại không được mấy ai chú ý. Bởi vì 1 lý do là , cả Iraq lẫn Iran đều không có dân chủ , và có nhiều khó khăn và nguy hiểm hơn trong việc từơng trình . Mặt khác , do không liên quan đến người Do thái , với tư cách là nạn nhân hoặc kẻ thủ ác , cho nên không có gì thú vị khi tường thuật cả .
Lý do thứ 3 , chủ yếu quan trọng nhất khi đặt vấn đề Palestine lên hàng đầu là vì , cứ cho là thế , nổi bất bình được cho phép - nổi bất bình duy nhất được phát biểu tự do và an toàn tại những nước Hồi giáo nói trên , nơi mà báo chí chỉ do nhà nước làm chủ hoặc bị theo dõi gắt gao . Thật vậy , Israel là chỗ để trút mọi lời óan trách về sự thiếu thốn kinh tế và áp bức chính trị mà đại đa số người Hồi giáo hứng chịu , và được sử dụng như 1 phương tiện để làm chệch hứơng nổi căm giận đó . Phương pháp này rất có ích khi xảy ra trùng hợp với hòan cảnh nội tại của Israel , khi có bất cứ sự sai sót nào của chính phủ , quân đội , của người lập nghiệp hoặc bất cứ người nào bị phát hiện hoặc bất cứ sự dối trá nào tại Israel vừa bị bị bóc trần , từ phía người Do thái lẫn người Ả -rập , trên báo chí và nghị viện Israel. Đa số những nước thù nghịch với Israel đều không bị những khó khăn này trong quan hệ ngọai giao của họ .
Khi các đế quốc Tây Âu suy tàn , thì tính chống Mỹ tại vùng Trung đông lại đựơc gán cho những nguyên nhân khác , đặc thù hơn : sự bóc lột kinh tế thường đựơc mô tả như là sự cứơp bóc các tài nguyên của người Hồi giáo ; sự giúp đỡ cho các nhà độc tài thối nát địa phương phục vụ cho các mục tiêu của nước Mỹ khi áp bức và cứơp đọat tài sản của chính nhân dân mình , và còn nhiều , nhiều hơn nữa là 1 nguyên nhân khác : người Mỹ ủng hộ cho Israel , lúc đầu trong vụ xung đột của người Palestine gốc Ả -rập , sau đó là xung đột với các nước Ả -rập láng giềng và cuối cùng là thế giới Hồi giáo .Trên báo chí bằng tiếng Ả -rập và Ba tư chắc chắn có người ủng hộ giả thiết này , nhưng sẽ không phù hợp mấy nếu cho rằng không có những trở ngại này thì các chính sách của Mỹ tại Trung đông sẽ thuận lợi hơn . Vấn đề Palestine chắc chắn đang gây nổi căm giận ngày càng lớn , đôi khi đựơc hâm nóng và trở nên nghiêm trọng hơn vì các chính sách và hành động của chính phủ hoặc các đảng phái Israel . Nhưng thực sự đó có phải là lý do chính để gây nên tình cảm chống Mỹ , như một số người lập luận ?.
Lịch sử cứ diễn lại một số oái ăm . Vào những năm 1930 , các chính sách của Đức quốc xã là nguyên nhân khiến người Do thái di cư sang Palestine , lúc đó dứơi quyền ủy trị của Anh , và kết cuộc là làm tăng số dân Do thái ở đây . Bọn Quốc xã không những chỉ cho phép di cư , mà họ còn tạo thêm điều kiện thuận lợi cho đến khi chiến tranh nổ ra , còn người Anh , với hy vọng heo hắt là tranh thủ thiện chí của khối Ả -rập , đã đưa ra các biện pháp hạn chế di cư . Tuy nhiên , giới lãnh đạo Palestine thời ấy , cũng như các nhà lãnh đạo khối Ả -rập khác , lại ủng hộ người Đúc , vốn chủ trương tống người Do thái sang Palestine, chứ không phải là nước Anh , cố gắng không cho họ đến vùng này.
Cũng có thể thấy tình hình tréo cẳng ngỗng tương tự trong những biến cố dẫn đến sự thành lập nhà nước Israel vào năm 1948 và sau đó . Liên xô lúc ấy đã đóng 1 vai trò quan trọng khi vận động Đại hội đồng Liên hiệp quốc biểu quyết thành lập 1 nhà nước Israel tại Palestine và lập tức công nhận Israel về mặt pháp lý ( de jure) . Nước Mỹ thì lại dè dặt hơn và chỉ công nhận trên thực tế ( de facto ) .Quan trọng hơn nữa , là chính phủ Mỹ duy trì lệnh cấm vận một phần vũ khí cho Israel , trong khi đó , đựơc sự cho phép của Moscow, Tiệp khắc lập tức chuyển ngay một số lượng vũ khí để giúp cho nhà nước Israel non trẻ sống sót . Lý do vì sao Liên xô có chính sách như thế vào thời điểm đó không phải vì có thiện ý đối với người Do thái hoặc ác ý đối với người Ả -rập. Đó là do 1sự tin tưởng sai lầm- nhưng lúc ấy lại đựơc nhiều người chia xẻ - đó là nước Anh vẫn còn là 1 cường quốc phương tây , và như thế là kẻ cạnh tranh chính của Liên xô .Theo cách nhìn này , thì ai phá nhiễu người Anh - kiểu mà người Do thái đang làm trong những năm cuối cùng khi Anh thực hiện quyền ủy trị Palestine- đều đáng được Liên xô giúp đỡ . Sau này , Stalin nhận thấy mình đã sai cho nên đã chú tâm vào nước Mỹ thay vì nước Anh.
Trong thập kỷ sau , khi nhà nước Israel đựơc thành lập , việc đối xử của Mỹ với nhà nước Do thái vẫn còn hạn chế và dè chừng. Sau chiến tranh kênh đào Suez năm 1956 , người Mỹ đã can thiệp mạnh mẻ và quyết liệt để buộc các lực lượng Anh . Pháp , và Israel rút lui. Nhà lãnh đạo Liên xô lúc ấy là Khrushchev , khi cuộc chiến nổ ra vẫn còn im hơi thận trọng , cho rằng 1 tuyên cáo thân Arập cũng không dẫn đến đụng độ với Mỹ , và chỉ từ sau lần đó - mới mạnh dạn đứng về phía Ả -rập . Cho đến tận chiến tranh năm 1967 , Israel dựa vào kho vũ khí châu Âu cung cấp , chủ yếu do Pháp , chứ không phải của Mỹ.
Tuy thế , chủ nghĩa đế quốc Nga , giờ đây dưới hình thức Liên xô , quay lại đóng 1 vai trò tích cực hơn đối với tình hình Trung đông đã mang đến 1 đáp ứng cuồng nhiệt trong thế giới Ả -rập . Sau vài lần thăm viếng ngọai giao cùng với các họat động khác , một mối quan hệ mới đựơc chính thức tuyên bố vào cuối tháng 9/1955 , là 1 thỏa hiệp về vũ khí được ký kết giữa Liên xô và Ai cập , là nước càng ngày càng lộ rõ là 1 chư hầu của Liên xô . Thậm chí hiệp định vũ khí đã tạo ra một sự chào đón hồ hỡi còn ấn tượng hơn là chính bản thân nó trong thế giới Ả -rập , vượt qua mọi sự khác biệt và bất bình tại địa phương . Hạ nghị viện các nước Syria . Liban , và Jordan họp ngay và đưa ra nghị quyết chúc mừng Thủ tứơng Nasser thời đó , ngay cà Nuri Said , là nhà lãnh đạo thân phương Tây của Iraq , dù đang tranh giành với Nasser chiếc ghế lãnh đạo phong trào toàn - Ả -rập , cũng buộc phải chúc mừng người đồng sự Aicập . Hầu như toàn bộ giới báo chí tiếng Ả -rập đều nhất loạt tán thành .
Tại sao lại có phản ứng này ? Chắc chắn là người Ả -rập chẳng yêu thương gì nước Nga, cũng như tín đồ đạo Hồi trong và ngoài thế giới Ả -rập lại muốn đem chủ nghĩa Cọng sản hoặc sức mạnh của Liên xô vào nước mình . Đó cũng chẳng phải là phần thưởng cho chính sách đối với Israel của Moscow , là chính sách khá thân thiện . Cái làm cho người Ả -rập hồ hỡi là họ coi thỏa hiệp về vũ khí - chắc chắn là đúng như thế - là 1 cái tát vào mặt phương tây . Cái tát này , và hình ảnh phương Tây bị rối tung thấy rõ và nhất là phản ứng của Mỹ , đã củng cố thêm cái tâm trạng thù hận và khinh bỉ đối với phương Tây và cổ vũ cho người có tâm trạng đó.
Do ảnh hưởng của Liên xô mở rộng tại Trung đông và thái độ hồ hởi chào đón của vùng này khiến cho người Mỹ có thiện cảm hơn với Israel , giờ đây đựơc coi như là 1 đồng minh tin cậy và là 1 đồng minh có ích lâu dài tại 1 vùng đất đầy thù nghịch . Ngày nay , ít ai còn nhớ rằng mối quan hệ chiến lược giữa Mỹ và Israel chỉ là hậu quả , chứ không phải là nguyên nhân của sự xâm nhập của Liên xô .
Đương nhiên điều quan tâm đầu tiên của bất cứ chính phủ Mỹ nào cũng là xác định quyền lợi của Mỹ và đề ra chính sách để bảo vệ và đẩy mạnh các lợi ích đó. Trong thời gian sau thế chiến thứ 2 , chính sách của Mỹ tại Trung đông , cũng như tại các nơi khác , chỉ nhấn mạnh yêu cầu làm sao ngăn chận đựơc sự xâm nhập của Liên xô . Đáng tiếc là nước Mỹ đã từ bỏ ưu thế về đạo đức của kẻ đứng ngoài cuộc và nhảy vào sân khấu : đầu tiên là ủng hộ vị trí đang rệu rã của người Anh , rồi sau đó , khi đã rõ là không thể nào giữ vị trí này vững được , lại tham gia một cách trực tiếp hơn và cuối cùng là thay thế người Anh để bảo vệ vùng Trung đông khỏi bị bên ngoài tấn công , nhất là từ Liên xô.
Nhu cầu hậu chiến ngay sau đó là chống trả lại áp lực của Liên xô ở rìa phía bắc - bảo đảm để Liên xô rút ra khỏi vùng Azerbaijan thuộc Iran và từ bỏ yêu sách đối với Thổ nhĩ kỳ . Chính sách này rõ ràng và có thể hiểu được và , nói chung , đã thành công trong việc cứu Iran và Thổ nhĩ kỳ . Nhưng khi thử mở rộng sang thế giới Ả -rập qua hiệp ứơc Baghdah , quả tình đã bị trở quẻ một cách tai hại vì đã đối đầu hoặc làm giảm uy tín những kẻ mà nước Mỹ muốn lôi cuốn . Nhà lãnh đạo Ai cập , Gamal’ Abd al- Nasser , nhận thấy hiệp ứơc trên đe dọa đến quyền lãnh đạo của mình , nên đã quay sang phía Liên xô . Chế độ thân phương tây tại Iraq bị lật đổ , các chế độ thân thiện khác tại Liban và Jordan lâm vào tình cảnh nguy hiểm đến mức phải cầu viện phương tây giúp đỡ bằng quân sự mới cầm cự được . Từ năm 1955 , khi Liên xô nhảy vượt từ biên giới phía bắc vào thế giới Ả -rập , thì cả sự đe dọa lẫn phương tiện để chống lại sự đe dọa này đã thay đổi một cách triệt để . Trong khi rìa phía băc vẫn còn giữ vững , thì vùng đất Ả -rập lại trở thành thù nghịch , hoặc ít nhất cũng giữ thế trung lập một cách áy náy . Trong tình thế này , mối quan hệ của Mỹ đối với Israel bứơc vào 1 giai đọan mới .
Mối quan hệ này đã định hình từ lâu dựa trên 2 sự cân nhắc hòan tòan khác nhau : cái thứ nhất dựa trên ý thức hệ hoặc tình cảm , cái kia là vị trí chiến lược . Người Mỹ , được nhồi nhét Kinh thánh và lịch sử nước họ , dễ dàng nhận thấy sự ra đời của nhà nước Israel hiện đại là 1 đợt di dân ( Exodus) mới quay về vùng đất hứa , và cũng dễ cảm tình vói những người dừơng như lập lại cái kinh nghiệm đi sang Mỹ lập nghiệp của cha ông họ , những người đi khai phá và những người kế tục . Còn người Ả -rập , dĩ nhiên không hề nhìn theo cách này , và nhiều nước châu Âu cũng chia sẻ quan niệm này .
Mối gắn kết khác giữa Mỹ và Israel là mối liên hệ chiến lược , khởi đầu từ những năm 1960 , đã nẩy nổ mạnh trong những năm 1970 và 1980 , chao đảo trong thập niên 1990 và trở nên quan trọng khi nước Mỹ cùng lúc đối diện với sự đe dọa do tham vọng bá quyền của Saddam Hussein và sự khủng bố của bọn al-Qa’ida chính thống , và từ những nỗi bất bình trong số các đồng minh của Mỹ vốn đã có từ lâu , nay lại tăng thêm . Vai trò lợi thế chiến lựơc của Israel đối với Mỹ đã gây nhiều tranh cải . Có một số người ở Mỹ coi Israel là 1 đồng minh chiến lược chính trong khu vực và là 1 thành lũy tin cậy chống lại kẻ thù trong và ngoài khu vực . Những người khác lý luận rằng Isreal còn lâu mới là 1 lợi điểm chiến lược , chỉ là cái của nợ chiến lược , bỏi vì nó làm rạn nứt mối quan hệ của Mỹ đối với thế giới Ả -rập và là nguyên do làm cho các chính sách của Mỹ trong khu vực thất bại.
Nhưng nếu ta so sánh hồ sơ của chính sách Mỹ tại vùng Trung đông với các vùng khác , ta sẽ ngạc nhiên vì đó không phải là thất bại mà lại là thành công . Nói cho cùng , không hề có Việt nam tại Trung đông , không có Cuba hoặc Nicaragua hoặc El Salvador , thậm chí không có Angola nữa . Ngựơc lại , qua suốt một lọat các khủng hỏang liên tiếp làm rung chuyển cả khu vực , luôn luôn vẫn còn sự hiện diện đường bệ của nước Mỹ trên các mặt chính trị , kinh tế và văn hóa tại nhiều quốc gia trong khu vực - cho đến khi chiến tranh vùng Vịnh xảy ra năm 1991 , mà không cần đến bất cứ sự can thiệp quân sự đáng kể nào .Và thậm chí cho đến lúc đó , sự hiện diện của Mỹ là để giải cứu những nạn nhân của 1 sự xâm lăng giữa 2 nước Ả -rập , không hề có liên quan gì đến người Israel hoặc Palestine. Những ai chỉ chăm chú vào miền Trung đông luôn luôn xoi mói đến những khó khăn và thất bại của chính sách Mỹ tại khu vực này , nhưng nếu ta nhìn rộng hơn , ta sẽ lấy làm ngạc nhiên về hiệu qủa của chính sách Mỹ tại vùng này trái ngược hẵn với chính sách tại Đông nam Á , Trung Mỹ hoặc tại Đông Phi .
Từ khi Liên xô sụp đổ , một chính sách Mỹ mới xuất hiện tại Trung đông , liên quan đến nhiều mục tiêu khác nhau . Mục đích chính của chính sách này là ngăn ngừa sự hình thành 1 bá quyền khu vực - tức là 1 cường quốc duy nhất trong vùng có khả năng thống trị khu vực và tiến đến việc kiểm sóat độc quyền dầu mỏ khu vực này .Đây là mối quan tâm cơ bản của các chính sách kế tiếp nhau của Mỹ đối với Iran , Iraq , hoặc đối với bất cứ nước nào đựơc cảm nhận là mối đe dọa tương lai trong khu vực .
Cho tới nay chính sách được chấp nhận , nhằm ngăn chận 1 bá quyền như thế, là khuyến khích , cung cấp vũ khí , và khi cần thiết sẽ hỗ trọ cho 1 hiệp ứơc an ninh khu vực , chủ yếu là các nước Ả -rập. Chính sách này đương nhiên là sẽ làm sống lại quá khứ không có gì vui của những toan tính trước kia , quả là lợi bất cập hại . Lần này , hiệp ứơc đựơc đề ra có phần gặp may mắn hơn. Kẻ thù giả định không còn là Liên xô đáng sợ , và các kẻ thù trong khu vực lại có nhận định tỉnh táo hơn về tình hình thế giới và vị trí của mình . Nhưng một hiệp ước như thế , dựa trên các chế độ bấp bênh , cai trị những xã hội dễ thay đổi , rõ ràng là liều lĩnh bởi vì theo lẽ thường mắc xích yếu nhất sẽ quyết định độ mạnh của dây xích . Lịch sử Iraq mới đây đã cho thấy rõ ràng vì sao một chính sách như thế có thể mắc sai lầm . Khi tích cực ủng hộ vua Shah , Mỹ đã đưa ông ta đến chỗ bị lật đổ ; khi chăm sóc Saddam Hussein , Mỹ đã nuôi dưỡng 1 con quái vật . Thật là dễ dàng một cách tai hại khi lập lại một hoặc cả 2 sai lầm trên , gây nguy hiểm cho các lợi ích của phương tây trong khu vực và đem lại những hậu quả khủng khiếp cho nhân dân sống trong vùng đó .
Trong khung cảnh này , cũng dễ hiểu khi thấy thiện chí của một số chính phủ Ả -rập muốn thương thuyết hòa bình với Israel , và người Mỹ muốn đẩy mạnh tiến trình hòa bình . Nhiều nước Ả -rập bắt đầu nhận ra rằng , dựa trên điểm mạnh và điểm yếu của Israel , Israel không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với họ , cũng không phải là mối đe dọa lớn nhất mà họ phải đối đầu . Một nước Israel gây chiến với láng giềng sẽ là 1 mối nguy hiểm thường xuyên , là 1 cách đánh lạc hứơng mà 1 Saddam Hussein mới - thậm chí cũ cũng được - bao giờ cũng có thể dùng tới . Nhưng 1 Israel hòa bình với láng giềng ,ít nhất , cũng có thể đóng vai trò 1 yếu tố ổn định dân chủ trong vùng .
Nói chung , có 2 kiểu liên minh hòan tòan khác nhau . Một kiểu là chiến lược và có thể chỉ là hòan tòan hòa hõan tạm thời dựa trên cơ sở cảm nhận có chung những mối đe dọa . Một sự hòa hõan như thế có thể đạt đựơc với bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng đựơc - không cần quan tâm đến cách điều hành chính phủ , mô hình xã hội mà ông ta cai trị . Phía đối tác của một liên minh như vậy có thể thay đổi ý kiến bất cứ lúc nào , hoặc thay ngựa giữa dòng nếu ông ta bị lật đổ hoặc bị thay thế . Như thế , liên minh này có thể chấm dứt khi thay đổi chế độ , thay đổi lãnh đạo , hoặc thậm chí thay đổi tầm nhìn .Các biến cố tại Lybia , Iraq , Iran và Sudan sẽ làm rõ ý này khi chính trị thay đổi thì chính sách bị đảo ngược hòan tòan , hoặc theo chiều hứơng khác như tại Ai cập , dù không thay đổi chế độ , các nhà lãnh đạo cũng có thể chuyển hứơng từ phương Tây sang Liên xô và sau đó quay về hàng ngũ phương Tây.
Phía Mỹ cũng có tính uyển chuyễn tương tự . Vì lọai đồng minh như vậy có thể bỏ rơi Mỹ bất cứ lúc nào , Mỹ rõ ràng là cũng thấy thỏai mái khi bỏ rơi những đồng minh như thế , nếu việc liên minh tỏ ra quá phiền phức hoặc không còn hiệu qủa kinh tế nữa- lấy ví dụ, trừơng hợp của Việt nam , Kurdistan và Liban . Người ta có thể bỏ rơi 1 đồng minh chỉ vỏn vẹn đóng vai trò hòa hõan chiến lược , mà không hề tỏ ra ân hận hoặc lo lắng vì bị chỉ trích mạnh mẽ trong nước .
Kiểu liên minh còn lại đặt cơ sở trên sự tương đồng về định chế , nguyện vọng , và lối sống - kiểu này khó thay đổi . Liên xô vào thời điểm vàng son ý thức rõ điều này và đã cố gắng tạo dựng các chế độ độc tài cọng sản tại những nơi họ có mặt . Các chế độ dân chủ tạo ra khó khăn hơn . Và cũng khó phá hủy hơn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét