Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014

Ludwig von Mises (1881-1973) - CHỦ NGHĨA TỰ DO TRUYỀN THỐNG 9

Phạm Nguyên Trường dịch

Chương 4

Chủ nghĩa tự do và các chính đảng

1. Tính chất “giáo điều” của những người theo trường phái tự do

Chủ nghĩa tự do cổ điển thường bị người ta phê bình vì quá cứng nhắc và không sẵn sàng thoả hiệp. Chính vì thiếu nhân nhượng như thế mà nó đã bị thua trong cuộc chiến đấu với những đảng phái bài tư bản chủ nghĩa đủ mọi loại mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Nếu nó, cũng như các đảng phái khác, nhận thức được tầm quan trọng của sự thoả hiệp và nhượng bộ trước những khẩu hiệu được nhiều người ưa chuộng nhằm lôi kéo quần chúng thì nó đã có thể giữ được, dù chỉ một phần, ảnh hưởng của mình rồi. Nhưng nó đã không bao giờ bận tâm đến việc thành lập tổ chức đảng và bộ máy của đảng như các đảng bài tư bản đã làm. Nó coi chiến thuật trong các chiến dịch tranh cử và những kì họp quốc hội chẳng có tầm quan trọng nào. Nó không bao giờ tham gia vào những trò cơ hội chủ nghĩa hay mặc cả chính trị. Chủ nghĩa giáo điều không khoan nhượng như thế chắc chắn đã dẫn đến sự thoái trào của chủ nghĩa tự do.

Những lời khẳng định như thế là hoàn toàn phù hợp với chân lí. Nhưng cho rằng chủ nghĩa tự do đáng bị phê phán theo nghĩa đó là hoàn toàn không hiểu bản chất của chủ nghĩa này. Hiểu biết một cách sâu sắc tư tưởng của chủ nghĩa tự do nghĩa là phải hiểu rằng nền tảng của sự hợp tác của xã hội loài người và cơ cấu xã hội ổn định lâu dài không thể được xây dựng trên nền tảng của những tư tưởng sai lầm và và dối trá được. Chẳng có gì có thể thay thế được hệ tư tưởng giúp nâng cao đời sống của con người bằng cách khuyến khích sự hợp tác xã hội - những điều dù được gọi là “chiến thuật”, “ngoại giao” hay “thoả hiệp” lại càng không thể nào thay thế được. Nếu con người không nhận thực được nhu cầu xã hội và tự nguyện làm những việc cần thiết nhằm bảo vệ xã hội và thúc đẩy phúc lợi chung thì không ai có thể dùng mưu mẹo và thủ đoạn dối trá để đưa họ vào con đường ngay thẳng được. Nếu họ lầm lẫn và đi lạc đường thì phải thông qua giáo dục mà khai tâm cho họ. Nhưng nếu họ không thể ngộ được chân lí, nếu họ vẫn cứ khăng khăng bám lấy sai lầm thì dù có làm gì cũng không thể nào ngăn chặn được thảm hoạ. Tất cả những thủ thuật và những điều dối trá của các chính trị gia mị dân chỉ có thể có ích cho những người chuyên làm việc phá hoại xã hội, dù họ có là những người chân thành hay dối trá thì cũng thế mà thôi. Nhưng không thể thúc đẩy sự nghiệp tiến bộ xã hội, sự nghiệp phát triển và tăng cường các mồi liên kết xã hội bằng những biện pháp dối trá và mị dân được. Không một sức mạnh nào, không có mưu kế khéo léo nào hoặc sự bịp bợm thông minh nào có thể lừa bịp được nhân loại đến mức làm cho họ chấp nhận một học thuyết xã hội mà họ không những không công nhận mà còn công khai bác bỏ nữa. Con đường duy nhất, rộng mở cho tất cả những ai muốn đưa thế giới trở lại với chủ nghĩa tự do - đấy là thuyết phục đồng bào của mình về tính tất yếu của cương lĩnh tự do. Khai sáng là nhiệm vụ duy nhất mà người theo trường phái tự do có thể và phải làm nhằm ngăn chặn, trong khả năng của anh ta, sự huỷ diệt mà xã hội đang đâm đầu vào. Không có chỗ cho sự nhân nhượng cho bất kì thành kiến hay lỗi lầm thường gặp hay được ưa chuộng nào ở đây hết. Khi nói đến những vấn đề quyết định liệu loài người có tồn tại được hay không, hàng triệu người sẽ thịnh vượng hay là chết thì không thể có chuyện nhân nhượng, dù đấy là do yếu kém hay là tôn trọng thái quá tình cảm của người khác, được.

Nếu những nguyên lí của chủ nghĩa tự do lại một lần nữa trở thành kim chỉ nam cho chính sách của các dân tộc vĩ đại, nếu cuộc cách mạng trong dư luận xã hội lại một lần nữa làm cho chủ nghĩa tư bản được tự do thì thế giới sẽ bước dần ra khỏi tình trạng mà chính sách của các phe phái bài tư bản đã đẩy nó vào. Đấy là con đường duy nhất có thể đưa chúng ta thoát khỏi sự hỗn loạn về chính trị và xã hội hiện nay.

Ảo tưởng lớn nhất của chủ nghĩa tự do cổ điển là thái độ lạc quan về xu hướng tiến hoá của xã hội. Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do - những nhà xã hội học và kinh tế học thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX và những người ủng hội họ - tin rằng xã hội loài người sẽ tiến đến những giai đoạn phát triển cao hơn và không gì có thể ngăn chặn được quá trình này. Họ tin tưởng chắc chắn rằng việc nhận thức theo lối duy lí những qui luật nền tảng của sự hợp tác và tương thuộc xã hội mà họ phát hiện ra sẽ nhanh chóng trở thành nhận thức chung của mọi người và sau đó những mối liên kết xã hội gắn bó một cách hoà bình toàn thể loài người sẽ càng ngày càng trở thành bền vững hơn, điều kiện sống của mọi người sẽ được cải thiện và nền văn minh sẽ bước lên những nấc thang ngày càng cao hơn về mặt văn hoá. Không gì có thể làm lay chuyển được thái độ lạc quan đó của họ. Khi những cuộc tấn công vào chủ nghĩa tự do càng ngày càng trở nên khốc liệt hơn, khi ảnh hưởng của những tư tưởng của chủ nghĩa tự do trong nền chính trị bị thách thức từ mọi hướng thì họ lại nghĩ rằng đấy là loạt đạn cuối cùng của một hệ thống hấp hối đang rút chạy, một hệ thống chẳng đáng phải quan tâm hay phản công vì chẳng bao lâu nữa nó sẽ sụp đổ.

Người theo trường phái tự do cho rằng tất cả mọi người đều có khả năng về mặt trí tuệ để có thể suy tư về những vấn đề hợp tác xã hội phức tạp và hành động một cách phù hợp. Họ vô cùng ngạc nhiên trước sự rõ ràng và hiển hiên của những lí lẽ đã dẫn họ đến những tư tưởng chính trị của mình và hoàn toàn không hiểu được làm sao mà một số người lại không nhận thức được những chuyện như thế. Họ cũng không bao giờ hiểu được hai sự kiện sau đây: thứ nhất, quần chúng không có khả năng tư duy một cách logic; thứ hai, đa số người cho rằng, đấy là ngay cả khi họ nhận thức được chân lí, lợi ích tức thời, dù là nhỏ nhặt, nhưng được hưởng ngay còn quan trọng hơn là lợi ích lớn hơn và lâu dài, nhưng phải chờ đợi. Đa số người không được phú cho trí tuệ đủ sức tư duy về những vấn đề hợp tác xã hội - những vấn đề cực kì khó – và họ cũng không có đủ lí trí để có thể chấp nhận những hi sinh tạm thời mà hành động xã hội đòi hỏi. Khẩu hiệu của chủ nghĩa can thiệp và chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là những đề nghị về việc tước đoạt một phần tài sản tư nhân, bao giờ cũng được quần chúng nhiệt tình ủng hộ vì họ tin rằng sẽ được hưởng lợi ngay lập tức.

2. Đảng phái chính trị

Buồn nhất là có người đã hiểu sai ý nghĩa và bản chất của chủ nghĩa tự do, cho rằng nếu áp dụng những biện pháp mà các đảng phái khác đang sử dụng hiện nay thì có thể bảo đảm chiến thắng cho các tư tưởng tự do.

Trong xã hội phân chia theo đẳng cấp, tức là xã hội không phải của những công dân bình đẳng mà được chia thành thang bậc với quyền lợi và trách nhiệm khác nhau thì không thể có các đảng phái chính trị theo nghĩa hiện đại của từ này. Khi đặc quyền đặc lợi và quyền bất khả xâm phạm của những giai tầng khác nhau chưa bị thách thức thì giữa các giai tầng vẫn giữ được hoà bình. Nhưng khi đặc quyền đặc lợi của một số giai tầng và địa vị xã hội của họ bị thách thức thì sẽ xuất hiện các vấn đề khác và chỉ có thể tránh được nội chiến nếu một bên nào đó công nhận rằng họ ở thế yếu và đầu hàng mà không dùng đến vũ lực. Ngay từ khởi thuỷ, địa vị của mỗi người trong các giai tầng khác nhau quyết định quan điểm của người đó trong tất cả những cuộc xung đột như thế. Chắc chắn là có những người đầu hàng, đấy là những người hi vọng là sẽ được lợi nếu nhảy sang phía kẻ thù và chống lại chính giai tầng của mình, những người như thế bị coi là phản bội. Nhưng ngoại trừ những trường hợp hãn hữu, người ta không phải đắn đo trước câu hỏi phải đứng về phe nào. Họ sẽ đứng bên cạnh những thành viên của giai tầng mình và chia sẻ số phận với họ. Giai tầng hay các giai tầng không hài lòng với địa vị của mình đứng lên chống lại trật tự hiện hành và phải đạt được yêu sách của mình trước sự kháng cự của những giai tầng khác. Kết quả cuối cùng của cuộc xung đột – không nói trường hợp những người bạo loạn thất bại và mọi việc vẫn giữ nguyên như cũ - trật tự cũ được thay bằng một trật tự mới, trong đó quyền lực của mỗi giai tầng đều được phân bố lại, khác trước.

Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa tự do là yêu cầu bãi bỏ tất cả các đặc quyền đặc lợi. Xã hội đẳng cấp phải mở đường cho chế độ mới, trong đó chỉ có những người công dân bình đẳng mà thôi. Không chỉ đặc quyền đặc lợi cụ thể mà ngay sự tồn tại của mọi ưu quyền nói chung đã bị tấn công. Chủ nghĩa tự do đã rỡ bỏ tất cả các rào cản về mặt xã hội và giải phóng con người khỏi tất cả những hạn chế mà chế độ cũ áp đặt lên người ta. Chính trong xã hội tư bản, tức là xã hội nằm dưới quyền cai trị của chính phủ đặt nền tảng trên những nguyên lí của chủ nghĩa tự do, lần đầu tiên từng cá nhân được quyền tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị và lần đầu tiên mỗi người đều có nhiệm vụ đưa ra quyết định cá nhân về mục tiêu và lí tưởng chính trị. Trong những xã hội đẳng cấp trước đây, xung đột chính trị chỉ có thể xảy ra giữa những giai tầng khác nhau mà thôi, còn từng giai tầng thì lại hình thành một mặt trận vững chắc nhằm chống lại các giai tầng khác; còn khi không có những vụ xung đột giữa các giai tầng thì trong lòng những giai tầng được quyền tham gia vào đời sống chính trị lại có thể xảy ra xung đột giữa các phe nhóm nhằm tranh giành ảnh hưởng, quyền lực và địa vị lãnh đạo. Chỉ có thể chế chính trị trong đó mọi người dân đều có quyền bình đẳng - phù hợp với lí tưởng của chủ nghĩa tự do, một lí tưởng chưa được thực hiện một cách trọn vẹn ở bất kì đâu - mới có thể có những đảng phái chính trị, tức là tổ chức của những người muốn đưa những ý tưởng vể lập pháp và hành pháp của mình vào đời sống. Vì có những ý kiến khác nhau về con đường đưa đến mục tiêu của chủ nghĩa tự do - bảo đảm sự hợp tác xã hội một cách hoà bình - sự khác nhau về ý kiến như thế nhất định sẽ dẫn tới những sự bất đồng và tranh cãi về mặt chính trị.

Như vậy nghĩa là, trong xã hội tự do có thể có cả các đảng xã hội chủ nghĩa nữa. Không loại trừ ngay cả những đảng tìm cách giành địa vị đặc biệt cho những nhóm người cụ thể nào đó. Nhưng tất cả các đảng này đều phải công nhận (ít nhất là tạm thời, cho đến khi họ giành được chiến thắng) và chỉ sử dụng trí tuệ, tức là thứ vũ khí được chủ nghĩa tự do coi là thứ vũ khí hợp pháp duy nhất trong những cuộc đấu tranh như thế. Tất cả các đảng phái đều phải công nhận nguyên tắc này, ngay cả khi đảng viên của những đảng phái bài tự do (những người xã hội chủ nghĩa và những người ủng hộ đặc quyền đặc lợi) không công nhận triết lí của chủ nghĩa tự do. Một số người xã hội chủ nghĩa “không tưởng tiền marxist” đã từng tranh đấu cho lí tưởng của chủ nghĩa xã hội trong khuôn khổ của chủ nghĩa tự do, trong thời kì vàng son của chủ nghĩa tự do ở Tây Âu, ngay cả giới tăng lữ và tầng lớp quí tộc cũng đã tìm cách giành mục tiêu của mình trong khuôn khổ của nhà nước lập hiến hiện đại.

Nhưng những đảng phái mà chúng ta đang thấy hiện nay lại là những đảng phái hoàn toàn khác. Chắc chắn là một phần cương lĩnh của các đảng phái đó có nói đến toàn thể xã hội và có nói đến vấn đề hợp tác xã hội. Nhưng đấy chỉ là sự nhượng bộ đối với hệ tư tưởng tự do mà thôi. Nhưng điều các đảng phái này nhắm đến trên thực tế lại nằm trong phần khác của cương lĩnh, đấy cũng là phần mà họ thực sự quan tâm và đấy cũng là phần mâu thuẫn hoàn toàn với phần nói về sự thịnh vượng cho tất cả mọi người. Các đảng chính trị hiện nay là những người ủng hộ không chỉ một số trật tự cũ, họ muốn giữ nguyên và mở rộng những đặc quyền đặc lợi truyền thống mà chủ nghĩa tự do, vì chưa giành được chiến tằng hoàn toàn, vẫn để cho họ giữ. Một số đảng còn hoạt động cho quyền lợi của những nhóm người muốn giành được địa vị đặc biệt, nghĩa là địa vị của những đẳng cấp trong xã hội. Chủ nghĩa tự do hướng tới tất cả mọi người và đưa ra cương lĩnh phù hợp với tất cả mọi người. Nó không hứa hẹn đặc quyền đặc lợi cho bất kì ai. Chủ nghĩa tự do kêu gọi mọi người từ bỏ việc theo đuổi quyền lợi đặc biệt chỉ dành cho mình và phe nhóm của mình, thậm chí nó còn đòi hỏi người ta phải hi sinh, dĩ nhiên đấy chỉ là những hi sinh tạm thời, kể cả hi sinh những lợi ích nhỏ để đạt được những lợi ích lớn hơn. Nhưng các đảng tranh giành quyền lợi đặc biệt cho phe nhóm của mình lại chỉ hướng đến một phần của xã hội. Họ hứa với cái phần xã hội mà họ có ý định giúp đỡ đặc quyền đặc lợi bằng cách buộc phần còn lại phải hi sinh quyền lợi của chính mình. Tất cả các đảng phái chính trị hiện nay và tất cả các hệ tư tưởng của các đảng hiện đại đều là những người dẫn đường cho quyền lợi của những nhóm lợi ích, tức là những nhóm đấu tranh chống lại chủ nghĩa tự do nhằm giành địa vị đặc quyền đặc lợi.

Trước khi chủ nghĩa tụ do xuất hiện, dĩ nhiên là đã có các chế độ đặc quyền đặc lợi và những vụ xung đột giữa các chế độ đó với nhau, nhưng lúc đó hệ tư tưởng của xã hội đẳng cấp còn có thể nói một cách không úp mở và không hề bối rối chút nào. Trong những cuộc xung đột giữa những người ủng hộ và người chống đặc quyền đặc lợi thời đó không hề xuất hiện câu hỏi về tính chất phản xã hội của toàn bộ hệ thống và không cần phải giả đò rằng hệ thống đó vẫn có cơ sở xã hội của nó. Vì vậy mà không thể so sánh trực tiếp giữa chế độ đặc quyền đặc lợi cũ với hoạt động và tuyên truyền của các đảng phái đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi hiện nay.

Muốn hiểu được bản chất thật sự của các đảng phái này, ta phải luôn luôn nhớ rằng khởi kì thuỷ các đảng phái này được hình thành nhằm chống lại học thuyết của chủ nghĩa tự do và bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người nào đó. Khác với học thuyết của chủ nghĩa tự do, học thuyết của các đảng phái này không phải là việc áp dụng trong lĩnh vực chính trị lí thuyết xã hội bao trùm và đã được suy nghĩ một cách thấu đáo. Hệ tư tưởng chính trị của chủ nghĩa tự do có xuất xứ từ hệ tư tưởng nền tảng, khởi kì thuỷ được phát triển như là một lí thuyết khoa học mà không ai nghĩ đến ý nghĩa chính trị của nó. Ngược lại, ngay từ khởi thuỷ đặc, quyền đặc lợi mà các đảng phái bài tự do tìm kiếm đã tồn tại trong các định chế xã hội hiện hành, việc soạn thảo hệ tư tưởng là chỉ để nhằm biện hộ cho những đặc quyền đặc lợi như vậy mà thôi, nhiệm vụ này được coi là có thể giải quyết một cách dễ dàng, chỉ cần trình bày trong mấy dòng là xong. Các nhóm điền chủ nghĩ rằng cần phải chỉ ra sự cần thiết của sản xuất nông nghiệp. Các nghiệp đoàn thì nói tới vai trò của người lao động. Các đảng phái của giai cấp trung lưu thì nói tới vai trò quan trọng của giai tầng xã hội “không thái quá cũng không bất cập”. Dường như họ không hề quan tâm đến việc là những lời kêu gọi như thế không hề chứng minh được rằng những đặc quyền đặc lợi mà họ muốn giành có cần thiết hay có ích đối với toàn thể xã hội hay không. Những nhóm người mà họ muốn lôi kéo bao giờ cũng sẵn sàng đi theo họ, còn những cố gắng nhằm lôi kéo người của những nhóm khác sẽ chắc chắn thất bại.

Như thế nghĩa là tất các các đảng phái thời hiện đại ủng hộ cho đặc quyền đặc lợi, dù mục đích của họ có khác nhau đến đâu hoặc họ có chống báng nhau đến đâu, đã lập thành một mặt trận thống nhất trong cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa tự do. Về lâu dài, nguyên tắc của chủ nghĩa tự do cho rằng quyền lợi của mọi người, được hiểu một cách đúng đắn, đối với họ cũng chẳng khác gì miếng vải đỏ vẫy trước mặt con bò tót vậy. Họ cho rằng xung đột quyền lợi là không thể tránh được, xung đột chỉ có thể được giải quyết khi một bên chiến thắng các bên còn lại và giành được lợi trong khi phía thua phải chịu thiệt thòi. Các đảng phái này khẳng định rằng chủ nghĩa tự do không phải như là nó đang tự nói về mình. Đấy chính là cương lĩnh của cái đảng đang tìm cách bảo vệ đặc quyền đặc lợi của một nhóm người, mà cụ thể là của giai cấp tư sản, tức là bọn tư bản và doanh nhân.

Luận điệu này là một phần của chính sách tuyên truyền của chủ nghĩa Marx và là đóng góp quan trọng cho thành công của chủ nghĩa này. Nếu coi học thuyết về xung đột quyền lợi giữa các giai cấp trong xã hội dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất là không thể nào tránh được là tín điều quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx thì tất cả các đảng phái đang hoạt động ở châu Âu đều là Marxist cả. Học thuyết về mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp và xung đột giai cấp còn được các đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa chấp nhận, đấy là nói khi họ còn chấp nhận quan điểm cho rằng những mâu thuẫn đối kháng như thế đang hiện diện trong xã hội tư bản và những cuộc xung đột do chúng tạo ra sẽ phải diễn ra một cách tự nhiên. Họ chỉ khác các đảng marxist ở chỗ họ muốn tránh cuộc xung đột giai cấp bằng cách trở về với xã hội đẳng cấp, được xây dựng theo đề xuất của họ và đẩy cuộc chiến lên vũ đài quốc tế, họ tin rằng nó sẽ phải diễn ra ở đấy. Họ không phản bác khẳng định cho rằng những cuộc xung đột như thế sẽ phải xảy ra trong xã hội dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Họ chỉ nói rằng không được để cho những mâu thuẫn đối kháng như thế xuất hiện và họ muốn dùng sự can thiệp của chính phủ nhằm quản lí và điều tiết sở hữu tư nhân nhằm loại bỏ những mâu thuẫn đối kháng như thế. Họ muốn chủ nghĩa can thiệp thế chỗ cho chủ nghĩa tư bản. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng khác gì những người marxist hết. Họ cũng hứa sẽ đưa thế giới đến một chế độ xã hội mới, nơi không còn giai cấp, không còn đối kháng giai cấp, không còn xung đột giai cấp nữa

Muốn hiểu được ý nghĩa của học thuyết về đấu tranh giai cấp ta phải luôn nhớ rằng nó chống lại học thuyết của chủ nghĩa tự do về sự hài hoà của những quyền lợi, được hiểu một cách đúng đắn, của tất cả các thành viên của xã hội tự do được xây dựng trên nguyên tắc sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Người theo phái tự do khẳng định rằng cùng với việc loại bỏ tất cả những sự phân biệt mang tính giả tạo giữa các giai tầng, cùng với việc loại bỏ mọi đặc quyền đặc lợi và tạo được sự bình đẳng trước pháp luật thì sẽ không còn gì ngăn trở sự hợp tác hoà bình giữa tất cả các thành viên của xã hội nữa vì lúc đó quyền lợi lâu dài và được hiểu một cách đúng đắn của tất cả mọi người sẽ trùng hợp với nhau.

Tất cả những lời phản đối mà những người ủng hộ chủ nghĩa phong kiến, ủng hộ đặc quyền đặc lợi, tìm cách đưa ra nhằm chống lại học thuyết này đã nhanh chóng trở thành phi lí và chẳng được mấy người ủng hộ. Nhưng trong hệ thống “hành vi kinh tế” (lựa chọn dịch thuật thuật ngữ catallactics - bộ môn nghiên cứu hành vi kinh tế của con người, cũng tức là nghiên cứu việc hình thành giá cả từ những hoạt động trao đổi của con người - ND) của Ricardo người ta có thể thấy xuất phát điểm của lí thuyết mới về xung đột quyền lợi trong lòng xã hội tư bản. Ricardo tin là có thể chứng minh được rằng trong quá trình phát triển kinh tế sẽ diển ra sự thay đổi trong quan hệ giữa ba hình thức thu nhập, mà cụ thể là giữa lợi tức, địa tô và đồng lương. Chính điều đó đã buộc những người cầm bút ở Anh trong các thập kỉ ba mươi và bốn mươi của thế kỉ XIX phải nói đến ba giai cấp là tư sản, địa chủ và lao động ăn lương và khẳng định giữa các giai cấp này tồn tại mâu thuẫn đối kháng không thể nào dung hoà nổi. Tư tưởng này sau đó đã được Marx tiếp thu một cách trọn vẹn.

Trong Tuyên ngôn của đảng cộng sản, Marx còn chưa nói đến sự khác biệt giữa đẳng cấp và giai cấp. Mãi sau này, tức là sau khi làm quen với những tác phẩm đã bị người đời quên lãng, được chấp bút hồi những năm 20 và 30 của thế kỉ XIX, và do ảnh hưởng của họ mà ông bắt đầu nghiên cứu Ricardo, Marx mới nhận thức được rằng vấn đề là phải chứng minh rằng ngay cả trong xã hội không còn phân biệt đẳng cấp và không còn đặc quyền mang tính đẳng cấp thì vẫn tồn tại những mâu thuẫn không thể dung hoà. Marx vạch ra mâu thuẫn đối kháng về lợi ích như thế từ hệ thống của Ricardo, và vạch rõ ranh giới giữa ba giai cấp: tư sản, địa chủ và công nhân. Nhưng như thế không có nghĩa là lúc nào ông cũng bám chặt vào sự phân biệt kiểu đó. Đôi khi ông khẳng định rằng chỉ có hai giai cấp là hữu sản và vô sản mà thôi, lúc khác ông lại nói tới nhiều giai cấp hơn là hai hoặc ba giai cấp lớn. Nhưng cả Marx lẫn những môn đồ của ông đều chưa bao giờ đưa ra định nghĩa về bản chất của các giai cấp. Đáng chú ý là chương mang tên “Các giai cấp” trong tập III tác phẩm Tư bản luận lại chấm dứt ngay chỉ sau có vài dòng. Hơn một thế hệ đã đi qua - đấy là tính từ khi xuất hiện Tuyên ngôn của đảng cộng sản, trong đó lần đầu tiên Marx đưa ra mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp - cho đến ngày Marx chết. Trong thời gian đó Marx đã viết hết tập sách này đến tập sách khác, nhưng ông vẫn không bao giờ giải thích “giai cấp” nghĩa là thế nào.Trong việc xử lí vấn đề “giai cấp”, Marx không bao giờ vượt qua được khẳng định đơn thuần của tín điều hay nói đúng hơn là một khẩu hiệu mà không đưa ra bất kì chứng minh nào.

Muốn chứng minh rằng học thuyết đấu tranh giai cấp là đúng người ta phải xác định hai sự kiện: một mặt, các thành viên của mỗi giai cấp đều có quyền lợi như nhau và mặt khác, giai cấp này được lợi thì giai cấp kia nhất định phải bị thiệt. Nhưng điều này đã không bao giờ được chứng minh. Thậm chí người ta còn chưa bao giờ định chứng minh nữa kia. Lí do chính là vì tất cả các “đồng chí trong cùng giai cấp” đều nằm trong cùng “hoàn cảnh xã hội”, họ không có cùng quyền lợi như nhau, đúng hơn là họ luôn cạnh tranh với nhau. Thí dụ như người công nhân làm việc trong những điều kiện thuận lợi hơn mức trung bình muốn loại bỏ những người cạnh tranh với mình vì những người đó có thể kéo thu nhập của anh ta xuống mức trung bình của xã hội. Trong hàng chục năm, khi học thuyết về tình đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản được nhắc đi nhắc lại trong những tuyên ngôn dông dài của những kì đại hội của các tổ chức marxist thì công nhân ở Mĩ và Australia lại đưa ra những rào cản mạnh mẽ nhất nhằm ngăn chặn người nhập cư. Bằng cách đưa ra hệ thống phức tạp những qui định vụn vặt, các công đoàn Anh đã làm cho những người bên ngoài không thể thâm nhập được vào lĩnh vực lao động của họ. Về lĩnh vực này, mọi người đều biết rõ, trong mấy năm qua các đảng lao động trong mỗi nước đã làm được những việc gì. Dĩ nhiên là có thể nói rằng đáng lẽ ra không nên làm như thế, công nhân phải làm khác, rằng họ đã làm sai. Nhưng không thể phủ nhận là họ đã làm vì quyền lợi của mình – ít nhất cũng là vì quyền lợi ngay tại thời điểm đó.

Chủ nghĩa tự do đã chứng minh rằng trên thực thế, trong xã hội dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, giữa các nhóm người và các giai tầng khác nhau không hề có mâu thuẫn đối kháng về quyền lợi như dư luận xã hội thường nói. Khi đồng vốn trong toàn xã hội tăng lên thì thu nhập của tư sản và địa chủ tăng lên theo nghĩa tuyệt đối còn thu nhập của người lao động tăng lên cả theo nghĩa tuyệt đối lẫn tương đối. Mọi sự thay đổi về thu nhập của những nhóm người khác nhau – doanh nhân, tư sản, địa chủ và công nhân – bao giờ cũng xảy ra cùng một lúc và theo cùng một hướng - phụ thuộc vào sự thăng giáng của thị trường; khác nhau chỉ là tương quan giữa những phần của toàn bộ sản phẩm xã hội mà họ được chia mà thôi. Chỉ có trong trường hợp nắm độc quyền khai thác một số khoáng sản nào đó thì lợi ích của địa chủ mới đối lập với lợi ích của những nhóm người khác. Lợi ích của doanh nhân không bao giờ khác biệt với lợi ích của người tiêu thụ. Doanh nhân càng thành công thì càng dễ dàng nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng.

Xung đột lợi ích chỉ có thể xảy ra khi quyền tự do sử dụng tư liệu sản xuất của chủ sở hữu bị chính sách can thiệp của chính phủ hay của các lực lượng xã hội có sức mạnh cưỡng chế ngăn cản mà thôi. Thí dụ như giá một loại hàng hoá nào đó có thể tăng một cách giả tạo vì nhà nước áp dụng biểu thuế bảo hộ, hay lương của một nhóm công nhân nào đó có thể tăng vì người ta không cho những người cạnh tranh được làm công việc của họ. Ai cũng biết lí luận của trường phái thương mại tự do áp dụng cho những trường hợp như thế này, lí luận này chưa bị ai bác bỏ và thực ra là không thể nào bác bỏ được. Dĩ nhiên là đặc quyền đặc lợi có thể làm lợi cho một nhóm người cụ thể nào đó, chúng được hình thành là để cho nhóm người như thế, nhưng đấy là nói khi các nhóm người khác không đòi được đặc quyền đặc lợi tương tự. Nhưng không thể nào lừa dối được đa số dân chúng ý nghĩa thực sự của những món đặc quyền đặc lợi, họ sẽ không tự nguyện chịu đựng mãi như thế được. Nếu dùng vũ lực để buộc họ phải chấp nhận thì có nghĩa là khơi mào cho bạo loạn – tóm lại, sẽ có rối loạn trong sự hợp tác một cách hoà bình trong xã hội. Mà bảo vệ sự hợp tác hòa bình là quyền lợi của tất cả mọi người. Có thể giải quyết vấn đề bằng cách làm cho đặc quyền đặc lợi không phải là biệt lệ của một vài người, nhóm người hay giai tầng xã hội mà là qui luật chung, thí dụ như áp dụng thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ đa số các món hàng đang được bán trên thị trường trong nước hay sử dụng những biện pháp tương tự nhằm ngăn chặn người mới, không cho họ thâm nhập vào đa số các ngàng nghề hiện có. Nhưng lúc đó, lợi ích mà mỗi nhóm nhận được sẽ bị triệt tiêu bởi những thiệt hại mà chắc chắn họ sẽ phải gánh chịu và kết quả là mọi người đều bị thiệt hại vì những biện pháp như thế đã làm cho năng suất lao động giảm đi.

Nếu người ta bác bỏ học thuyết của chủ nghĩa tự do, nếu người ta chế giễu lí thuyết về “sự hài hoà lợi ích của tất cà mọi người” đang còn gây tranh cãi, thì tư tưởng cho rằng có thể có sự thống nhất lợi ích trong các nhóm nhỏ hơn, thí dụ như giữa những người trong cùng một quốc gia (chống lại những quốc gia khác) hoặc giữa những người trong cùng một “giai cấp” (chống lại những giai cấp khác), được tất cả các trường phái bài tự do bảo vệ, cũng là tư tưởng sai lầm. Muốn chứng minh được sự thống nhất như thế thì cần phải có những lí lẽ đặc biệt, nhưng chưa thấy những lí lẽ như thế, thậm chí chưa thấy người nào có ý định làm như thế hết. Tất cả những lí lẽ có thể được đưa ra nhằm chứng minh cho sự thống nhất lợi ích của các thành viên của bất kì nhóm người nào đều chứng minh nhiều hơn thế, mà cụ thể là sự thống nhất một cách phổ quát lợi ích của tất cả mọi con dân của Thiên Chúa. Những xung đột về lợi ích mà mới nhìn thì tưởng như không thể nào giải quyết được lại có thể giải quyết được bằng cách coi tất cả nhân loại là một cộng đồng thực chất là hài hoà và không có chỗ cho bất kì mâu thuẫn đối kháng nào giữa các dân tộc, các giai cấp, các chủng tộc ..v.v…

Các đảng bài tự do tin rằng họ không làm cái việc là chứng minh rằng có sự thống nhất lợi ích trong nội bộ các dân tộc, các giai cấp, các sắc tộc ..v..v.. Trên thực tế họ chỉ đề nghị thành viên của những nhóm người đó liên kết lại nhằm đấu tranh với tất cả các nhóm khác mà thôi. Họ không khẳng định một sự kiện mà chỉ đưa ra một yêu cầu khi nói đến sự thống nhất lợi ích trong nội bộ các nhóm đó. Trên thực tế, họ không nói “Quyền lợi là thống nhất” mà họ nói “Liên minh phối hợp hành động phải làm cho quyền lợi trở thành thống nhất”.

Ngay từ khởi thuỷ, các đảng đòi đặc quyền đặc lợi đã tuyên bố một cách thẳng thắn và hoàn toàn không úp mở là chính sách của họ là đòi đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người cụ thể nhất định. Các đảng nông nghiệp đòi đặt ra biểu thuế bảo hộ và những mối lợi khác (trợ cấp) cho các điền chủ; đảng của các công chức nhà nước đòi đặc quyền cho các quan chức; đảng của các khu vực thì đòi quyền lợi đặc thù cho dân chúng sống trong khu vực của mình. Tất cả các đảng phái này rõ ràng là chẳng đòi hỏi gì ngoài quyền lợi của một nhóm người trong xã hội, mà không để ý đến toàn thể xã hội hay những nhóm người khác, dù họ có làm nhẹ bớt hành vi của mình bằng cách tuyên bố rằng xã hội chỉ thịnh vượng nếu lợi ích của ngành nông nghiệp, của các quan chức ..v.v.. được tôn trọng thì cũng thế mà thôi. Trên thực tế, sự quan tâm của họ đối với một nhóm người duy nhất trong xã hội, hoạt động và cố gắng của họ cho nhóm người đó càng ngày càng trở nên rõ ràng hơn.

Khi các phong trào bài tự do còn ấu trĩ thì họ phải tỏ ra thận trọng trong những vấn đề như thế vì Thế hệ những người được giáo dục trên tinh thần của triết lí tự do cho rằng việc biện hộ cho đặc quyền đặc lợi của những nhóm ngưới khác nhau là hành vi phản xã hội.

Những người tranh đấu cho đặc quyền đặc lợi chỉ có thể tạo ra những đảng phái lớn bằng cách thành lập một đơn vị tranh đấu từ những lực lượng kết hợp của những nhóm người mà quyền lợi xung đột với nhau. Tuy nhiên, quyền lợi giành cho một nhóm cụ thể chỉ có giá trị thực tiễn khi nó được giành cho một nhóm thiểu số và không nhiều hơn đặc quyền giành cho nhóm khác. Nhưng nếu hoàn cảnh không đặc biệt thuận lợi, thí dụ như hiện nay, khi việc lên án đặc quyền đặc lợi của chủ nghĩa tự do vẫn còn giữ được một vài dấu tích ảnh hưởng mà nó từng có trước đây, thì nhóm nhỏ đó không thể hi vọng đòi hỏi trở thành giai cấp đặc quyền đặc lợi của nó so với tất cả các nhóm khác sẽ trở thành hiện thực được. Vì vậy mà tất cả những người ủng hộ đặc quyền đặc lợi đều tìm cách thành lập các đảng phái lớn, mà nòng cốt của nó lại là những nhóm tương đối nhỏ, có quyền lợi khác nhau, mà thực ra là xung đột với nhau. Nhưng cách tư duy dẫn các đảng nhỏ đến việc đưa ra và bảo vệ những đặc quyền đặc lợi như thế làm cho mục tiêu của việc liên kết một cách cởi mở các nhóm khác nhau trở thành hoàn toàn bất khả thi. Không thể bảo một người đang đấu tranh giành vị trí đặc quyền đặc lợi cho nhóm người của mình hay cho chính mình hi sinh, ngay cả hi sinh tạm thời. Nếu người đó có thể hiểu được lí do của những hi sinh tạm thời thì chắc chắn là anh ta đã suy nghĩ như những người theo phái tự do chứ không phải như những người đang đòi hỏi đặc quyền đặc lợi nữa. Không ai có thể công khai nói với anh ta rằng anh ta sẽ nhận được nhiều đặc quyền đặc lợi hơn là đặc lợi mà anh ta mất cho người khác vì về lâu dài, ta không thể dấu những câu chuyện hay bài viết như thế và những người khác sẽ đòi nhiều quyền lợi hơn.

Như vậy nghĩa là những đảng ủng hộ đặc quyền đặc lợi sẽ buộc phải thận trọng. Khi nói đến mục đích của mình, họ sẽ phải dùng những ngôn từ mơ hồ nhằm che đậy bản chất của sự việc. Những đảng theo đường lối bảo hộ nền sản xuất trong nước là thí dụ điển hình của thói nước đôi như thế. Bao giờ họ cũng tìm cách trình bày lợi ích của biểu thuế bảo hộ mà họ đưa ra là lợi ích của nhóm có đông người hơn. Khi hiệp hội các nhà sản xuất ủng hộ biểu thuế bảo hộ thì lãnh tụ các đảng thường tránh không nói rằng lợi ích của các nhóm riêng biệt, thậm chí lợi ích của các công ty riêng lẻ cũng không bao giờ trùng hợp và hài hoà với nhau. Người thợ dệt bị thiệt vì thuế nhập khẩu áp dụng cho máy và sợi và chỉ ủng hộ phong trào bảo vệ sản xuất trong nước với hi vọng rằng thuề nhập khẩu đánh trên vải vóc sẽ cao, đủ bù lại những thiệt hai do thuế đánh vào những hàng hoá khác gây ra cho anh ta. Người trồng cỏ đòi đánh thuế cỏ khô nhập khẩu, nhưng người chăn nuôi thì chống lại; người trồng nho đòi đánh thuế rượu nho, điều này làm người nông dân không trồng nho và người tiêu thụ ở thành phố bị thiệt. Thế mà những người đòi đánh thuế nhằm bảo trợ nền sản xuất trong nước lại hành động như một đảng duy nhất có chung một cương lĩnh vậy. Điều này chỉ có thể xảy ra khi người ta dùng xảo thuật nhằm che dấu bản chất của sự việc.

Cố gắng thành lập một đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi trên cơ sở chia đều đặc quyền đặc lợi cho đa số dân chúng là việc làm vô nghĩa. Đặc quyền đặc lợi giành cho số đông sẽ không còn là đặc quyền đặc lợi nữa. Đất nước mà ngành sản xuất chính là nông nghiệp, chuyên xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, thì đảng của những người nông dân, đòi đặc quyền đặc lợi cho nông dân sẽ chẳng thể tồn tại được lâu. Họ sẽ đòi hỏi gì? Biểu thuế bảo trợ sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho nông dân vì họ phải xuất khẩu, còn trợ giá cho đa số người sản xuất thì bất khả thi vì thiểu số sẽ không thể nào cung cấp được.

Mặt khác, nhóm thiểu số đòi hỏi đặc quyền đặc lợi phải tạo ra ảo tưởng là tuyệt đại đa số dân chúng đứng về phía họ. Khi các đảng nông dân trong các nước công nghiệp đưa ra những đòi hỏi của mình thì bao giờ họ cũng gọi cả những người công nhân không có ruộng đất, những người nông dân nghèo và những điền chủ nhỏ, những người không hề quan tâm tới thuế bảo hộ sản phẩm nông nghiệp, là “dân nông nghiệp”. Khi những đảng của giai cấp công nhân thay mặt một nhóm công nhân nào đó đưa ra yêu sách thì bao giờ họ cũng nói về quảng đại quần chúng công nhân và che dấu sự kiện là lợi ích của các đoàn viên công đoàn trong những ngành sản xuất khác nhau không những khác nhau mà còn đối kháng với nhau nữa và thậm chí lợi ích của những người làm trong trong một ngành hoặc một công ty cũng xung đột với nhau nữa kia.

Đây là một trong hai nhược điểm quan trọng nhất của tất cả các đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi. Một mặt, họ buộc phải dựa vào một nhóm nhỏ vì nếu dành cho đa số thì đặc quyền đặc lợi sẽ không còn là đặc quyền đặc lợi nữa. Nhưng, mặt khác, phải khoác chiêu bài là người bảo vệ và đại diện cho đa số thì họ mới hi vọng thực hiện được đòi hỏi của mình. Sự kiện là một số đảng trong những nước khác nhau đôi khi đã khắc phục được khó khăn này trong công tác tuyên truyền của họ và đã thuyết phục được mỗi giai tầng xã hội hay từng nhóm tin rằng họ sẽ nhận được những quyền lợi đặc biệt nếu đảng chiến thắng, chỉ nói lên sự khéo léo về mặt chiến thuật và ngoại giao của ban lãnh đạo đảng cũng như sự yếu kém trong đánh giá và sự non nớt về chính trị của quần chúng cử tri mà thôi. Hoàn toàn không phải là giải pháp của họ là khả thi. Dĩ nhiên là người ta đồng thời có thể hứa với dân thành thị giá bánh mì rẻ và hứa với người làm ruộng giá bột mì cao, nhưng không thể nào thực hiện cả hai lời hứa cùng một lúc được. Dễ dàng hứa với nhóm người ủng hộ việc gia tăng một số khoản chi của chính phủ mà không giảm chi một số khoản khác đồng thời lại hứa giảm thuế cho một nhóm người khác, nhưng không thể thực hiện được cả hai lời hứa như thế trong cùng một thời gian được. Chiến thuật của các đảng này được xây dựng trên cơ sở chia xã hội thành người sản xuất và người tiêu dùng. Họ lại thường lợi dụng việc thảo luận chính sách tài chính quốc gia nhằm biện hộ cho những khoản chi tiêu mới từ ngân quĩ, mà không hề quan tâm tới nguồn chi, đồng thời lại luôn luôn phàn nàn về gánh nặng thuế khoá.

Nhược điểm thứ hai là yêu sách mà họ đòi cho mỗi nhóm người cụ thể là những yêu sách không có giới hạn. Điều duy nhất làm cho họ phải tính toán là sự phản đối của phía bên kia. Chiến thuật này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của những đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người nào đó. Song, những đảng phái không có cương lĩnh rõ ràng mà chỉ muốn tạo ra xung đột nhằm giành cho bằng được ước muốn không giới hạn về đặc quyền đặc lợi của một nhóm người nhất định và làm thiệt hại cho những người khác, chắc chắn sẽ gây ra nguy cơ phá hoại toàn bộ mọi hệ thống chính trị. Người ta càng ngày càng nhận thức rõ điều đó và bắt đầu nói đến sự khủng hoảng của nhà nước hiện đại và sự khủng hoảng của chế độ đại nghị. Nhưng trên thực tế, đấy chính là sự khủng hoảng ý thức hệ của các đảng phái đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi hiện đại.

3. Sự khủng hoảng của chế độ đại nghị và ý tưởng về nghị viện đại diện cho các nhóm đặc biệt

Chế độ đại nghị, thể chế phát triển một cách từ từ ở Anh và các nước thuộc địa của Anh từ thế kỉ XVII và trên lục địa châu Âu sau khi lật đổ được Napoleon và những cuộc cách mạng tháng 7 năm 1830 và tháng 2 năm 1848, cho rằng phải chấp nhận toàn bộ hệ tư tưởng của chủ nghĩa tự do. Tất cả các nghị sĩ có trách nhiệm quyết định cách thức cai trị đất nước đều phải tuyệt đối tin tưởng rằng lợi ích được hiểu một cách đúng đắn của tất cả các nhóm người và của từng thành viên trong xã hội là đồng nhất và mọi hình thức đặc quyền đặc lợi dành cho các nhóm người và các giai cấp đều có hại cho lợi ích chung và phải bị bãi bỏ. Tất cả các đảng phái trong quốc hội được quyền thực hiện các chức năng mà hiến pháp hiện hành giao cho họ; đương nhiên là về những vấn đề chính trị cụ thể, họ có thể giữ những quan điểm khác nhau, nhưng họ phải coi mình là người đại diện cho toàn thể dân tộc chứ không phải là đại diện cho một khu vực hay giai tầng nhất định nào. Vượt lên trên tất cả những khác biệt về ý kiến, niềm tin rằng họ có cùng mục đích và mục tiêu của họ là giống nhau phải giữ thế thượng phong, chỉ có phương tiện để đạt mục đích là cần phải tranh luận mà thôi. Khoảng cách giữa các đảng phái không phải là không thể vượt qua được, lợi ích của họ cũng không xung đột đến mức họ phải sẵn sàng chiến đấu đến cùng, mặc cho những đau khổ của dân chúng và sự tan hoang của đất nước. Quan điểm về những chính sách cụ thể là sự khác biệt giữa các đảng với nhau. Vì vậy mà chỉ có hai loại đảng: đảng đang cầm quyền và đảng muốn cầm quyền. Ngay cả đảng đối lập cũng không tìm cách giành quyền lực nhằm thúc đẩy những lợi ích cụ thể nào đó hay đưa người của mình vào những vị trí quyền lực mà họ tìm cách giành quyền lực nhằm đưa những ý tưởng của mình vào luật pháp và thực hiện chúng trong quá trình lãnh đạo đất nước. Chỉ có như thế thì các nghị sĩ và chính phủ đại nghị mới trở thành hữu dụng được.

Một thời những điều kiện như thế từng tồn tại ở các nuớc Anglo-Saxon và hiện nay ở đấy cũng còn một vài dấu tích như thế. Còn trên lục địa châu Âu thì ngay cả trong cái thời được gọi là hoàng kim của chủ nghĩa tự do người ta cũng chỉ có thể nói đến sự tiệm cận với những điều kiện như thế mà thôi. Trong hàng chục năm qua, những cuộc họp của các cơ quan đại diện lại có vẻ như hoàn toàn ngược lại. Có rất nhiều đảng, mỗi đảng lại chia ra thành các phe phái khác nhau, những phe phái đó tạo thành mặt trận thống nhất nhằm chống lại thế giới bên ngoài, nhưng trong nội bô thì họ lại chống báng lẫn nhau cũng dữ dội như chống báng các đảng khác vậy. Mỗi một đảng và mỗi phe phái đều coi mình là người bảo vệ duy nhất cho đặc quyền đặc lợi nào đó và sẵn sàng chiến đấu bằng mọi giá cho đến thắng lợi cuối cùng. Nội dung và bản chất chính sách của họ là đưa càng nhiều ngân quĩ vào “két” của mình, giành được càng nhiều ưu tiên ưu đãi thông qua chính sách thuế khoá, hạn chế nhập cư và những đặc quyền đặc lợi bằng cách hi sinh quyền lợi của những người khác trong xã hội, thì càng tốt.

Về nguyên tắc, những yêu sách như thế là vô giới hạn, không đảng nào có thể giành được tất cả các mục tiêu mà họ đặt ra. Không thể nào tưởng tượng được là một lúc nào đó yêu sách của đảng nông dân hay công nhân có thể được thực hiện một cách trọn vẹn. Thế mà mỗi đảng lại cố tìm cách giành được mức độ ảnh hưởng đủ sức giúp họ thoả mãn càng nhiều khát vọng thì càng tốt, trong khi đó họ lại luôn luôn tỏ ra thận trọng để có thể biện hộ trước cử tri vì sao ước mơ của họ lại không được thực hiện. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách làm như đảng của họ đang ở thế đối lập dù trên thực tế đảng đang nắm quyền hoặc bằng cách đổ vấy cho những lực lượng mà nó không điều khiển được: nhà vua (nếu đấy là nhà nước quân chủ); nước ngoài ..v.v.. Đảng Bolshevik không thể làm cho nhân dân Nga hạnh phúc, những người xã hội chủ nghĩa Áo cũng không làm được như thế vì bị “chủ nghĩa tư bản phương Tây” ngăn cản. Các đảng bài tự do đã cầm quyền ở Đức và Áo trong vòng hơn năm mươi năm qua thế mà trong những bản tuyên ngôn và tuyên bố công khai, thậm chí trong những tác phẩm chứng minh rằng họ là những người bảo vệ mang tinh thần “khoa học” của họ, ta vẫn thấy họ bảo rằng tất cả những điều xấu xa hiện nay đều là do ảnh hưởng của những nguyên lí tự do mà ra.

Quốc hội chỉ gồm những người ủng hộ các đảng bài tự do, đại diện cho đặc quyền đặc lợi, không thể thực hiện được công việc của mình và về lâu dài nhất định sẽ làm cho tất cả mọi người đều thất vọng. Đấy chính là điều mọi người đã và đang nghĩ tới khi họ nói về sự khủng hoảng của chế độ đại nghị.

Để giải quyết vấn đề này, một số người cho rằng cần phải bãi bỏ nền dân chủ và chế độ đại nghị và thiết lập chế độ độc tài. Chúng tôi không muốn thảo luận những luận cứ chống lại chế độ độc tài. Chúng tôi đã thảo luận vấn đề này một cách kĩ lưỡng rồi.

Đề nghị thứ hai nhằm sửa chữa những khuyết tật của quốc hội, do tất cả các công dân bầu ra, bằng cách bổ sung thêm hay thay thế toàn bộ bằng những đại biểu do các công ty độc lập hoặc các phường hội đại diện cho các ngành công nghiệp và thương mại khác nhau cũng như các nghề nghiệp khác nhau bầu ra. Người ta nói rằng đại biểu quốc hội thường thiếu khách quan và không có kiến thức kinh tế. Thế mà chính sách kinh tế lại quan trọng hơn là chính sách nói chung. Đại diện của các ngành công nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp sẽ dễ dàng đồng ý với nhau về những vấn đề mà những đại biểu được bầu theo khu vực địa lí không thể nào hiểu được hoặc chỉ hiểu sau khi sự kiện đã xảy ra khá lâu rồi.

Nói về quốc hội chỉ gồm những đại biểu đại diện cho những hiệp hội nghề nghiệp khác nhau thì vấn đề quan trọng nhất phải làm rõ là thủ tục bỏ phiếu sẽ như thế nào hay nếu mỗi đại biểu đều có một phiếu thì mỗi hiệp hội phải có bao nhiêu đại biểu. Vấn đề này phải được giải quyết trước khi quốc hội họp, nhưng vì vấn đề này đã được giải quyết rồi nên không cần lo lắng đến việc triệu tập quốc hội nữa vì kết quả của việc bỏ phiếu đã được quyết định từ trước. Chắc chắn là còn câu hỏi: sau khi phân chia ngôi thứ, các hiệp hội có thể giữ vững được quyền lực của mình hay không? Nó sẽ chẳng bao giờ - xin chớ ảo tưởng về vấn đề này - được đa số dân chúng chấp nhận. Muốn tạo ra cơ quan đại diện được đa số chấp nhận thì không cần phải có quốc hội phân chia theo nghề nghiệp. Tất cả phụ thuộc vào việc là liệu sự bất bình với chính sách mà các đại biểu của các hiệp hội thông qua có đủ sức dẫn tới việc lật đổ toàn bộ hệ thống bằng vũ lực hay không. Trái ngược với hệ thống dân chủ, hệ thống này không bảo đảm rằng thay đổi chính sách mà đa số dân chúng mong muốn sẽ được thực hiện. Nói như thế nghĩa là chúng tôi đã nói tất cả những điều cần phải nói nhằm chống lại ý tưởng hình thành quốc hội trên cơ sở đại diện theo nghể nghiệp. Người theo trường phái tự do coi những hệ thống không loại bỏ được sự gián đoạn mang tính bạo lực của sự phát triển xã hội một cách hoà bình đều là những việc không đáng thảo luận cả.

Nhiều người ủng hộ ý tưởng thành lập quốc hội bao gồm những người đại diện cho các hiệp hội nghề nghiệp nghĩ rằng không được giải quyết xung đột bằng cách buộc phe phái này phải khuất phục phe phái kia mà bằng cách cùng điều chỉnh các khác biệt. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu các đảng phái không thể thoả thuận được với nhau? Thoả hiệp sẽ chỉ xảy ra khi nguy cơ của giải pháp không hay buộc từng đảng phải tiếp tục thảo luận nhằm đạt cho bằng được một sự nhượng bộ nào đó. Không ai cản trở các đảng phái khác nhau thoả thuận ngay cả khi các đại biểu được toàn dân trực tiếp bầu ra. Cũng không ai có thể buộc các đại biểu quốc hội do các hiệp hội nghề nghiệp bầu ra phải thoả hiệp với nhau.

Như thế nghĩa là, quốc hội gồm những người như thế không thể hoạt động như là cơ quan dân cử trong chế độ dân chủ. Đấy không phải là nơi các quan điểm chính trị khác nhau được đem ra thảo luận và điều chính một cách hoà bình. Nó cũng không thể ngăn chặn được sự gián đoạn mang tính bạo lực của sự phát triển hoà bình do những cuộc bạo loạn, cách mạng và nội chiến gây ra. Vì những quyết định quan trọng nhất, những quyết định định đoạt việc phân chia quyền lực trong quốc gia, không được đưa ra các viện quốc hội và trong các cuộc bầu cử xác định thành phần của các viện đó. Nhân tố quyết định việc phân chia quyền lực là tương quan lực lượng đã được hiến pháp qui định cho mỗi hiệp hội trong việc hình thành chính sách công. Nhưng vấn đề này lại được giải quyết ở bên ngoài các viện của quốc hội và không liên quan gì tới những cuộc bầu cử thành viên nghị viện. Vì vậy mà sẽ đúng hơn nếu ta không áp dụng từ “quốc hội” cho hội đồng gồm toàn đại diện của các hiệp hội được tổ chức theo nghề nghiệp.

Thuật ngữ chính trị hình thành trong hai thế kỉ qua đã tạo ra sự phân biệt rõ rệt giữa quốc hội và hội đồng kiểu như thế. Ta phải phân biệt rõ như thế nếu không muốn làm rối tất cả các khái niệm của khoa chính trị học.

Sidney và Beatrice Webb cũng như nhiều người xã hội chủ nghĩa hoạt động trong các hiệp hội và phong trào công đoàn đi theo những kiến nghị mà những người ủng hộ việc cải cách thượng viện ở lục địa châu Âu trước đây đã làm, đề nghị giữ nguyên hệ thống hai viện. Một viện do toàn dân bầu, còn thành viên viện kia được bầu từ các khu vực bầu cử theo nghề nghiệp.

Nhưng rõ ràng là đề nghị này cũng không thể sửa chữa được những khiếm khuyết của hệ thống đại diện theo nghề nghiệp. Trên thực tế, hệ thống hai viện chỉ có thể hoạt động nếu một viện chiếm ưu thế hơn và có thể áp đặt vô điều kiện ý chí của mình cho viện kia, hay khi hai viện có những quan điểm khác nhau về vấn đề nào đó thì người ta phải cố gắng đạt chobằng được giải pháp thoả hiệp. Nếu không có những cố gắng như thế thì xung đột sẽ phải được giải quyết bên ngoài các viện của quốc hội, biện pháp cuối cùng sẽ là vũ lực. Dù có vặn vẹo vấn đề thế nào đi nữa thì cuối cùng người ta cũng phải quay về với những khó khăn không thể nào vượt qua được. Đấy chính là trở ngại mà tất cả những đề nghị tương tự sẽ gặp, dù chúng có được gọi là chủ nghĩa xã hội phường hội hay chủ nghĩa nghiệp đoàn thì cũng thế mà thôi. Cuối cùng người ta sẽ thấy sự thiếu thực tiễn của những sơ đồ kiểu này khi họ chấp nhận những đề xuất cải tiến phi lí thí dụ như thành lập các hội đồng kinh tế với chức năng cố vấn.

Những người ủng hội ý tưởng thành lập hội đồng gồm toàn đại diện của các hiệp hội đã lầm lẫn nghiêm trọng khi cho rằng có thể giải quyết những mâu thuẫn đối kháng đang xâu xé sự thống nhất của quốc gia bằng cách chia dân chúng và hội đồng dân tộc theo nghề nghiệp. Vá víu hiến pháp không phải là biện pháp giải quyết. Chỉ có hệ tư tưởng của chủ nghĩa tự do mới giải quyết được những mâu thuẫn đối kháng như thế mà thôi.

Nguồn: http://mises.org/liberal.asp

0 nhận xét:

Đăng nhận xét