Nguyên tác: Hayes Richard
Việt dịch:
Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
---o0o---
Phật giáo
(PG) là một thành tố quan trọng hỗn hợp các triết lý khác của tiểu lục địa
Ấn Độ trong hơn một ngàn năm qua. Từ phần đầu khá lặng lẽ vài thế kỷ trước
Tây lịch, nền học thuật PG gia tăng sức mạnh cho tới khi đạt đến đỉnh cao
ảnh hưởng và tính chất độc đáo trong nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Từ
thế kỷ thứ mười một trở đi, PG dần dần suy thoái và cuối cùng biến mất ở
miền Bắc Ấn Ðộ. Mỗi nhà tư tưởng chú trọng vào những đề tài khác nhau,
nhưng khuynh hướng chung của đa số họ là trình bày một hệ thống triết lý
nhất quán, bao gồm đạo đức học, tri thức học và siêu hình học. Phần lớn
những đề tài mà các triết gia PG Ấn này viết là phát xuất trực tiếp từ
những giáo lý được xem là của Sĩ-đạt-ta Cồ Ðàm
(Siddhartha Gautama), thường được tôn xưng bằng danh hiệu là Ðức Phật.
Giáo lý chính yếu của Ðức Phật là
diệt khổ. Ngài nhận thấy rằng chúng sinh phải chịu đựng đau khổ vì tham
lam, sân hận và si mê, và nguyên nhân của những điều độc hại này là vô
minh, tức là con người không hiểu biết về chính mình. Có thể hiểu khổ đau
là bất như ý, không được đạt những gì mình muốn. Nếu những mong muốn của
họ thường là không thực tế và do đó không thể đạt được, tất nhiên con
người phải bất mãn. Vì Ðức Phật trông thấy điều ấy và hậu quả của sự không
hiểu biết về tính chất của con người nên tự nhiên các triết gia PG xét
những câu hỏi có liên quan tới chân tính của con người. Vì chính Ðức Phật
được xem là tấm gương đạo đức hoàn hảo nên các triết gia thuộc thời kỳ này
cũng tìm hiểu xem ngài thuộc hạng người nào. Một câu hỏi tiêu biểu là
người ta thường có hy vọng làm theo gương Ðức Phật hay không, hay vai trò
của Ngài còn có một tính cách nào đó khác với vai trò của vị thầy hướng
dẫn người khác cách tu sửa bản thân.
Ðức Phật phê bình nhiều quan điểm
về nhân tính, đạo đức và bổn phận của các tỳ kheo cùng thời với ngài. Một
số những quan điểm này căn cứ vào những tư tưởng trong kinh Vệ Ðà mà người
Ấn Giáo dùng trong việc cử hành lễ nghi. Những thế hệ tín đồ PG sau đó đã
bỏ ra nhiều công sức để phê bình việc người Ấn Giáo tuyên bố Kinh Vệ Ðà là
siêu đẳng so với kinh sách của các tôn giáo khác. Cùng lúc đó, tín đồ PG
có khuynh hướng đặt niềm tin của họ vào sự chứng nghiệm bản thân và lý
trí. Sự quan tâm tới việc đạt tri kiến chân chính bằng cách lý luận đúng
đắn đưa tới sự quan tâm tới những vấn đề luận lý và tri thức học, và do đó
che phủ tất cả những
quan điểm quan tâm triết học khác nhau trong năm thế kỷ cuối cùng
mà trong thời gian này PG là một thành tố quan trọng trong triết học Ấn
Độ.
Vì Ðức Phật thấy đau khổ là một
hậu quả có thể diệt được nếu người ta diệt nguyên nhân của nó,
nên tất nhiên các triết gia PG tập trung tâm trí vào những vấn đề
liên quan đến luật nhân quả. Có bao nhiêu loại nguyên nhân? Một nguyên
nhân có thể có nhiều hậu quả hay không?
Một vật có thể có nhiều nguyên nhân hay không? Một vật tiềm ẩn trở
thành một vật thực sự như thế nào? Những vấn đề liên quan tới sự đơn nhất
và sự đa tạp được bàn tới rất nhiều khi người Phật tử thảo luận về những
loại sự vật nào ở thế gian này là tuyệt đối có thật? Trong một truyền
thống coi trọng giáo lý dạy rằng đau khổ phát xuất từ
sự vô minh, không hiểu biết bản chất chân thật của sự vật thì tự
nhiên người ta phải tìm những tiêu chuẩn để dựa vào đó mà phân biệt những
cái có thật tuyệt đối với những cái giả tạm.
1. Nhân tính:
Giáo lý chính yếu của Phật giáo
dạy rằng đau khổ có nguyên nhân là ái dục, và ái dục phát sinh từ tà kiến.
Những tà kiến lớn nhất là:
1/ Sự sống của bản thân quan trọng
hơn sự sống của người khác
2/ Có thể đạt được sự như ý bằng
cách thủ đắc và sở hữu tài sản.
Ðức Phật nói rằng nếu biết thay
thế những tà kiến (sự hiểu biết sai lầm) này bằng chánh kiến về bản tính
của con người thì tính tham dục không thực tế sẽ tiêu diệt, và do đó đau
khổ cũng không còn. Nói cách khác, người ta có thể đạt được hạnh phúc bằng
cách nhận biết rằng: (1) không có ai quan trọng hơn người khác, vì mọi vật
đều có cùng chân tính, và (2) ý tưởng chiếm hữu là nguyên nhân của mọi sự
xung đột giữa các chúng sinh. Theo Ðức Phật, cách đạt được mãn nguyện hay
giải thoát có hai tính chất là tâm trí và hành vi cụ thể. Người ta có thể
dần dần thoát khỏi những tà kiến gây đau khổ cho mình và người khác bằng
cách quan sát kỹ những cảm xúc và những ý nghĩ của mình, và tìm hiểu xem
lời nói và hành động của mình có ảnh hưởng tới người khác như thế nào. Ðể
loại bỏ tà kiến coi mình quan trọng hơn người khác, các triết gia PG dùng
một chiến lược cấp tiến là cố gắng làm cho người ta thấy rằng sự thật con
người không có một tự ngã nào cả, tức là họ ra sức trình
bày rằng không có gì về một con người cố định suốt đời, và rằng
cũng không có gì để người ta có thể kiểm soát thật sự được. Nếu không nhận
thấy sự không ổn định, sự tán loạn và sự bất trị của thân thể và tâm trí
thì đó là nguyên nhân chính của sự đau khổ, thuộc loại mà người ta có thể
tránh được bằng cách chấp nhận sự vật theo tính chất thật sự của chúng.
Còn hiểu rằng chúng sanh đều mưu cầu hạnh phúc, sự hiểu biết này là một
giai đoạn quan trọng trong tiến trình giác ngộ rằng không có nhu cầu riêng
tư nào quan trọng hơn nhu cầu của người khác.
Ý tưởng cho rằng người ta không có
“cái ta” trường tồn nào cả ở hai phương diện, phương diện cá nhân và
phương diện xã hội. Ở mức cá nhân thì triết học PG xem con người là một
phức hợp gồm mấy chục hành vi về thân thể và tâm trí, chứ không phải là
một thể đơn nhất thuộc một loại nào đó thường tồn trong khi tất cả những
tính chất phụ thuộc biến đổi. Vì những hành vi thành tố này biến đổi không
ngừng nên cái toàn thể do những thành phần đó (ngũ uẩn) kết hợp thành luôn
luôn có ít nhất là một tính chất khác biệt nào đó (cảm xúc, tư tưởng).
Thông thường người ta có khuynh hướng xem mình có một nhân cách hay cá
tính cố định nhưng Ðức Phật dạy rằng người ra luôn luôn có thể tu sửa tâm
tính của mình bằng sự nỗ lực có ý thức, hoặc để cho tâm tính của mình trở
nên xấu hơn do lười biếng và vô ý thức. Về mặt xã hội thì khác với những
quan điểm nổi trội trong thời kỳ của Ngài, Ðức Phật nói rằng vị trí của
một người trong xã hội không do huyết thống của người đó quy định. Theo
quan điểm nổi trội của xã hội Ấn Ðộ cổ đại, địa vị, bổn phận và đẳng cấp
xã hội của một người được quy định theo mức thanh tịnh có tính cách nghi
thức và chính mức thanh tịnh này chịu ảnh hưởng của dòng dõi và những nhân
tố khác vốn có tính cách thường trực trong suốt cuộc đời của người đó. Các
triết gia PG phản bác quan điểm này, và họ định nghĩa thanh tịnh và cao
quý một cách khác. Thay vì thanh tịnh do huyết thống, họ chủ trương rằng
mức độ trong sạch của một người được quy định bằng hành vi hay nghiệp của
người đó trong những kiếp trước. Như vậy theo tiêu chuẩn PG thì
người thực sự cao quý không phải là người có tổ tiên thanh tịnh và
đáng kính, mà là
người đã có thói quen tạo nghiệp tốt và trong sạch.
Với điểm khởi hành là những ý
tưởng căn bản về nhân tính này, các thế hệ tư tưởng gia PG sau đó có nhiệm
vụ giải thích cơ chế hoạt động cùng
với nhau của những thành phần tạo nên thân tâm con người. Họ cũng
cố gắng giải thích con người có thể dần dần thay đổi cá tính của mình như
thế nào. Về tổng quát thì họ đồng ý rằng ý định hành động của con người sẽ
đưa tới những trạng thái tâm vốn là cảm giác dễ chịu, hành động xấu sẽ gây
ra
trạng thái tâm khó chịu. Tuy nhiên những chi tiết chính xác về sự
vận hành của luật nhân quả thì vẫn còn một vấn đề gây nhiều tranh luận.
Một vấn đề đặc biệt khó giải quyết là những nghiệp được tạo trong một kiếp
có thể ảnh hưởng tới tâm tính của một người trong kiếp sau như thế nào.
Một điều đáng ghi nhận là khi nói về cách tu sửa tâm tính thì như vậy có
nghĩa là người ta đã không trở nên hư hoại tới mức không thể cứa chữa
được. Có một điểm tranh luận xuất hiện giữa các nhà tư tưởng PG là có hay
không có những người quen tạo nghiệp xấu tới mức không
thể có cả ý định tu sửa tâm tính, nếu có thì những người như vậy
chắc sẽ phải chịu luân hồi bất tận.
Ðối với PG thì con người là một
sự kết hợp của những thành phần (năm uẩn) có nội dung luôn biến đổi. PG
dùng thuyết này để tránh hai thuyết về nhân tính khác có tính cách cực
đoan. Một thuyết cho rằng con người có phần tinh túy nào đó không biến đổi
trong mọi trạng thái. Phần tinh thần vẫn còn tồn tại sau khi thể xác đã
chết và sẽ có một thể xác mới trong tiến trình luân hồi. Theo thuyết này
thì phần tinh túy của con người là vĩnh cửu. Thuyết cực đoan thứ hai cho
rằng con người bắt đầu có cá tính vào lúc ra đời, nhưng mất hết cá tính
lúc chết. Thuyết PG được xem là trung đạo ở giữa hai biên kiến đó thì cho
rằng cá tính của con người luôn biến đổi, và những nhân tố quyết định
những sự thay đổi trong tâm trí con người đó vẫn tiếp tục hoạt động sau
khi thể xác đã chết. Vì vậy Phật giáo thường nói rằng cái chuyển di từ một
thể xác này đến một thân xác khác không phải là một tinh thần bất biến nào
mà là một bộ những tập tính cư xử theo một cách nào đó.
2. Ðạo Ðức:
Ðộng lực lớn nhất làm cho người ta
chấp nhận thuyết luân hồi là ủng hộ ý kiến cho rằng con người chịu trách
nhiệm về những hành động của mình cho tới tận cuối đời. Như vậy thuyết
luân hồi giữ vai trò trung ương trong đạo đức học PG. Như đã nói trong
phần trước, quan niệm về con người của PG được coi là con đường trung dung
giữa hai ý kiến cực đoan. Về mặt hành vi cũng vậy, PG cho rằng quan điểm
về hành vi của họ là trung
đạo giữa hai biên kiến về hành vi con người. Ðể hiểu những ý kiến
khác với định nghĩa của PG về hành vi đúng đắn, chúng ta nên nhớ rằng vấn
đề chính yếu mà Ðức Phật và các vị Thầy cùng thời với ngài thảo luận là
làm sao để đạt được phúc lạc, hay sự mãn nguyện. Những quan điểm khác nhau
về điều này của các nhà tư tưởng liên quan chặt chẽ đến những quan điểm
khác nhau về việc có hay không có luân hồi. Những người cho rằng người ta
chỉ sống một kiếp độc nhất biện luận rằng sống ở trên đời chỉ nên tìm thú
vui mà thọ hưởng, miễn là không tới mức nguy hiểm cho mạng sống của mình
và không làm giảm cơ hội hưởng lạc thú trong tương lai. Còn những triết
gia chấp nhận thuyết luân hồi thì nghĩ rằng chỉ có một loại hạnh phúc đáng
để tìm cầu, đó là thoát khỏi những đau khổ của đời sống, và điều này chỉ
có thể được thực hiện bằng
cách chấm dứt luân hồi. Họ nói rằng sau khi chết, một sinh linh
khác sẽ tái sinh trong một hình thức sự sống được quy định bởi những
nghiệp quả mà y đã tạo trong những kiếp trước. Có những hình thức sự sống
rất dễ chịu và là một loại phước báo phát xuất từ việc tạo thiện nghiệp
trong quá khứ, những hình thức sự sống đều có một lượng khổ đau nào đó, dù
đó có thể là một sự lo ngại rằng đời sống hạnh phúc mà mình đang hưởng rồi
sẽ chấm dứt và thay vào đó là một hình thức đau khổ về thể xác và tâm trí
trực tiếp hơn. Vì vậy, hy vọng độc nhất về một sự thoát khổ vĩnh viễn là
chấm dứt vòng sinh tử luân hồi. Cách thoát luân hồi vẫn còn là một vấn đề
gây nhiều tranh luận, nhưng cũng đã có những phương pháp cực đoan có tính
cách hành xác. Pháp tu của PG thì có tính cách trung dung, tránh hai thái
cực: một là chủ trương hưởng lạc thú của đời sống của những người không
tin là có kiếp trước hay kiếp sau và thái cực kia là sự tự hành xác của
những người tu khổ hạnh.
Các triết gia PG nghĩ rằng trạng
thái tâm trí của một người ở bất cứ một
khoảnh khắc nào, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc trung tính (vô ký). Ðiều
này có nghĩa là tất cả những tính chất tâm trí của người vào một lúc nào
đó đều hướng về một phía, hoặc về phía trạng thái hạnh phúc, hệ quả tự
nhiên của đức hạnh, hoặc về phía trạng thái khổ đau hay bất như ý, hệ quả
tự nhiên của tội lỗi. Những đức tính chính yếu được xem là hợp tác với
nhau trong một tâm trí lành mạnh là sự hiểu biết đúng, tự biểu
lộ như ý thức hổ thẹn và ý thức lịch sự, thường được diễn dịch là
sự tự trọng và sự tôn trọng người khác.Vậy, nếu một người có đức tính biết
hổ thẹn thì khi ý thức hổ thẹn hoạt động, người đó cũng có những đức tính
quảng đại, ngay thẳng và khoan dung. Khi có những đức tính này, người ta
có khuynh hướng hành xử một cách lành mạnh cho bản thân và người khác.
Ngược lại, nếu có tính không biết hổ thẹn thì người ta cũng sẽ có những
lỗi si mê và loạn động, và do đó
sẽ có những hành vi có hại cho bản thân và
cho người khác. Những tính tốt và những tính xấu không thể hiện
diện trong cùng một tâm trí vào cùng một lúc, nhưng rất có thể xảy ra cho
một người dao động giữa trạng thái tâm đức hạnh và trạng thái tâm tội lỗi.
Ðiều này được coi là tình trạng chung của đại đa số con người.
Nói chung thì các triết gia PG
đồng ý với nhau về những điều này, nhưng họ không cùng ý kiến với nhau về
một số vấn đề khác. Thí dụ họ tranh luận với nhau về vấn đề người ta có
thể đạt được những mức thành tựu mà từ đó họ không thể thoái chuyển hay
không. Có những vị biện luận rằng một khi người ta đạt được một mức độ trí
tuệ giác ngộ chân lý nào đó thì họ sẽ không thể còn vô minh tới mức hành
động với những động
lực vị kỷ. Các vị khác thì cho rằng ngay cả khi có những hành giả
khó thoái chuyển, về nguyên tắc sự thoái chuyển vẫn luôn luôn là điều khả
hữu, và như vậy người ta không bao giờ có thể tự mãn với mức thành tựu của
mình. Một điểm tranh luận nữa là người tội lỗi có thể có ý thức
trọn vẹn về những đức
tính của người đức hạnh hay không. PG cho rằng chỉ có người đức
hạnh mới có thể nhận ra được một người đức hạnh khác. Lại có một vấn đề
tranh luận nữa là có thể hồi hướng công đức của những người đức hạnh cho
người khác hay không. Có ý kiến cho rằng mỗi người chịu trách nhiệm cho
những hành động của chính mình và không ai có thể thoát được hậu quả của
những nghiệp xấu mà mình đã tạo. Có người nói rằng có thể hồi hướng công
đức cho người khác để họ cũng có đạt được mức thành tựu mà họ không bao
giờ
có thể đạt được bằng công đức tu tập của chính mình. Liên quan chặt
chẽ với điểm tranh luận này là vấn đề đã nói ở phần trên về những người sa
vào tình trạng hư hoại tới mức không còn có thể nghĩ đến việc tu sửa bản
thân. Những triết gia nào cho rằng người ta có thể trở nên hư hoại tới mức
như vậy nhưng không đồng ý là có thể hồi hướng công đức thì đã phải kết
luận rằng có những người không bao giờ đạt đến niết bàn tức là thành tựu
viên mãn. Những triết gia khác không tin vào thuyết cho rằng có những
người phải chịu khổ đau luân hồi bất tận. Họ tin rằng công đức có thể được
hồi hướng để giúp những người hư hoại cùng cực có thể chuyển hóa tâm trí,
hướng về lối sống đạo đức.
3. Phật tính:
Ngay cả trong những văn bản xưa
nhất của PG còn tồn tại đến ngày nay, Ðức Phật đã được mô tả bằng nhiều
nét khác nhau. Có những đoạn kinh văn viết rằng ngài là người khéo trả lời
những câu hỏi mà người ta đặt ra cho ngài, hoặc bằng cách giải đáp câu hỏi
hoặc bằng cách cho thấy câu hỏi đề ra không thể trả lời được. Rõ
ràng những đọan kinh văn này soạn với mục đích mô tả Ðức Phật như hiện
thân của trí tuệ, và lối tư duy minh triết của ngài có thể được dùng làm
khuôn mẫu cho những ai muốn đạt tri kiến chân xác. Ðức Phật cũng được mô
tả như một tấm gương đức hạnh, một người đã quán thông nghệ thuật sống ở
thế gian mà không làm hại tới những sinh linh khác, và là
người có tâm từ bi lớn nhất đối với chúng sanh. Hòa vào những đoạn
kinh văn mô tả Ðức Phật như một người xuất chúng này là những đoạn viết về
ngài như một siêu nhiên có những quyền năng tâm linh như có thể vượt qua
những khoảng cách hàng trăm cây số trong chớp mắt, di chuyển bản thân ngài
và các đệ tử ở giữa không trung, đọc được ý nghĩa của người khác, nhìn
thấy quá khứ và tương lai, chữa lành những vết thương nghiêm trọng chỉ
bằng cách nhìn vào những vết thương đó, và nhiếp phục thú dữ chỉ bằng cách
nhẹ nhàng với chúng. Có những văn bản viết rằng ngài khuyên các đệ tử nên
thắc mắc với tất cả những gì ngài nói, và không nên chấp nhận điều gì chỉ
vì kính trọng uy
quyền của ngài. Trong những đoạn khác, ngài được mô tả như một
người mà ngay cả những vị thần trí tuệ và thông thái nhất cũng tới để được
nghe ngài giảng về những điều bí ẩn thâm diệu của vũ trụ bằng những lời rõ
ràng. Với những điều nói về Ðức Phật như vậy trong những kinh mà người
Phật tử xem là có thẩm quyền, người ta không ngạc nhiên khi thấy trong số
đề tài tranh luận lớn có đề tài bàn về tính cách của chính Ðức Phật. Ðối
với các triết gia PG, việc thảo luận về tính chất của Thượng Ðế của các
nhà thần học thuộc những tôn giáo thờ chúa trời.
Văn bản có sớm nhất ghi lại những
điểm tranh luận về tính chất của Ðức Phật là một tác phẩm có tên là
“Kathavatthu” (Luận Sự) được coi là do trưởng lão Tissa Moggaliputa viết
vào khoảng năm 246 trước Tây Lịch. Cuốn sách này nói tới hơn hai trăm đề
tài tranh luận của Phật Giáo, trong đó có những đề tài về tính chất của
Ðức Phật. Theo cuốn sách này thì có những người Phật Tử
cho rằng Ðức Phật có ở mọi nơi trong không gian vào mọi thời, và có quyền
năng tùy ý đình chỉ mọi quy luật thiên nhiên, những người khác phản biện
rằng Ðức Phật chỉ hiện hữu ở nơi mà xác thân của ngài trụ, và ngài cũng
chịu sự chi phối của luật thiên nhiên giống như tất cả những sinh linh
khác. Những người coi Ðức Phật là một thực thể trường tồn có ở khắp nơi
thường nói rằng Ðức Phật ở thế gian chỉ là sự biểu lộ trong hình thể con
người với mục đích hướng dẫn chúng sinh. Họ nói rằng thật ra xác thân của
Ðức Phật không cần thực phẩm, chỗ ở, và những nhu cầu vật chất khác để
sống, nhưng ngài vẫn nhận những phẩm vật dâng cúng của các tín đồ để họ có
cơ hội tạo công đức bằng hạnh bố thí. Thêm nữa, xác thân này được coi là
hoàn toàn không có những cảm giác khó chịu về thể xác hay tâm trí của một
con người, và không bao giờ có những ý nghĩ nào không hướng tới việc dạy
mọi người cách tu tập và chứng đắc. Những người Phật Tử
khác bác bỏ hoàn toàn quan điểm này về Ðức Phật và biện luận rằng ngài là
người phàm giống như tất cả những chúng sanh khác, chỉ có điều là trong số
lượng đề tài có giới hạn mà ngài biết có đề tài về cách đạt an lạc vĩnh
cửu. Vấn đề này được tranh luận trong suốt một ngàn năm ở Ấn Ðộ,
với luận sư Dharmakirti và một số đệ tử của ngài cho rằng Ðức Phật là
người thường, còn những người thuộc phái Yogacara thì nói rằng ngài là một
nguyên lý vũ trụ. Sau cùng, luận sư Ratmakirti thuộc thế kỷ mười một biện
luận rằng tất cả những hoạt động của tâm trí cá thể chỉ là một thành phần
của tâm thức vũ trụ độc nhất mà ngài gọi là Phật tâm.
Quan điểm của Ratmakirti có thể là
kết luận hợp lý của một ý tưởng được nói tới lần đầu tiên trong cuốn
“Kathavathu”, đó là một người trở thành Ðấng Giác Ngộ (Buddha) bằng cách
đạt một phẩm tính được gọi là giác ngộ (bodhi). Chính trưởng lão Tissa
Moggaliputta bác bỏ ý tưởng này. Ngài nói rằng nếu giác ngộ là một cái gì
mà người ta có thể thủ đắc thì nó cũng phải là một cái gì người ta có thể
bị mất, và trong trường hợp đó một vị Phật sẽ không còn là Phật nữa. Ngài
cho rằng giác ngộ không phải là một đức tính tích cực, mà chỉ là sự không
vô minh. Những người Phật Giáo khác (đặc biệt là phái Yogarara) không đồng
ý như vậy. Họ nói rằng các vị Phật trở thành Phật do đã chứng ngộ tiềm
năng giác ngộ trong bản thân. Tiềm năng nội tại này được gọi là bào thai
của đấng giác ngộ tức “như lai tạng” (tathagata-garbha) được coi là có
trong mỗi sinh linh, và do đó làm cho chúng sinh đều là Phật hay ít nhất
thì cũng sẽ thành Phật. Từ ý tưởng chúng sinh đều có Phật tính, dù còn bị
màn vô minh che phủ, chỉ còn một bước ngắn nữa là đi tới ý tưởng chúng
sinh về bản thể là một và do đó không có điểm khác nhau thực sự nào. Liên
quan chặt chẽ tới đề tài Phật tính là vấn đề có những chứng đắc Phật Quả
khác nhau hay những cấp khác nhau hay không. Trưởng lão Tissa Moggaliputa
đã biện luận rằng một vị Phật là người đã thoát vô minh, và người ta hoặc
thoát hoặc không thoát vô minh, chứ không có những mức độ giải thoát khác
nhau. Các nhà tư tưởng khác thì cho rằng chúng sinh đều có Phật tính tiềm
ẩn, nhưng họ biểu lộ Phật tính này với những mức độ khác nhau, vì vậy mà
có
thể nói là có những mức Phật Quả khác nhau.
4. Tri thức học:
Kinh điển Phật Giáo viết rằng Phật
Thích Ca phê bình nghi thức hiến tế sinh vật của người Ấn Ðộ Giáo và tố
cáo các đạo sĩ đã đặt ra tục lệ này chỉ để lấy tiền của người giàu có và
khống chế người có thế lực. Ðiều này đưa tới việc thách thức thẩm quyền
của kinh Veda mà các đạo sĩ coi là thiêng liêng. Một trong những triết gia
Phật Giáo đầu tiên thách thức uy quyền của kinh điển này là luận sư
Nagarjuna (Long Thọ), người đề ra loại niềm tin có biện minh. Trong tác
phẩm “Vigrahavyavartani” (Hồi Tránh Luận), Nagarjuna nói rằng mọi ý kiến
đều được bảo đảm bằng cách dựa vào kinh nghiệm bản thân hay dựa vào những
cách lý luận khác nhau, hoặc dựa vào thẩm quyền của truyền thống. Nhưng
trong số những ý kiến có ở trên đời này có ý kiến cho rằng tất cả những ý
kiến đều được bảo đảm bằng những cách nói trên. Nhưng hình như không có gì
bảo đảm cho chính ý kiến này. Nếu nói rằng ý kiến này tự bảo đảm thì tại
sao lại không thể nói rằng tất cả những ý kiến khác cũng tự bảo đảm? Còn
nếu ý kiến này cần phải được chứng minh thì kết quả sẽ là một sự xét lại
bất tận. Luận sư Nagarjuna nói rằng như vậy không ý kiến nào là có căn cứ
vững chắc. Vậy đối với ngài thì cách đáng tin cậy nhất để thoát vô minh
gây đau khổ luân hồi là nhận thức rằng người ta không thể nào đạt được một
điều gì vững chắc. Vì vậy giải trừ vô minh không phải là việc tìm ra sự
thật mà là việc nhận ra rằng tất cả những ý kiến vốn đưọc coi là tri thức
chân chính thật ra không phải là tri kiến gì cả.
Sự nghi ngờ của luận sư Nargajuna
đã thu nhiếp được tinh thần của những đoạn kinh văn Phật giáo nói về việc
Ðức Phật phê bình thẩm quyền của các vị thầy khác, nhưng lại không nói rõ
về cách phân biệt ý kiến đúng và ý kiến sai. Vì vậy đa số triết gia Phật
Giáo sau Nagarjuna đã chú trọng tới việc loại bỏ ý kiến sai và đạt tri
kiến chân xác. Luận sư Dignaga sửa đổi lý thuyết về tri kiến của các nhà
tư tưởng Ấn Giáo và nói rằng chỉ có hai loại tri kiến, mỗi loại có đề mục
riêng của mình: qua các giác quan người ta đạt tri kiến về những vật có sự
hiện hữu vật chất, còn lý trí thì giúp người ta lập ý niệm về những kinh
nghiệm quá khứ và tương lai.
Trong tác phẩm quan trọng
“Alambanapariksa” (Quán Sở Duyên Luận) Dignaga diễn giải một luận điểm của
luận sư Vasubandhu. Ở đây Dignaga lý luận rằng một nhận thức chỉ chính xác
khi đề mục của sự nhận thức đó cũng là đề mục gây ra sự phát khởi của ý
thức. Thí dụ, một người trông thấy một thân cây chết ở trong bóng tối và
nhận lầm nó là một người thì như vậy đề mục của sự nhận thức đó là một
người, khác với cái thân cây chết gây ra nhận thức đó, và vì vậy nhận thức
đó không chính xác. Dignaga nói rằng nguyên tắc này cho thấy không có nhận
thức qua giác quan nào là chính xác, vì mỗi đối tượng thực ra chỉ là những
vi trần hay nguyên tử tụ tập lại với nhau, mà chúng ta thì không bao giờ
nhận thức một cái gì là một khối những nguyên tử. Chúng ta chỉ có ý thức
về những vật như người, voi, và cây. Tuy nhiên, những ý tưởng về những vật
như người hay voi chỉ có tính chất ý niệm thuần túy và không đúng với
những sự thật hiện hữu ở thế giới bên ngoài. Ngài kết luận rằng những đối
tượng độc nhất của ý thức chỉ là những ý niệm; chúng ta không bao giờ có ý
thức trực tiếp về những sự thật hiện hữu ở bên ngoài tâm trí.
Tác phẩm của những luận sư Dignaga
khơi lại sự quan tâm tới những vấn đề tri thức học trong các triết gia
Phật Giáo, và sự kiện này kéo dài trong mấy thế kỷ. Lý thuyết của ngài về
luận lý và nguồn gốc của tri thức có nhiều ảnh hưởng, nhưng trong đó không
có nhiều điều liên quan rõ rệt tới những giáo thuyết Phật Giáo có trước
đó. Luận sư Dharmakirti kế tục với việc rút ra những ý tưởng mà những vấn
đề về luận lý học và tri thức học đã gợi lên cho những người quan tâm tới
đề tài chính yếu của Phật Giáo, giải trừ vô minh chứng ngộ chân tính để
đạt giải thoát.
Hệ thống tri thức của Dharmakirti
tập trung ở xung quanh lời phê bình của ngài về giáo thuyết Ấn Giáo cho
rằng kinh Veda có thẩm quyền đặc biệt, và là cuốn kinh được coi là những
lời mặc khải của Thượng Ðế dành cho loài người. Trong phần phê bình này
ngài cũng bênh vực giáo thuyết cho rằng Ðức Phật là một nguồn trí huệ. Dựa
vào ý tưởng Thượng Ðế là toàn giác và từ bi, người Ấn Giáo tuyên bố thẩm
quyền của kinh điển của họ. Dignaga nói rằng ý tưởng này là kiêu ngạo và
đáng cười. Ngược lại, việc người Phật Tử tuyên xưng thẩm quyền của Ðức
Phật được dựa trên một ý tưởng khiêm hạ cho rằng Ðức Phật là một người
bình thường trông thấy nguyên nhân của sự khổ, biết cách giải trừ nguyên
nhân đó, và ra sức dạy người khác những gì ngài biết.
Dharmakirti nói thêm rằng Ðức Phật không dạy gì ngoài những nguyên
lý mà mọi người đều có thể xác minh. Việc xác minh trọn vẹn những giáo lý
của Ðức Phật được coi là bất khả đối với người nào có nhãn quan còn bị vô
minh che phủ, còn đối với một người biết nghe, suy ngẫm và thực hành thì
tất cả những giáo lý của Ðức Phật về vấn đề tu chứng sẽ được xác minh.
Cách lý luận mà luận sư
Dharmakirti đề nghị được dựa trên sự nghiên cứu có hệ thống về những
nguyên tắc suy luận hợp lý. Ngài lý luận rằng đa số những ý kiến sai lầm
có nguyên nhân là có ít kiến thức và kinh nghiệm mà lại vội vã đi tới kết
luận. Ngài cũng nói rằng đa số những giáo thuyết mà người ta tranh luận
không thể nào được quyết định một cách vững chắc. Về điều này, Dharmakirti
cũng có thái độ thận trọng giống như Ðức Phật và luận sư Nagarjuna đối với
những ý kiến và những giả thuyết không có căn cứ vững chắc, nhưng ngài
cũng cố gắng cho thấy rằng sự nghi ngờ cực đoan trong tác phẩm của các
luận sư như Nagarjuna cũng không được bảo đảm. Loại "trung đạo" về tri
thức học này bao gồm những lời tuyên xưng khiêm tốn về trí huệ của Ðức
Phật nhưng vẫn nhất quyết coi giáo lý của Ðức Phật là chân thực và có thể
được phân biệt với những điều sai lầm. Loại tri thức học này đã trở thành
khuôn mẫu cho phần lớn triết học Phật Giáo phát triển ở Ấn Ðộ cho tới khi
Phật Giáo không còn là một thành tố quan trọng trong môi trường triết học
của tiểu lục địa Ấn Ðộ. Việc chú trọng vào những vấn đề tri thức học làm
cho người Phật Tử dẹp qua một bên những cuộc tranh luận có khi dữ dội về
vấn đề kinh điển Phật Giáo có phải là nguyên thủy hay không.
5. Siêu hình học:
Giáo lý Phật Giáo mạnh mẽ nói rằng
tà kiến là nguyên nhân của đau khổ, vì vậy tự nhiên là các triết gia Phật
Giáo chú tâm vào vấn đề bản thể học và thuyết nhân quả. Bản thể học là
quan trọng, vì tà kiến được coi là đưa tới đau khổ lại đang sai lầm về cái
hiện hữu. Thuyết nhân quả là quan trọng, vì việc giải trừ nguyên nhân của
đau khổ được coi là có kết quả trong sự giải trừ đau khổ.
Nỗ lực hệ thống hóa giáo lý Phật
Giáo được bắt đầu trong loại kinh văn gọi là "Abhidharma", trong đó tất cả
những thành phần của kinh nghiệm con người được phân loại theo những biểu
đồ khác nhau. Việc nghiên cứu những mối liên hệ giữa những loại thành tố
này phát triển dần dần thành một thuyết nhân quả với nhiều chi tiết, trong
đó các loại liên hệ nhân quả được liệt kê. Có nhiều phái Abhidharma khác
nhau, mỗi phái có một bộ biểu đồ riêng của mình phân loại và liệt kê những
thành tố của kinh nghiệm, tức những hiện tượng tâm lý. Mỗi phái có cách
diễn dịch riêng ý nghĩa của từ ngữ "Abhidharma", nhưng từ ngữ này thường
được định nghĩa là giáo pháp cao cấp, vô tỷ pháp, hay vi diệu pháp, giáo
lý đưa tới trí huệ tối thượng. Những cách tiếp cận khác nhau được dùng
trong kinh văn 'Abhidharma" (tức Luận Tạng) làm cho người ta khó trình bày
loại văn học này theo bất cứ cách nào, trừ cách tổng quát nhất. Giữa đa số
các phái Abhidharma, có một sự đồng ý với nhau rằng cách tốt nhất để tìm
hiểu về một vật phức hợp nào đó là phân tích vật đó thành những thành phần
tối hậu của nó. Một thành phần tối hậu là phần không thể được phân tích
thành một cái gì đơn sơ hơn. Ða số các luận sư Phật Giáo tôn trọng nguyên
tắc cho rằng những thành phần đơn sơ tối hậu của một vật thì có thật tuyệt
đối, còn những vật phức hợp được làm bằng những thành phần đơn sơ thì
không có thật tuyệt đối, và chỉ được coi là có thật theo quy ước của một
cộng đồng. Một thí dụ là điều đã nói trong phần "Nhân tính". Đó là người
Phật Tử có khuynh hướng chấp nhận rằng, cá tính của con người là sản phẩm
của nhiều thành phần (năm uẩn), và những thành phần này được coi là có
thật, nhưng con người thì lại được coi là tuyệt đối không có thật. Ý niệm
con người có thể là một ảo tưởng, nhưng là một ảo tưởng làm cho sự vận
hành của xã hội được thuận lợi, và do đó con người có thể được coi là một
sự thật quy ước, khác với một sự thật tuyệt đối.
Luận sư Nagarjuna nghi ngờ toàn
thể
nỗ lực phân biệt sự thật quy ước với sự thật tuyệt đối, tức tục đế
và chân đế. Xét những tác phẩm của ngài, chúng ta có thể nói là ngài cố
gắng cho thấy rằng mọi
nỗ lực tìm hiểu thế gian chỉ có thể là một sự phỏng định phần nào
có tính cách quy ước; không có một sự tìm hiểu nào có thể được coi là đã
đạt tới sự mô tả đầy đủ tính chất thật của sự vật. Cùng với việc phê bình
nỗ lực phân biệt sự thật tuyệt đối với sự thật quy ước này,
Nagarjuna cũng phê bình giáo thuyết cho rằng những thành phần tạo thành
những vật phức hợp thì có thật hơn là chính những vật phức hợp đó. Giáo
thuyết này đã được dựa trên sự suy luận cho rằng một vật càng đơn sơ thì
càng gần sự độc lập hay tự tại. Ngài nói rằng thật ra những thành phần có
vẻ đơn sơ cũng không độc lập hơn vật có vẻ phức tạp mà chúng kết hợp
thành. Luận sư Nagarjuna gọi sự tùy thuộc vào những vật khác này là
"không", vì mọi vật đều có sự hiện hữu tùy thuộc vào những vật khác nên
chúng đều là không.
Các triết gia Phật Giáo sau này,
bắt đầu với Dharmakirti, đã ra sức
đả phá giáo thuyết của các nhà tư tưởng Ấn Giáo cho rằng có thể
truy nguyên nguồn gốc của vũ trụ tới nguyên nhân đầu tiên. Luận sư
Dharmakirti phản biện rằng nếu vạn vật trong vũ trụ có nguyên nhân đầu
tiên như Thượng Ðế hay một loại vật chất nguyên thủy nào đó thì như vậy
không thể nào giải thích được những sự khác biệt về hình dạng, hay sắc
tướng, trong thế gian vào bất cứ lúc nào, mà cũng không thể giải thích
được việc các sự vật khai triển theo thứ tự. Nếu tất cả những sự khác biệt
tạm thời về sắc tướng, đã có sẵn ở bên trong nguyên nhân thì như vậy
nguyên nhân đó không phải là nguyên nhân độc nhất gì cả. Người ta có thể
biện luận rằng sự đa dạng có ở trong nguyên nhân độc nhất chỉ thuộc một
loại tiềm năng nào đó, nhưng nếu vậy thì phải giải thích tiềm năng đó trở
thành hiện thực như thế nào. Nếu tiềm năng đó được tác động bởi một cái gì
đó ở bên ngoài nguyên nhân đầu tiên, thì nhân tố đó phải được kể trong số
những nhân tố hiện hữu cùng với nguyên nhân đầu tiên, và trong trường hợp
này, không còn nguyên nhân độc nhất nữa. Ngoài việc biện luận chống lại
quan điểm cho rằng vạn vật có một nguyên nhân đầu tiên, luận sư
Dharmakirti cũng lý luận chống lại giáo thuyết cho rằng có sự hiện hữu của
Thượng Ðế sáng tạo. Ngài nói rằng không có gì cho thấy là vũ trụ đã được
tạo lập bởi một trí thông minh nào đó, dù chỉ đặt giả thuyết là thế gian
được tạo ra bởi một đấng thông minh
nào đó thì cũng không có dấu hiệu nào cho thấy đấng này quan tâm gì
tới chúng sinh. Các thế hệ triết gia Phật Giáo sau đó đã phát triển những
luận điểm của Dharmakirti chống lại thuyết đấng sáng tạo thông minh độc
nhất, nhưng phần lớn những luận điểm mở rộng này chỉ được dùng để đáp lại
những lời phản đối của các đối thủ hơn là được lập thành những giáo thuyết
mới.
Trong năm trăm năm cuối cùng, khi
Phật Giáo là một thành tố quan trọng trong triết học Ấn Ðộ (từ năm 600 tới
1100) những lời phê bình giáo lý Phật Giáo của các triết gia Ấn Giáo và
Danh Giáo cũng như của những người duy vật chống tôn giáo đã làm cho các
nhà tư tưởng Phật Giáo phải sửa đổi lại một số luận điểm của họ, và lại
còn bỏ một số giáo thuyết nữa. Lý luận của người Phật Giáo đã bớt đóng góp
cho triết học Phật Giáo mà thường chỉ được dùng để tranh biện với các đối
thủ ngoại đạo. Bên trong Phật Giáo thì có khuynh hướng cố gắng hóa giải
những bất đồng ý kiến mà trong những thế kỷ trước đã gây chia rẽ trong
Tăng Ðoàn, ít nhất cũng là những bất đồng ý kiến về giáo thuyết. Tinh thần
mới hòa giải các bộ phái này đưa tới một số nỗ lực hợp nhất các phái
Abhidharma cũ, phái Trung Ðạo, phái Yogacara, và các nhà tri thức học Phật
Giáo. Một số vấn đề mới được nêu lên trong thời kỳ năm trăm năm cuối cùng
này, và không có nhiều luận điểm mới được đưa ra để bảo vệ những giáo
thuyết cũ. Việc nghiên cứu cẩn thận có khuynh hướng thay thế việc canh tân
triết học giữ vai trò công việc chính yếu của các nhà trí thức Phật Giáo
thế hệ sau như Santaraksita, Kamalasila, Jnanasrimitra, và Ratnakirti.
Trong thời kỳ suy thoái của Phật Giáo ở Ấn Ðộ này, triết học Phật Giáo
được đưa vào Tây Tạng. Khi đã được thiết lập vững chắc ở đó, Phật Giáo
nhận được sức mạnh mới của một loạt các nhà trí thức Tây Tạng, những người
có khả năng nghiên cứu nhiều giáo thuyết với một nhãn quan mới.
Posted in: Tôn Giáo,Triết Học
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét