Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Vầng mặt trời Nhật Bản mọc từ những trang sách
07:28
Hoàng Phong Nhã
No comments
Biết được văn hoá đọc và giáo
dục của Nhật Bản phát triển từ 300 năm trước, chúng ta chắc không còn
quá ngỡ ngàng trước sự trỗi dậy mạnh mẽ và đột ngột của Nhật Bản, nhưng
vẫn phải cực kỳ ngạc nhiên và ngã mũ nhiều lần trước dân tộc văn hoá
này. Darwin nói ở đâu đó, rằng Nhật Bản là một kỳ quan thế giới. Đối với
người Nhật, đọc sách là để khai minh, vươn lên bằng thiên hạ. Đọc sách
là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức để không ngừng phát
triển và hoàn thiện mình.
Nhật
Bản đã được cả thế giới nể trọng hơn 100 năm qua, nếu tính từ cuộc
chiến tranh Nhật-Thanh 1894-95. Sau thắng lợi đột ngột của một dân tộc
nhỏ bé, từng là học trò và chư hầu của Trung Hoa, thắng lợi trước người
thầy và người khổng lồ bên cạnh mình, thì không những tất cả các dân tộc
châu Á, mà còn bản thân Trung Hoa, nhưng trên hết các cường quốc phương
Tây đều nhìn về Nhật Bản với con mắt cực kỳ nể phục và kinh ngạc.
Công ty đầu tiên là công ty sách
Công cuộc duy tân Minh Trị chưa đầy 30
năm mà đã thay đổi hẳn bộ mặt của dân tộc nhỏ bé này, đưa Nhật Bản từ
một xã hội phong kiến lên hàng cường quốc hiện đại. Nhà Thanh sụp đổ.
Mười năm sau đế chế Nga cũng chịu chung số phận. Nhật Bản đã nghiễm
nhiên trở thành cường quốc toả sáng tại vùng châu Á còn sống trong đêm
tối.Vì sao Nhật Bản có sức mạnh thần kỳ và nhanh chóng ấy? Nhật Bản
trước hết là một dân tộc văn hoá độc đáo mà một trong những nét độc đáo
đó là văn hoá đọc và giáo dục. Họ đã trưởng thành nhanh chóng bằng sự
rèn luyện văn hoá từ nội tâm sâu thẳm. Và đó là đề tài tôi xin được phép
trình bày sau đây.
Vào thời Minh Trị, nhiều quyển sách phương Tây được dịch sang tiếng Nhật đã được bán ra hàng triệu bản, như quyển “Tự giúp mình” (Tự trợ luận, Self-Help) của Samuel Smiles; quyển Tự do luận (On Liberty) của John Stuart Mill, hay quyển Tây dương sự tình
của Fukuzawa biên soạn nói về văn minh phương Tây. Đó là những con số
khủng nếu chúng ta biết rằng dân số của Nhật Bản lúc bấy giờ chỉ khoảng
hơn 30 triệu người. Thời Minh Trị, Cty TNHH đầu tiên ra đời là Cty nhập
khẩu và kinh doanh sách Maruzen. Sách là nền tảng tri thức để chấn hưng
đất nước.
Trong các tác giả phương Tây có lẽ
Herbert Spencer (1820-1903) là người có ảnh hưởng lớn nhất lên Nhật Bản
Minh Trị. Ông được biết với nhiều đề tài, trong đó có thuyết tiến hoá xã
hội Darwin, tức “khôn sống mống chết” nói nôm na hay thích nghi để tồn
tại. Điều này dễ hiểu khi vào hậu bán thế kỷ 19 nhiều phần đất trên thế
giới tiếp tục rơi vào tay các cường quốc phương Tây, trong đó có Miến
Điện và Đông Dương.
Không phải văn hoá đọc của người Nhật
bỗng dưng bùng nổ vào thời Minh Trị sau đêm dài phong kiến mà nó có gốc
rễ sâu xa từ thời Tokugawa 1600-1868, từ lúc dân tộc này chỉ có văn hoá
võ sĩ trên chiến trường, từ lúc thầy tu khoẻ mạnh cũng muốn tra trận để
thi thố tài năng tìm hạnh phúc. Cách đây 300 năm Nhật Bản đã có những
con số “khủng” về giáo dục và văn hoá đọc, hai thứ có mối liên hệ chặt
chẽ nhau.
Trong thời vàng son Genroku (1688-1704)
Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản sách hiện đại đáng ngạc nhiên, với
nhiều nhà xuất bản lớn, nhà minh hoạ và nhà văn tên tuổi, với số sách
bán ra thường lên đến 10.000 bản, một con số “khủng” cách đây 300 năm.
Giáo dục thời Tokugawa bùng nổ, với hệ thống trường học phục vụ nhiều
đối tượng và đẳng cấp khác nhau: trường Mạc phủ trung ương, trường bang
của các đại danh, trường dành cho thường dân nghèo (terakoya), trường tư
thục (privat academy) cho samurai lẫn thường dân (shijuku), một loại
trường phi đẳng cấp (sẽ được thực hiện rộng rãi vào thời Minh Trị, giống
như mô hình trường trung học cải cách của Humboldt đầu thế kỷ 19 tại
Đức).
Giáo dục – dịch thuật bùng nổ
Một ngàn năm trước họ đã học Trung Hoa.
Một ngàn năm sau họ học phương Tây. Họ không sợ học kẻ thù, mà chỉ sợ vô
minh vì không học.
Khi Nhật Bản bắt đầu cuộc duy tân, cả
nước đã có 17.000 trường học đủ mọi loại! Hàng triệu người đã được học
hành. Đó là những con số khủng tiếp tục của giáo dục của Nhật Bản. “Việc đầu tiên cần thiết cho sự trị vì một nhà nước là năng lực con người. Mà năng lực con người thì đến từ sự học” như học giả Khống giáo nổi tiếng Dazai Jun (1686- 1747) viết.
Vì sao có những con số khủng về giáo dục và văn hoá đọc của một dân tộc vốn là võ sĩ?
Năm 1615 tướng quân Tokugawa Ieyasu, sau
khi bình định gần ba trăm bang (han), đã truyền lệnh cho tất cả các đại
danh đứng đầu các bang (daimyō), và cho các võ sĩ rằng (Điều 1): “Bun bên tay trái, Bu bên tay phải”.
Bun là văn, còn bu là võ, từ đó bushi là võ sĩ, bushido là võ sĩ đạo.
Tức “quyển sách bên tay trái, thanh gươm bên tay phải”. Và văn đi trước
võ để có sự trị nước lâu bền. Võ sĩ là giai cấp cầm quyền ở Nhật Bản,
trở thành giai cấp có học, và rất thấm nhuần văn hoá khổng giáo.
Mệnh lệnh trên có tác dụng của một “big
bang” của văn hoá học và văn hoá đọc sách. Nó được tiếp tục giương cao
và nhắc nhở bởi các đời tướng quân tiếp nối. Các đại danh phải học văn
hoá, khoa học và nghệ thuật quản lý đất nước. Một đại danh có học phải
đọc sách hằng ngày. Để học, họ lập ra các thư viện khắp các bang.
Tokugawa là chế độ tự ‘toả quốc’ (sakoku) suốt 260 năm, sau khi họ đuổi
hết người truyền giáo phương Tây 1640 (Việt Nam 1630), chỉ chừa một cảng
nhỏ Dejima ở Nagasaki để thông thương với Hà Lan là một quốc gia nhỏ
phát triển ở châu Âu mà họ biết không thể làm tổn hại độc lập của họ
được. Họ kiểm soát nghiêm ngặt việc nhập khẩu sách báo, để tránh sự thâm
nhập của Kitô giáo. Nhưng cũng chính trong hai thế kỷ đóng kín đó, qua
ngõ Hà Lan, giới trí thức Nhật Bản đã làm được một cuộc dịch thuật vĩ
đại, gọi là ‘Lan học’ (Rangaku), để biết rõ sự phát triển khoa học, công
nghệ trong cao trào cách mạng công nghiệp đang diễn ra ở châu Âu. Đó là
bình minh của nhận thức, giúp cho Minh Trị nhanh chóng thành công.
Một sự lặp lại kỳ thú của lịch sử: châu
Âu đã từng có cuộc dịch thuật vĩ đại thế kỷ 11 và 12 làm nền tảng phát
triển khoa học cho các đại học châu Âu vừa ra đời, thì tương tự ở phương
Đông, Nhật Bản cũng đã có cuộc dịch thuật vĩ đại của mình trong hai thế
kỷ đóng cửa, giúp chuyển hệ hình tư duy kiểu phong kiến Trung Hoa sang
hệ hình khoa học hiện đại phương Tây. Cuộc dịch thuật là khó nhọc và
không kém phần nguy hiểm, nhiều nhà Lan học đã phải tự sát trước sự truy
bức của chính quyền cảnh sát Mạc phủ, nhưng trí thức Nhật Bản đã thể
hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ
không thể yêu nước trong sự vô minh, như bác sĩ nổi tiếng Sugita Gempaku
(1733-1817) tự biện, người tạo cú hích mạnh mẽ cho Lan học mà sau này
nhà khai sáng Fukuzawa đánh giá rất cao.
Tương tự, các nhà lãnh đạo trong chính
quyền Minh Trị cũng không thể trị vì đất nước trong sự vô minh. Năm
1882, tức 14 năm sau Phục hồi Minh Trị, thống kê cho thấy có tất cả
2.170 quyển sách tiếng nước ngoài Anh, Pháp, Đức tại các văn phòng chính
phủ. Các quan chức lãnh đạo của chính quyền Minh Trị đều là những người
có học, trước Khổng học sau Tây học và đọc được tiếng nước ngoài, có
người từng du học ở phương Tây. Mạc Phủ cũng đã sớm thành lập văn phòng
dịch thuật, cái mà lúc đầu họ gọi là Viện nghiên cứu sách của người man
di, có nhiều sách vở nhất, nhiều trí thức đã trưởng thành qua đó, nhanh
chóng thay đổi được hệ hình tư duy của mình.
Có một cái ‘khủng’ đáng được nhắc ở đây:
tính xã hội cao độ của người Nhật được thể hiện qua sự hy sinh vô cùng
lớn của xã hội giúp thanh niên vượt khó trong việc học. Không những
người thầy hy sinh cho học trò, mà hầu như cả xã hội đều ra tay giúp đỡ
vô vị lợi. Hoàng gia Nhật dành phần lớn thu nhập cá nhân cho giáo dục
công đã đành; các đại danh, những người chủ đất giàu có tranh đua với
nhau hỗ trợ giáo dục đã đành, mà xuyên suốt mọi tầng lớp xã hội, các
thương gia, nhà ngân hàng, nhà sản xuất - tất cả những người giàu có của
các giới thương mại và công nghiệp - đều hỗ trợ việc giáo dục sinh
viên; các sĩ quan quân đội, công chức, bác sĩ, luật sư, các giới nghề
nghiệp, nói tóm lại tất cả đều làm như thế. Đặc biệt các giảng viên,
giáo sư đại học tuy với đồng lương khiêm tốn nhưng đã biết “nhường cơm
xẻ áo” với sinh viên. Hầu như tất cả các công trình giáo dục bậc đại học
được thực hiện ở Nhật Bản, dù có sự giúp đỡ của chính phủ, đều là những
kết quả của sự hy sinh cá nhân (Lafcadio Hearn).
Mang lửa Prometheus về châu Á
Sự chuyển đổi xã hội Nhật Bản từ phong
kiến sang xã hội công nghiệp là công trình trí tuệ của giới trí thức
Nhật Bản, hạt nhân của xã hội mới. Họ là những người “khai mông”
(keimō). Thứ nhất, họ khêu dậy tinh thần “văn minh và khai hoá”
(bummei-kaika). Việc này được thực hiện bởi nhóm “Minh lục xã”
(Meirokusha) xung quanh các nhà khai sáng lớn Fukuzawa, Mori, Nishi,
Katō, Tsuda, Nakamura, Kanda và Nishimura.
Thứ hai, để tạo sự đồng thuận xã hội,
giới trí thức phải bắc được chiếc cầu sống chung giữa Khổng giáo và chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực chứng khoa học phương Tây, và với thương
mại, như loại hình kinh doanh đã được cường quốc Anh đại diện là sức
mạnh tổng hợp của cách mạng công nghiệp và thể chế chính trị dân chủ.
Thương mại, vốn đứng hàng cuối cùng trong bậc thang sĩ, nông, công,
thương của xã hội khổng giáo phương Đông, nay được bốc lên vị trí hàng
đầu như một đức hạnh cao quý. Thương mại là công cụ cần thiết của nghệ
thuật lãnh đạo nhà nước để thực hiện trách nhiệm đạo đức khổng giáo của
mình đối với nhân dân. Tri thức phương Tây và đạo đức khổng giáo phương
Đông có thể sống chung và bổ túc cho nhau.
Một sự kiện có ảnh hưởng lớn lên các nhà
lãnh đạo Nhật Bản liên quan đến ý thức về cuộc đấu tranh sinh tồn đang
diễn ra gay gắt, khi Đoàn Iwakura là đoàn có sứ mệnh đi tìm khai sáng
cho Nhật Bản tại Hoa Kỳ và châu Âu 1871- 73 dừng chân thăm nước Đức.
Trong buổi chiêu đãi đoàn ngày 15 tháng 3 năm 1873 tại Berlin, Thủ tướng
Bismarck của Đức đã có những lời phát biểu sau đây: Giờ đây các quốc
gia trên thế giới tất cả đều tỏ ra thân thiện và lễ phép khi họ giao
tiếp nhau, nhưng đó chỉ là bề ngoài. Thực tế đằng sau là ngấm ngầm sự
mưu hại lẫn nhau và cuộc đấu tranh giành ưu thế…
Bismarck cho rằng, nước mạnh chỉ tìm
cách ức hiếp và bắt nạt nước yếu. Theo ông, một dân tộc chỉ chăm sóc
tình yêu quê hương thôi chưa đủ. Nếu không xây dựng được sức mạnh thì
đất nước sẽ không giành được sự tôn trọng trên chính trường quốc tế, độc
lập chỉ là niềm hy vọng hảo thôi. Những lời nói của Bismarck rót đúng
vào trái tim đang khao khát tìm đường khai sáng và quyết tâm sắt đá của
các nhà lãnh đạo samurai.
Mori Arinori (1847-1889), Bộ trưởng giáo
dục đầu tiên của Nhật Bản Minh Trị, người có công lớn như Wilhelm von
Humboldt của Đức, đã thấy trước cuộc đấu tranh sinh tồn của thuyết tiến
hoá xã hội đang diễn ra trên thế giới, đang đe doạ chính bản thân dân
tộc mình, đã diễn tả sâu sắc ý nghĩa của công việc giáo dục như sau: “Chiến
tranh (sensō) không phải chỉ là đánh nhau bằng súng đạn và giết nhau,
mà tất cả mọi người Nhật phải được tham gia ngay bây giờ vào cuộc chiến
tranh của kỹ năng, kỹ năng của cuộc sống, của công nghiệp, thương mại,
tri thức. Và đào tạo thầy giáo phải dựa trên sự chuẩn bị cuộc chiến
tranh này. Thua cuộc chiến tranh này là sẽ thua cuộc chiến tranh bằng
súng đạn. Đất nước chúng ta phải chuyển dịch từ vị trí hạng ba lên vị
trí hạng hai, rồi hạng hai lên hạng nhất; và sau cùng lên đến vị trí
hàng đầu trong cộng đồng các quốc gia thế giới. Con đường tốt nhất để
thực hiện điều này là đặt nền móng cho giáo dục cơ bản”. Đó là sự tiến hoá xã hội đi lên của Nhật Bản mà các nhà lãnh đạo Minh Trị đã hình dung và kỳ vọng với tất cả quyết tâm.
Biết được văn hoá đọc và giáo dục của
Nhật Bản phát triển từ 300 năm trước, chúng ta chắc không còn quá ngỡ
ngàng trước sự trỗi dậy mạnh mẽ và đột ngột của Nhật Bản, nhưng vẫn phải
cực kỳ ngạc nhiên và ngã mũ nhiều lần trước dân tộc văn hoá này. Darwin
nói ở đâu đó, rằng Nhật Bản là một kỳ quan thế giới. Đối với người
Nhật, đọc sách là để khai minh, vươn lên bằng thiên hạ. Đọc sách là
thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức để không ngừng phát triển
và hoàn thiện mình. Một ngàn năm trước họ đã học Trung Hoa. Một ngàn năm
sau họ học phương Tây. Họ không sợ học của kẻ thù, mà chỉ sợ vô minh vì
không học. “Hãy biết kẻ thù” (Tôn Tử). Họ học sớm và học nhiều hơn
Trung Hoa là quốc gia đã tiếp xúc với phương Tây cả trăm năm trước họ mà
vẫn không học được gì. Họ học mà vẫn giữ được bản sắc, “tổng hợp được
văn hoá Đông Tây”, trong khi Trung Hoa chính là nước vứt bỏ truyền thống
của mình sau những cuộc cách mạng phiêu lưu. Nhật Bản đã mang lửa văn
minh của thần Prometheus về châu Á để thắp sáng cả vùng. Họ đã thành
công rực rỡ như một tấm gương sáng chói, và được cả thế giới nể phục.
Ngày nay bài học Nhật Bản không phải đã
mất đi giá trị vì nó đã hơn một trăm năm qua. Không. Dân tộc nào biết
cầu thị và khiêm tốn sẽ tìm thấy ở tấm gương vĩ đại này những viên thuốc
hồi sinh, cũng như chính dân tộc Nhật Bản đã từng tìm được những viên
thuốc hồi sinh cho mình ở việc học hỏi Trung Hoa và phương Tây một cách
không sĩ diện đễ tiến lên hàng đầu trong cộng đồng các dân tộc tiên
tiến.
Theo SÀI GÒN TIẾP THỊ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét