Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Ludwig von Mises (1881-1973) - CHỦ NGHĨA TỰ DO TRUYỀN THỐNG 2
07:21
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 1
Nền tảng của chính sách tự do
10. Luận cứ của chủ nghĩa phát xít
Mặc dù chủ nghĩa tự do chưa được
công nhận một cách triệt để ở bất cứ đâu, nhưng thành tựu của nó trong
thế kỉ XIX đã tiến xa đến mức một số nguyên tắc quan trọng nhất của nó
đã được coi là đương nhiên, không cần tranh luận nữa. Trước năm 1914,
ngay cả những kẻ thù lì lợm nhất và quyết liệt nhất của nó cũng đã buộc
phải chấp nhận sự kiện đó. Ngay cả ở nước Nga - tức là nơi mới chỉ tiếp
nhận được những tia sáng yếu ớt của chủ nghĩa tự do - phe bảo hoàng,
trong khi tiếp tục khủng bố những người đối lập, cũng phải để ý đến
những quan điểm tự do ở châu Âu. Trong cuộc Thế chiến vừa qua (Chiến
tranh Thế giới I –ND), các phe quân sự trong các nước tham chiến, dù tỏ
ra hung hăng, nhưng trong cuộc đấu tranh với những người đối lập ở trong
nước vẫn phải tỏ ra mềm mỏng.
Chỉ đến khi những người dân chủ
xã hội theo đường lối marxist thắng thế và giành được quyền lực với niềm
tin rằng thời đại của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản đã vĩnh viễn
cáo chung rồi thì sự nhượng bộ tư tưởng tự do, mà trước đấy người ta vẫn
cho là cần thiết, mới chấm dứt. Các đảng của Quốc tế III chấp nhận mọi
phương tiện, chỉ cần chúng hứa hẹn giúp họ giành được mục tiêu trong
cuộc đấu tranh là được. Theo quan điểm của họ, bất cứ người nào không
công nhận và không ủng hộ toàn bộ học thuyết của họ một cách vô điều
kiện đều đáng tội chết; và họ sẽ không run tay tiêu diệt người đó, cũng
như gia đình người đó, kể cả trẻ con - bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu,
khi hoàn cảnh cho phép.
Việc thi hành một cách công khai
chính sách tiêu diệt đối thủ và giết chóc nhằm thực hiện đường lối đó
đã tạo điều kiện cho phong trào đối lập ngóc đầu dậy. Kẻ thù
phi-cộng-sản của chủ nghĩa tự do lập tức sáng mắt ra. Trước đây họ vẫn
còn tin rằng ngay cả trong cuộc đấu tranh với những đối thủ đáng ghét
nhất người ta cũng phải tôn trọng một số nguyên tắc nhất định của chủ
nghĩa tự do. Dù không muốn, nhưng họ vẫn buộc phải loại bỏ việc giết
người và mưu sát khỏi danh sách những biện pháp có thể được áp dụng
trong cuộc đấu tranh chính trị. Họ buộc phải chấp nhận một số hạn chế
trong việc ngược đãi báo chí đối lập và đàn áp tự do ngôn luận. Bây giờ
họ bỗng thấy những đối thủ mới xuất hiện, đấy là những kẻ không quan tâm
tới những lí lẽ như thế, mọi phương tiện đối với họ đều là tốt, miễn là
đánh bại được kẻ thù. Kẻ thù theo đường lối quân phiệt và dân tộc chủ
nghĩa của Quốc tế III cảm thấy như bị chủ nghĩa tự do đánh lừa. Họ cho
rằng trong lúc điều kiện vẫn còn và khi họ đang muốn giáng trả các đảng
cách mạng thì chủ nghĩa tự do đã trói chân trói tay họ. Họ tin rằng nếu
không bị chủ nghĩa tự do cản trở thì họ đã dẫm nát phong trào cách mạng
ngay từ trong trứng nước rồi. Các tư tưởng cách mạng chỉ có thể bén rễ
và đơm hoa kết trái vì đối thủ của chúng đã tỏ ra khoan dung; việc tôn
trọng, mà sau này mới biết là quá đáng, các nguyên tắc tự do đã làm cho
họ nhụt chí. Nếu trước đây họ đã nhận thức được rằng cần phải đàn áp một
cách dã man mọi phong trào cách mạng thì Quốc tế III không thể giành
chiến thắng vào năm 1917 được. Những kẻ quân phiệt và dân tộc chủ nghĩa
tin rằng khi cần bóp cò và đánh nhau thì họ chính là những người thiện
xạ nhất và là những chiến binh khéo léo nhất.
Tư tưởng căn bản của các phong
trào này - từ tên gọi của phong trào hoành tráng nhất và có kỉ luật
nhất, ở Ý, có thể định danh là phát xít – là sử dụng những biện pháp vô
luân trong cuộc đấu tranh chống Quốc tế III, tức là những biện pháp từng
được tổ chức này sử dụng nhằm chống lại các đối thủ của mình. Quốc tế
III tìm cách tiêu diệt đối thủ và tư tưởng của đối thủ bằng những biện
pháp giống như các biện pháp mà bác sĩ vệ sinh phòng dịch sử dụng trong
cuộc chiến chống bệnh truyền nhiễm vậy; phong trào này cho rằng họ không
bị giới hạn bởi bất kì điều khoản của bất kì thoả ước nào mà họ có thể
kí với đối thủ, họ nghĩ rằng trong cuộc đấu tranh này họ có thể phạm mọi
tội ác, có thể nói dối và vu khống. Về nguyên tắc, bọn phát xít cũng
công khai theo đuổi những ý định như thế. Việc họ chưa tự giải thoát
hoàn toàn khỏi một số khái niệm và tư tưởng của chủ nghĩa tự do cũng như
các qui tắc đạo đức truyền thống như những người Bolshevik ở Nga đã làm
là do một nguyên nhân duy nhất sau đây: bọn phát xít hoạt động trong
những nước có di sản văn hoá và đạo đức kéo dài đã hàng ngàn năm, không
thể phá vỡ ngay được, chứ không phải là chúng đang hoạt động trong các
dân tộc bán khai hai bên dãy núi Ural, từ trước đến nay quan hệ của
những người đó với nền văn minh cũng chẳng khác gì bọn lục lâm thảo khấu
ở trong rừng rậm hay trong sa mạc, thỉnh thoảng lại tấn công cướp bóc
những khu vực văn minh. Do sự khác biệt như thế mà chủ nghĩa phát xít sẽ
không bao giờ tự giải thoát hoàn toàn khỏi những tư tưởng của chủ nghĩa
tự do, như chủ nghĩa Bolshevik ở Nga đã làm. Chính do những ấn tượng
tươi mới của những vụ giết người và bạo hành ở Liên Xô mà bọn phát xít ở
Đức và Ý mới có thể xoá bỏ được những ràng buộc mang tính truyền thống
về luật pháp và đạo đức và tìm được xung lực cho những hành động đàn áp
đẫm máu như thế. Hành động của bọn phát xít và những đảng tương tự như
chúng chính là những phản ứng cảm tính do sự phẫn nộ trước những hành
động của những người Bolshevik và cộng sản gây ra. Ngay sau khi cơn giận
dữ ban đầu trôi qua, chính sách của chúng sẽ ôn hoà hơn và thậm chí, có
thể, cùng với thời gian còn trở nên ôn hoà hơn nữa (Xin nhắc lại rằng
tác phẩm này được xuất bản vào năm 1927. Sau này những người theo phái
tự do không còn hi vọng hợp tác với bọn phát xít trong cuộc đấu tranh
chống cộng nữa – chú thích của bản tiếng Nga - ND).
Thái độ ôn hoà như vậy chính là
kết quả của sự kiện là những quan niệm tự do truyền thống tiếp tục tạo
được ảnh hưởng một cách vô thức lên nhận thức của bọn phát xít. Dù sao
mặc lòng, người ta buộc phải công nhận rằng việc các đảng cánh hữu chấp
nhận chiến thuật của bọn phát xít cho thấy: cuộc đấu tranh chống lại chủ
nghĩa tự do đã giành được những thắng lợi mà trước đó mấy năm không ai
có thể tưởng tượng được. Mặc dù cương lĩnh kinh tế của chủ nghĩa phát
xít nói chung là phản tự do và chính sách của nó là can thiệp một cách
toàn diện, nhưng nhiều người vẫn ủng hộ vì chúng không thi hành chính
sách phá hoại vô nghĩa và không có giới hạn nào, một chính sách đã đóng
dấu kẻ thù không đội trời chung của nền văn minh lên trán những người
cộng sản. Trong khi một số người khác, mặc dù biết rõ những tai hoạ mà
chính sách kinh tế phát xít sẽ mang đến cho nhân loại, vẫn coi chủ nghĩa
phát xít là một tai hoạ còn dễ chịu hơn là chủ nghĩa cộng sản và chế độ
Xô Viết. Nhưng với đa số người ủng hộ và hâm mộ, cả công khai lẫn bí
mật, thì sức hấp dẫn của chủ nghĩa phát xít lại chính là những biện pháp
đầy bạo lực của nó.
Bây giờ thì không thể nào phủ
nhận được rằng biện pháp duy nhất có thể đáp trả được bạo lực chính là
bạo lực. Vũ khí phải được sử dụng trong cuộc chiến đấu nhằm chống lại vũ
khí của những người Bolshevik và sẽ là sai lầm nếu tỏ ra yếu đối trước
bọn sát nhân. Không một người theo trường phái tự do nào lại tỏ ra nghi
ngờ chuyện đó. Chiến thuật của những người theo phái tự do khác với
chiến thuật của phát xít không phải ở quan niệm về nhu cầu sử dụng vũ
lực nhằm chống lại những cuộc tấn công bằng vũ lực mà ở sự khác biệt
trong việc đánh giá mang tính nền tảng về vai trò của vũ lực trong cuộc
đấu tranh giành quyền lực. Mối nguy hiểm của chủ nghĩa phát xít đối với
chính sách đối nội nằm ở chỗ họ tuyệt đối tin tưởng vào vai trò quyết
định của bạo lực. Muốn giành thắng lợi thì phải quyết tâm và luôn luôn
sử dụng bạo lực. Đấy là nguyên tắc tối cao của họ. Chuyện gì sẽ xảy ra
một khi đối thủ cũng đầy quyết tâm và cũng sẵn sàng sử dụng bạo lực như
thế? Kết quả chắc chắn sẽ là chiến tranh, nội chiến. Người chiến thắng
cuối cùng sẽ là bên có đông người nhất. Về lâu dài, phe thiểu số - ngay
cả khi đấy là những người có năng lực và nghị lực nhất – cũng không thể
thắng được đa số. Như vậy là câu hỏi quyết định nhất vẫn còn nguyên giá
trị: làm sao lôi kéo được đa số về phe với mình? Nhưng đây chỉ là vấn đề
thuần tuý trí tuệ. Đấy là chiến thắng của trí tuệ chứ không phải là
chiến thắng của vũ lực. Muốn người ta gắn bó với đường lối của mình thì
đàn áp tất cả các lực lượng đối lập bằng vũ lực là biện pháp hoàn toàn
không phù hợp. Sử dụng bạo lực trần trụi – nghĩa là không cần biện hộ
bằng những luận cứ được xã hội công nhận - chỉ làm cho những kẻ mà ta
muốn đánh có thêm nhiều bạn bè mà thôi. Trong cuộc đấu tranh giữa bạo
lực và tư tưởng, tư tưởng bao giờ cũng chiến thắng.
Hiện nay chủ nghĩa phát xít có
thể giành chiến thắng vì lòng căm thù những tội ác mà những người cộng
sản và xã hội chủ nghĩa gây ra cho nhân loại đã làm cho nhiều giới có
cảm tình với chúng. Nhưng khi ấn tượng tươi mới về tội ác của những
người Bolshevik đã phai mờ thì cương lĩnh của chủ nghĩa xã hội sẽ lại có
sức hấp dẫn đối với quần chúng. Vì chủ nghĩa phát xít không tiến hành
cuộc chiến đấu nhằm đánh bại nó, họ chỉ làm mỗi một việc là đàn áp những
tư tưởng xã hội chủ nghĩa và khủng bố những người truyền bá những tư
tưởng đó mà thôi. Nếu họ thực sự muốn chiến thắng chủ nghĩa xã hội thì
họ phải lấy tư tưởng làm vũ khí để đối địch với nó. Nhưng chỉ có một hệ
tư tưởng có thể đối địch một cách hiệu quả với chủ nghĩa xã hội, đấy
chính là chủ nghĩa tự do.
Như người ta thường nói, tạo ra
thánh tử đạo là cách thúc đẩy sự nghiệp nhanh chóng nhất. Câu đó chỉ
đúng một phần. Không phải sự đoạ đầy của những người ủng hộ phe bị đàn
áp mà chính là việc nó bị tấn công bằng vũ lực chứ không phải bằng trí
tuệ đã làm cho phe đó mạnh lên. Đàn áp bằng vũ lực bạo tàn chính là lời
thú nhận về sự bất lực về mặt trí tuệ, trí tuệ là vũ khí hữu hiệu hơn
bởi vì chỉ có nó mới có thể hứa hẹn chiến thắng cuối cùng. Đấy chính là
sai lầm căn bản của chủ nghĩa phát xít và đấy cũng là nguyên nhân đưa nó
đến chỗ sụp đổ. Chiến thắng của chủ nghĩa phát xít trong một loạt nước
chỉ là một giai đoạn trong cuộc đấu tranh lâu dài về vấn đề sở hữu. Giai
đoạn sau sẽ là chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, kết quả
cuối cùng của cuộc đấu tranh sẽ được giải quyết không phải bằng vũ khí
mà bằng tư tưởng. Chính các tư tưởng đã chia người ta thành những nhóm
đối chọi với nhau, tư tưởng đã đưa vũ khí vào tay họ, và tư tưởng quyết
định vũ khí sẽ được dùng để bảo vệ ai và chống lại ai. Chính tư tưởng,
chứ không phải vũ khí, sẽ đưa ra kết quả sau cùng.
Đấy là nói về chính sách đối nội
của chủ nghĩa phát xít. Chính sách đối ngoại, dựa trên nguyên tắc sử
dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, không thể không tạo ra những cuộc
chiến tranh bất tận, chắc chắn sẽ huỷ diệt toàn bộ nền văn minh hiện
nay. Đấy là điều không cần phải thảo luận nữa. Muốn giữ vững và thúc đẩy
hơn nữa trình độ phát triển kinh tế thì cần phải bảo đảm nền hoà bình
giữa các dân tộc. Nhưng các dân tộc không thể sống trong hoà bình nếu hệ
tư tưởng chủ đạo của họ lại là niềm tin rằng các dân tộc phải dũng vũ
lực thì mới bảo vệ được vị trí của mình trong cộng đồng các dân tộc trên
thế giới.
Không thể phủ nhận rằng chủ
nghĩa phát xít và những phong trào hướng đến việc thiết lập các chế độ
độc tài tương tự như thế đều là những phong trào có dự định tốt đẹp nhất
và sự can thiệp của chúng trong thời điểm hiện nay đã cứu được nền văn
minh châu Âu. Công lao mà chủ nghĩa phát xít đã giành được sẽ còn mãi
với lịch sử. Nhưng mặc dù trong thời điểm này, chính sách của nó đã cứu
được nền văn minh châu Âu, đấy vẫn không phải là chính sách hứu hẹn sẽ
thành công trong dài hạn. Chủ nghĩa phát xít là biện pháp cấp bách tạm
thời. Sẽ là sai lầm chết người nếu coi nó là một cái gì hơn thế. [Hiện
nay những dòng này nghe chẳng khác gì sự nhắc nhở về cái giá khủng khiếp
mà nền văn minh của chúng ta đã phải trả vì sự mù loà đầy bi kịch của
những đại diện đầy uy tín của giới tinh hoa trí thức ở cả phía Đông lẫn
phía Tây châu Âu – chú thích của bản tiếng Nga – ND].
11. Giới hạn hoạt động của chính phủ
Người theo trường phái tự do cho
rằng nhiệm vụ của nhà nước chỉ và dứt khoát chỉ là bảo đảm việc giữ gìn
đời sống, sức khoẻ, tự do và sở hữu tư nhân khỏi những cuộc tấn công
bằng bạo lực mà thôi. Ngoài những cái đó ra đều là không tốt. Chính phủ,
thay vì thực hiện nhiệm vụ của mình, lại đi xa đến mức, thí dụ, như can
thiệp vào sự an toàn về cuộc sống và sức khoẻ, tự do và tài sản của cá
nhân, dĩ nhiên là hoàn toàn không tốt.
Nhưng, như Jacob Burckhardt đã
nói: quyền lực tự nó đã là xấu, ai sử dụng không quan trọng. Quyền lực
có thể làm băng hoại người cầm quyền và dẫn đến lạm dụng. Không chỉ
những ông vua và những nhà quí tộc nắm quyền tuyệt đối, mà quần chúng,
khi chế độ dân chủ giao vào tay họ quyền lực tối cao của chính phủ, cũng
rất dễ có xu hướng thái quá.
Ở Mĩ việc sản xuất và buôn bán
rượu bị cấm đoán. [Ý nói đến điều luật gọi là “luật khô” ở Mĩ –chú thích
của bản tiếng Nga – ND]. Những nước khác không đi xa đến như thế, nhưng
hầu như ở đâu cũng có những hạn chế đối việc mua bán thuộc phiện,
cocaine, và những loại ma tuý khác. Có vẻ như ở đâu người ta cũng cho
rằng một trong những nhiệm vụ của ngành lập pháp và chính phủ là bảo vệ
cá nhân khỏi chính anh ta. Ngay cả những người, mà trong những lĩnh vực
khác thường lo ngại về sự mở rộng lĩnh vực hoạt động của chính phủ, cũng
cho rằng về khía cạnh này, quyền tự do cá nhân bị ngăn chặn là đúng,
thậm chí họ còn nghĩ rằng chỉ có những lí thuyết gia cố chấp ngu ngốc
mới có thể phản đối những cấm đoán như thế. Trên thực tế, việc can thiệp
kiểu như thế của chính quyền vào đời sống cá nhân được chấp nhận rộng
rãi đến mức những người chống đối chủ nghĩa tự do có xu hướng xây dựng
lí lẽ và rút ra kết luận rằng tự do tuyệt đối là không tốt và chính phủ,
trong vai trò người bảo vệ hạnh phúc, cần phải có một số biện pháp ngăn
chặn đối với quyền tự do cá nhân. Người ta không hỏi chính phủ có phải
ngăn chặn quyền tự do cá nhân hay không, người ta chỉ hỏi những biện
pháp ngăn chặn có thể đi xa đến mức nào mà thôi.
Không cần phí lời để bàn về sự
kiện là tất cả các loại ma tuý đều có hại. Câu hỏi là một ít rượu có có
hại hay không hay chỉ có hại khi rượu bị lạm dụng cũng không phải là vấn
đề cần thảo luận ở đây. Sự kiện đã được xác định là nghiện rượu, nghiện
cocaine, nghiện morphine rất có hại cho đời sống, sức khoẻ, khả năng
lao động và nghỉ ngơi và vì vậy mà những người theo chủ nghĩa công lợi
phải coi đấy là những tệ nạn. Nhưng như thế không có nghĩa là chính phủ
phải ngăn chặn những tệ nạn này bằng cách cấm buôn bán chúng. Chưa có gì
chứng tỏ rằng sự can thiệp của chính phủ có thể ngăn chặn được những
thói xấu đó, và ngay cả có ngăn chặn được thì điều đó cũng không có
nghĩa là nó không mở cái hòm Pandora và từ đó không xuất hiện những mối
hiểm nguy còn khủng khiếp hơn là tệ nghiện rượu và nghiện morphine.
Không ai cản trở những người cho
rằng sử dụng hay lạm dụng những chất độc đó là có hại được sống một
cách chừng mực và điều độ. Không nên coi vấn đề này chỉ liên quan đến tệ
nghiện rượu, nghiện morphine và cocaine ..v..v.. mà ai cũng biết là
không tốt rồi. Vì nếu về nguyên tắc, đa số các công dân có quyền áp đặt
lối sống của mình cho thiểu số thì việc cấm đoán sẽ không dừng lại ở
rượu, morphine, cocaine và những chất độc hại tương tự khác. Tại sao có
thể cấm các chất đó mà không cấm nicotine, caffeine và những chất tương
tự khác? Tại sao chính phủ lại không qui định có thể ăn loại thức ăn
nào, không nên ăn loại thức ăn nào vì đấy là thức ăn có hại? Trong lĩnh
vực thể thao nhiều người có xu hướng làm quá sức mình. Tại sao chính phủ
không can thiệp trong lĩnh vực này? Ít người biết cách kiềm chế trong
đời sống tình dục, và có vẻ như những người già yếu không chịu hiểu rằng
họ nên chấm dứt hoàn toàn thú vui này hoặc chỉ nên vừa phải thôi. Chính
phủ có cần can thiệp không? Một số người có thể nói rằng đọc sách báo
độc hại còn nguy hiểm hơn những thứ đó nữa. Có cho phép xuất bản những
loại sách báo chuyên thoả mãn những bản năng thấp hèn của con người để
rồi chúng sẽ làm băng hoại tâm hồn họ hay không? Có nên cấm tranh ảnh
khiêu dâm, những vở kịch đồi truỵ và tóm lại là tất cả những gì có thể
lôi kéo người ta vào con đường vô đạo hay không? Và việc truyền bá những
lí thuyết xã hội học sai lầm có làm bại hoại con người và các dân tộc
hay không? Kích động nội chiến và chiến tranh giữa các dân tộc có bị cấm
đoán hay không? Những tác phẩm báng bổ lỗ mãng và những câu chuyện hồ
đồ làm hại đến thanh danh của Chúa và Nhà thờ có bị cấm hay không?
Như chúng ta đã thấy, chỉ cần từ
bỏ nguyên tắc nói rằng chính phủ không được can thiệp vào bất cứ vấn đề
nào liên quan đến cách sống của cá nhân là chúng ta sẽ tiến dần đến
việc điều tiết và ngăn cấm cả những tiểu tiết nhỏ nhặt nhất. Quyền tự do
cá nhân sẽ bị huỷ bỏ. Cá nhân sẽ trở thành nô lệ của cộng đồng, phải
tuân theo mệnh lệnh của đa số. Chẳng cần phải nói thêm nữa về cách thức
mà những kẻ cầm quyền chẳng ra gì có thể lạm dụng quyền lực ở đây. Khi
đã nắm được quyền lực như thế, ngay cả những người có những ý định tốt
nhất cũng chắc chắn sẽ biến thế giới thành nghĩa địa của tâm hồn. Toàn
bộ nền văn minh nhân loại là kết quả của những sáng kiến của thiểu số
nhỏ bé, những người đầu tiên xa rời tư tưởng và tập quán của đa số, sau
đó đa số mới chấp nhận sáng kiến của họ. Cho đa số quyền hạ lệnh cho
thiểu số nghĩ gì, đọc gì và làm gì đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết,
một lần và vĩnh viễn, cho sự tiến bộ.
Chớ nên nói rằng cuộc đấu tranh
chống việc lạm dụng morphine và cuộc đấu tranh chống văn hoá phẩm “đồi
truỵ” là hai việc khác nhau. Khác biệt duy nhất giữa chúng là một số
trong chính những người ủng hộ cuộc đấu tranh chống lạm dụng morphine
không đồng ý chống văn hoá phẩm “đối truỵ”, chỉ có thế thôi. Ở Mĩ, những
người theo trường phái giám lí và những người chính thống trong giáo
hội Thiên chúa giáo, sau khi thông qua được luật chống sản xuất và buôn
bán rượu đã tiếp tục đấu tranh nhằm đàn áp thuyết tiến hoá và đã đẩy
được thuyết Darwin ra khỏi trường học trong một loạt tiểu bang. Ở nước
Nga Xô Viết mọi biểu hiện của tự do phát biểu đều bị cấm đoán. Việc một
cuốn sách nào đó có được xuất bản hay không phụ thuộc vào thái độ tuỳ
tiện của một loạt những kẻ cuồng tín ít học và vô văn hoá được chính phủ
giao cho trách nhiệm về vấn đề này.
Những người đương thời với chúng
ta có xu hướng đòi chính phủ cấm đoán ngay lập tức những thứ không làm
họ hài lòng và việc họ sẵn sàng chấp nhận những cấm đoán như thế ngay cả
khi đấy là những thứ phù hợp với họ chứng tỏ rằng tinh thần nô lệ đã ăn
sâu bén rễ trong lòng người ta đến mức nào. Cần phải nhiều năm tự học
thì một người nô lệ mới có thể trở thành công dân tự do. Người tự do
phải biết chịu đựng khi những người đồng bào với mình hành động và sống
khác với cách mà anh ta cho là đúng đắn. Anh ta phải bỏ thói quen gọi
cảnh sát mỗi khi thấy điều gì đó không vừa ý với mình.
12. Lòng khoan dung
Chủ nghĩa tự do chỉ và tuyệt đối
chỉ quan tâm đến đời sống trần tục và những lo lắng trần tục mà thôi.
Vương quốc tôn giáo không nằm trong thế giới này. Nghĩa là chủ nghĩa tự
do và tôn giáo có thể sống bên nhau mà không hề va chạm với nhau. Chủ
nghĩa tự do không có lỗi khi hai phía xảy ra đụng độ. Chủ nghĩa tự do
không đi ra ngoài lĩnh vực của mình, nó không xâm nhập vào lãnh thổ của
đức tin hay lãnh địa của các học thuyết mang tính siêu hình. Nhưng nó đã
đụng độ với nhà thờ, tức là thế lực chính trị đòi quyền điều tiết không
chỉ quan hệ của con người với thế giới bên kia mà còn điều tiết cả công
việc của thế giới này theo quan điểm của nó. Đấy chính là chiến tuyến
giữa hai bên.
Trong cuộc xung đột này, chủ
nghĩa tự do giành được chiến thắng vang dội đến mức nhà thờ đã phải vĩnh
viễn từ bỏ những yêu sách mà họ đã kiên quyết duy trì trong hàng ngàn
năm. Thiêu sống những người dị giáo, khủng bố của toà án giáo hội, chiến
tranh tôn giáo, hôm nay đấy đã là những hiện tượng thuộc về lịch sử.
Hiện nay không ai có thể hiểu làm sao mà những con người hoà nhã, những
người chỉ thực hành những nghi lễ tôn giáo mà họ cho là đúng đắn trong
bốn bức tường nhà mình lại bị lôi ra toà, bị tống giam, bị tra tấn và
thiêu sống. Nhưng ngay cả khi không còn những đống củi thiêu người nữa
ad majorem Dei gloriam [lạy chúa tôi - tiếng Latinh- ND] thì thái độ bất
khoan dung cũng vẫn còn hiện diện khắp nơi.
Nhưng chủ nghĩa tự do phải tỏ ra
bất khoan dung với bất kì biểu hiện bất khoan dung nào. Nếu ta cho rằng
sự hợp tác hoà bình giữa tất cả mọi người là mục đích của sự phát triển
xã hội thì ta không thể cho phép các cố đạo và những kẻ cuồng tín phá
hoại hoà bình được. Chủ nghĩa tự do tuyên bố có thái độ khoan dung với
mọi đức tin tôn giáo và mọi học thuyết có tính siêu hình không phải vì
nó bàng quan với những vấn đề “cao siêu” này, mà từ niềm tin rằng bảo
đảm hoà bình trong xã hội phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Và vì nó
đòi hỏi lòng khoan dung đối với tất cả các quan điểm, tất cả các nhà
thờ, tất cả các giáo phái nên nó cũng phải kêu gọi tất cả đều phải trở
về những giới hạn phù hợp mỗi khi họ có thái độ bất khoan dung. Trong
chế độ xã hội dựa trên sự hợp tác hoà bình, không có chỗ cho đòi hỏi của
nhà thờ về việc giáo huấn và giáo dục thanh niên. Nhà thờ có thể và
phải được nhận tất cả những thứ mà tín đồ tự nguyện cung cấp cho họ,
nhưng họ cũng không được động đến bất cứ thứ gì của những người không
muốn dây dưa với họ.
Thật khó mà hiểu làm sao mà
những nguyên tắc này lại làm cho một số người có đạo trong các tôn giáo
khác nhau trở thành kẻ thù của chủ nghĩa tự do. Nếu những nguyên tắc này
không cho phép nhà thờ buộc người ta phải cải đạo bằng bạo lực, dù đấy
là bạo lực của họ hay của nhà nước giao cho họ, thì những nguyên tắc này
cũng bảo vệ nhà thờ chống lại việc ép buộc các tín đồ của họ cải đạo
sang các nhà thờ khác và giáo phái khác. Cái mà chủ nghĩa tự do lấy của
nhà thờ bằng tay này thì lại trả nhà thờ bằng tay kia. Ngay cả những kẻ
cuồng tín tôn giáo cũng phải thừa nhận rằng chủ nghĩa tự do không lấy đi
bất cứ thứ gì thuộc lĩnh vực của nhà thờ.
Chắc chắn là ở đâu mà họ giữ thế
thượng phong thì nhà thờ và các giáo phái sẽ tìm mọi cách đàn áp những
người không qui phục, nhưng nếu là thiểu số thì họ sẽ đòi phải có thái
độ khoan dung đối với họ. Nhưng đòi hỏi sự khoan dung của chủ nghĩa tự
do khác hẳn với đòi hỏi khoan dung như thế. Chủ nghĩa tự do đòi hỏi
khoan dung là vấn đề nguyên tắc chứ không phải là chủ nghĩa cơ hội. Nó
đòi hỏi lòng khoan dung đối với ngay những học thuyết vô nghĩa lí nhất,
với những tín ngưỡng ngu ngốc nhất và trẻ con nhất. Nó đòi hỏi lòng
khoan dung đối với những học thuyết và quan điểm mà nó cho là có hại và
có tính phá hoại đối với xã hội và ngay cả với những phong trào mà nó
đang chiến đấu một cách không mệt mỏi. Điều thúc đẩy chủ nghĩa tự do đòi
hỏi và tỏ thái độ khoan dung không phải là nội dung của học thuyết cần
phải khoan dung mà chính là nhận thức rằng chỉ có lòng khoan dung mới có
thể tạo lập và giữ vững được nền hoà bình trong xã hội, không có nó thì
xã hội loài người có thể rơi trở lại thời kì dã man và cảnh cơ hàn của
những thế kỉ đã qua từ lâu.
Chủ nghĩa tự do đấu tranh chống
lại những điều ngu dốt, vô lí, sai lầm và độc ác bằng vũ khí của trí tuệ
chứ không phải bằng bạo lực hung tàn và đàn áp.
13. Nhà nước và hành động phản xã hội
Nhà nước là bộ máy cưỡng bức và
bạo lực. Điều đó đúng không chỉ đối với “nhà nước tuần đêm” mà còn đúng
cho bất kì nhà nước nào, và đúng nhất đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tất cả những gì nhà nước có thể làm đều được nó làm bằng cách cưỡng bức
và dùng vũ lực. Đàn áp những hành vi nguy hiểm cho trật tự xã hội là
bản chất hoạt động của nhà nước; ngoài ra, trong chế độ xã hội chủ
nghĩa, nó còn kiểm soát cả các tư liệu sản xuất nữa.
Những người Roma có đầu óc tỉnh
tảo đã thể hiện điều đó bằng hình vẽ một cái búa và bó roi trên biểu
tượng của quốc gia. Trong thời đại ngày nay chủ nghĩa thần bí cực kì khó
hiểu, tự gọi mình là triết học, đã tìm mọi cách nhằm che dấu sự thật
của vấn đề. Đối với Schelling thì nhà nước là hình ảnh trực tiếp và có
thể nhìn thấy được của đời sống xác thực, là một giai đoạn trong quá
trình khám phá cái Tuyệt Đối hay là Tinh Thần Thế Giới. Nhà nước tồn tại
vì mục đích của chính nó, và hoạt động của nó cũng chỉ nhằm giữ vững
bản chất và hình thức tồn tại của nó mà thôi. Đối với Hegel thì Lí Trí
Tuyệt Đối tự thể hiện mình trong nhà nước, và Tinh Thần Khách Quan cũng
được thực hiện trong nhà nước. Đấy là trí tuệ đầy đức hạnh phát triển
thành hiện thực hữu cơ - tức là hiện thực và ý tưởng đạo đức được biểu
hiện ra như là ý chí đã được vật chất hoá, có thể nhận thức được đối với
chính nó. Các đồ đệ của triết học duy tâm chủ nghĩa đã vượt ngay cả các
sư phụ của mình trong việc sùng bái nhà nước. Chắc chắn là những người
cùng với Nietzsche, nhằm phản ứng lại những học thuyết nói trên và những
học thuyết tương tự như thế, gọi nhà nước là con quái vật lạnh lùng
nhất cũng chẳng đền gần chân lí hơn. Nhà nước chẳng lạnh cũng chẳng nóng
vì nó là một khái niệm trừu tượng và những người đang sống – các tổ
chức của nhà nước, chính phủ - thay mặt nó mà hành động. Toàn bộ hoạt
động của nhà nước đều là hành động của con người, là cái ác do con người
tự tạo ra cho nhau. Mục đích của nhà nước - tức là duy trì trật tự xã
hội - biện hộ cho hành động của các cơ quan nhà nước, nhưng những người
bị tác động thì không vì thế mà cảm thấy cái ác là dễ chịu hơn. Cái ác
mà người nọ gây ra cho người kia làm cả hai đều bị tổn thương – không
chỉ người bị làm ác mà cả kẻ gây ra cái ác cùng bị đau khổ. Không gì có
thể làm cho người ta thoái hoá nhanh hơn là khi họ trở thành phương tiện
thi hành pháp luật và làm cho người khác bị đau khổ. Số phận của thần
dân là phải lo lắng, là tinh thần nô lệ và thái độ nịnh bợ; thái độ cao
ngạo đạo đức giả, kiêu căng của ông chủ cũng chẳng có gì hay ho hơn.
Chủ nghĩa tự do tìm cách giảm
nhẹ mức độ cay đắng trong quan hệ giữa cơ quan chính chính phủ và công
dân. Dĩ nhiên là trong khi làm như thế nó sẽ không bước vào vết chân của
những người lãng mạn, tức là những người biện hộ cho những hành vi phản
xã hội của những người vi phạm pháp luật và lên án không chỉ quan toà
và cảnh sát mà còn lên án cả trật tự xã hội nữa. Chủ nghĩa tự do không
muốn và không thể phủ nhận rằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước và sự
trừng phạt theo đúng pháp luật những kẻ tội phạm là những định chế mà xã
hội không bao giờ - dù hoàn cảnh có như thế nào - bãi bỏ được. Nhưng
người theo chủ nghĩa tự do tin rằng mục đích của trừng phạt là loại bỏ
những hành vi có hại cho xã hội, đấy là nói khi có điều kiện. Trừng phạt
không được có tính thù hận hay trả đũa. Kẻ tội phạm phải nhận sự trừng
phạt của pháp luật chứ không phải là do lòng thù hận hay sự tàn bạo của
quan toà, của cảnh sát hay đám đông khao khát đàn áp.
Tai hoạ lớn nhất của lực lượng
cưỡng bức tự coi mình là người “đại diện cho nhà nước” là nó trực tiếp
tấn công vào những sáng kiến mới xuất hiện vì cuối cùng thì bao giờ nó
cũng cần sự đồng thuận của đa số. Xã hội loài người không thể sống thiếu
bộ máy nhà nước, nhưng loài người lại phải chống lại sự phản kháng và
chống đối của nhà nước và bộ máy cưỡng chế của nó thì mới tiến bộ được.
Không có gì ngạc nhiên khi tẩt cả những người có cái mới để trình bày
với nhân loại đều không thể nói được bất cứ điều gì tốt đẹp về nhà nước
và luật pháp của nó. Những người theo chủ nghĩa quốc gia thần bí và
những người sùng bái nhà nước có thể phản đối họ; nhưng những người theo
trường phái tự do thì ủng hộ họ, ngay cả khi không đồng ý với họ. Nhưng
mọi người theo trường phái tự do đều phải chống lại sự ác cảm có thể
hiểu được với tất cả những gì liên quan tới cảnh sát và cai tù, đấy là
nói khi thái độ đó trở thành kiêu căng quá đáng và tự tuyên bố là quyền
nổi loạn chống lại nhà nước. Phản kháng bằng bạo lực chống lại sức mạnh
của nhà nước phải được coi là biện pháp cuối cùng của phe thiểu số nhằm
thoát ra khỏi sự áp bức của đa số. Thiểu số cần phải sử dụng trí thức
làm vũ khí trong cuộc đấu tranh để trở thành phe đa số. Nhà nước cần
phải được xây dựng như thế nào đó để trong khuôn khổ pháp luật của nó có
những chỗ trống cho phép cá nhân được tự do di chuyển trong đó. Hoạt
động của người công dân không bị thu hẹp một cách quá đáng đến mức khi
quan điểm của anh ta khác với nhà cầm quyền thì anh ta chỉ còn lựa chọn:
lật đổ bộ máy nhà nước hay là chết.
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét