Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014
Sự khủng hoảng của Hồi giáo 2
22:41
Hoàng Phong Nhã
No comments
Nhà chiến tranh
Trong
súôt lịch sử nhân loại ,
có nhiều nền văn minh xuất
hiện rồi lụi tàn – Trung quốc
, Ấn độ , La mã , và trước
đó là nền văn minh cổ
đại ở Trung đông . Trong những
thế kỷ mà lịch sử châu Âu gọi
là thời trung cổ , thì
nền văn minh tiến bộ
nhất trên thế giới chắc
hẳn là văn minh Hồi giáo .
Hồi giáo có thể ngang
bằng - hoặc thậm chí
trên một số lãnh
vực , vượt xa- Ấn
độ và Trung quốc ,
nhưng cả 2 nền văn
minh này chủ yếu
chỉ khu trú tại 1 vùng
và trong 1 nhóm
dân tộc , cho nên tác
động đối với phần
còn lại của thế giới vì
thế cũng bị giới
hạn . Ngược lại , nền
văn minh Hồi giáo , lại có tầm
nhìn tòan thế giới , và
ước vọng cũng rõ
ràng như thế .
Một
trong những nhiệm vụ chính mà
đấng Tiến tri giao cho
tín đồ Hồi giáo phải làm là
thánh chiến ( jihad) .
Chữ này đi từ gốc
Ả -rập
j-b-d với nghĩa
chính là cố gắng hoặc
phấn đấu . Trong các văn bản
cổ điển , nó đựơc dùng
sát với nghĩa đấu
tranh , và từ
đó cũng có nghĩa là
chiến đấu . Chữ này
thường đựơc nêu
trong câu" phấn đấu theo
con đường của Thượng đế”
trong kinh Qur’an ( IX,24, LX,1 và
v.v… ) và đựơc
diễn giải theo nhiều cách
có nghĩa là sự phấn đấu
về đạo đức hoặc
chiến đấu bằng vũ
lực . Cũng dễ hiểu là
chữ này có ý nghĩa gì
tùy theo tình huống mà
người ta cố ý gán ý
nghĩa cho nó. Trong kinh
Qur’an , từ này xuất hiện
nhiều lần , với 2 ý nghĩa
phân biệt nhưng có liên
quan với nhau như trên .
Trong những chương đầu , viết
trong giai đoạn ở Mecca , khi
đấng Tiên tri còn là thủ lãnh
của 1 nhóm nhỏ cố
chống lại nhóm đa
số cầm quyền , thì từ này
thường có ý nghĩa là sự phấn đấu đạo
đức , theo kiến giải của một
số học giả hiện nay . Trong
những chương sau , đựơc
truyền bá tại Medina , là nơi
mà đấng Tiên tri
lãnh đạo một nhà nước và
chủ huy quân đội , thì từ này
lại có ý nghĩa thực tiển rõ
rệt hơn . Trong số đó
thì ý nghĩa quân sự là
thẳng thừng nhất . Lấy 1
ví dụ để làm rõ :
"Những tín đồ nào ở nhà ,
nếu không bị đau ốm ,
thì không sánh đựơc với
những người đem tài sản và
bản thân tham gia chiến
đấu theo con đường
của Thượng đế . Thượng đế
đặt để những ai đem
tài sản và thân mình
tham gia chiến đấu cao
hơn những ai ngồi
ở nhà . Thượng đế hứa
sẽ thưởng cho tất
cả những ai tin nhưng
Ngài ưu ái hậu thưởng những
người đi chiến đấu ,
trên những người ở
nhà . Những tình cảm tương
tự cũng gặp trong các
chương VIII,72; IX,41,81,88 ;
LXXVI,9 và v.v…
Một
số người Hồi giáo hiện đại ,
nhất là khi giao tiếp với thế
giới bên ngoài , giải thích nhiệm vụ
của
jihad theo nghĩa
tinh thần và đạo
đức . Đại đa số những người có
thẩm quyền của Hồi giáo
vào giai đoạn đầu , lại
giải thích
jihad theo những thuật ngữ quân
sự bằng cách trích dẫn
các đoạn liên quan trong
kinh Qur’an , với những lời bình
, và các truyền khẩu của
đấng Tiên tri . Luật
Hồi giáo cho phép tiến
hành chiến tranh
chống lại 4 loại
kẻ thù : kẻ vô đạo , kẻ bỏ đạo
, quân phiến loạn
và kẻ cứơp . Mặc dù tất
cả 4 loại chiến tranh
trên hợp pháp ,
nhưng chỉ có 2 loại đầu
mới đụơc coi là
jihad. Như
vậy jihad
là 1 nghĩa vụ tôn giáo .
Khi bàn về nghĩa vụ
của 1 thánh chiến , các
luận sư ( jurist)
Hồi giáo cổ điển phân biệt
giữa chiến tranh tấn
công và bảo vệ . Trong
chiến tranh tấn công ,
jihad
là 1 nghĩa vụ cho
toàn thể mọi tín đồ Hồi giáo
nói chung , và như
thế có thể chỉ do
những người tình nguyện
và chuyên nghiệp đảm
trách . Trong chiến tranh
phòng vệ , đó là 1 nghĩa
vụ cho mọi người
còn khoẻ mạnh . Chính Usama
bin Ladin dựa vào điểm
này để kêu gọi chiến tranh
chống lại nước Mỹ .
Hầu
như trong lịch sử Hồi giáo
đựơc ghi chép qua 14 thế kỷ ,
jihad
thường đựơc diễn giải
là cuộc chiến đấu vũ
trang để bảo vệ hoặc
tiến công của
quyền lực Hồi giáo .
Theo truyền thống Hồi
giáo , thế giới được chia
ra làm 2 nhà : Nhà
của người Hồigiáo
( Dar al- Islam) , là nơi có
chính quyền và luật pháp
Hòi giáo cai trị , và Nhà của
chiến tranh ( Dar al – Harb) ,
là phần còn lại của thế giới , là
nơi sinh sống và
quan trọng hơn , là đựơc
cai trị bởi những kẻ vô
đạo. Đây là cơ sở để nói rằng
jihad vẫn còn tiếp tục ,
chỉ bị gián đoạn bởi những
đợt hưu chiến ,
cho tới khi
toàn bộ thế giới hoặc chấp nhận đức
tin Hồi giáo hoặc chịu
sự cai trị của Hồigiáo . Những
ai chiến đấu cho jihad
sẽ được tưởng thửong
ở cả 2 thế giới -
chiến lợi phẩm ở đời này
, và kiếp sau sẽ lên
Thiên đàng .
Ở đây cũng
giống như trong nhiều
vấn đề khác , những lời dạy
trong Qur’an đựơc giải thích cặn
kẻ hơn trong các
hadith , tức là những
truyền thống liên
quan đến lời nói và việc làm
của đấng Tiên tri .
Nhiều hadith đề
cập tới thánh chiến . Dưới đây
chỉ nêu vài ví dụ :
Jihad
là nhiệm vụ
do thủ lãnh giao cho
ngươi , dù ông ta
thánh thiện hay độc
ác .
Một ngày ,
một đêm chiến đấu ngoài
biên ải còn có giá trị cao hơn
1 tháng nhịn ăn và
cầu nguyện
Đối với kẻ
tử vì đạo , vết cắn của con
kiến còn đau hơn là nhát kiếm đâm ,
nhát đâm đối với anh ta
còn dễ chịu hơn là
dòng nước mát ngọt ngào
trong ngày hè nóng bức .
Cái chết
của kẻ không qua trận mạc
chỉ là cái chết của
kẻ vô đạo .
Thượng đế
đẹp lòng khi có chiến tù
( những kẻ bị Hồi giáo chinh phục
) bị lôi lên Thiên
đàng trong xiềng xích .
Hãy học
cách bắn cung , bởi vì
khỏang cách giữa đích
bắn và người bắn cung
chỉ bằng chiều rộng của
một trong những
khu vườn trên Thiên đàng
Thiên đàng
nằm dưới bóng lưỡi
gươm .
Truyền
thống cũng đưa ra
một số qui luật về
chiến tranh khi tiến hành
jihad :
Nên
đối xử tốt với tù binh
Việc cướp
bóc là điều xấu xa kinh tởm
Thượng
đế cấm không cho giết
phụ nữ và trẻ em
Người Hồi
giáo tôn trọng các cam
kết , miễn là những
cam kết này hợp pháp .
Những văn
bản pháp lý chuẩn
về
shari’a thường có
1 chương về
jihad , theo nghĩa quân
sự là 1 cuộc chiến
qui ứơc chống lại kẻ vô
đạo và bỏ đạo . Nhưng những
văn bản này cũng cũng
chỉ ra hành vi
đúng và tôn trọng
các qui luật chiến
tranh đối với các vấn đề
như khơi mào và chấm dứt
các cuộc xung đột
và các đối xử với
thường dân và tù binh ,
đó là chưa nói đến
các sứ giả ngọai giao .
Trong
phần lớn lịch sử
Hồi giáo được ghi chép ,
kể từ khi có Đấng Tiên tri
trở về sau , từ
jihad đựơc
dùng chủ yếu theo nghĩa
quân sự . Muhammad bắt
đầu sứ mạng tiên tri
tại quê nhà , Mecca ,
nhưng do đám cầm
quyền ngọai đạo cai trị thành
phố truy bức cho nên
ngài và các giáo
đồ dời sang Medina
, nơi đây các bộ lạc bản
địa chào đón họ và
đưa đấng tiên tri lên
vị trí nhà hòa giải ,
sau đó là thủ lãnh . Chuyến
di hành này
theo tiếng Ả -rập là
Hijra , đôi khi bị gọi trệch đi
thành Hegira và
dịch sai thành"sự tháo chạy".
Kỷ nguyên Hồi giáo lấy
Hijra làm mốc tính bắt
đầu năm Ả -rập .
Jihad đầu tiên
do chính đấng Tiên tri
ra tay chống
lại các nhà cầm
quyền tại sinh quán của
ngài và kết thúc
bằng việc chinh
phục Mecca vào tháng
chay Ramadan vào năm thứ
8 sau Hijra , tương ứng
với tháng giêng
năm 630 Tây lịch .
Giới lãnh đạo Mecca đầu
hàng mà không hề chống
cự , và người ở Mecca ,
trừ những ai xúc phạm đến Đấng
tiên tri hoặc 1 người Hồi giáo
, đều được bảo đảm an
tòan sinh mạng và tài sản
, miễn là họ ứng
xử phù hợp với các cam
kết. Nhiệm vụ tiếp theo
là nới rộng
quyền lực Hồi giáo
đến các vùng khác
thuộc bán đảo Ả -rập ,
và đến phần còn
lại của thế giới ,
do các Calip là những
người kế tục của đấng
Tiên tri .
Trong những
năm đầu của kỷ nguyên Hồi
giáo , điều này dường
như khả dĩ ,
có khả năng thưc hiện đựơc . Chỉ
trong 1 thời gian ngắn , các đội
quân bách thắng đã
xóa sổ đế quốc Ba tư
cổ đại và sáp nhập
tất cả lãnh thổ của đế quốc
này vào cương thổ
dưới quyền Caliph, mở lối
xâm lăng vào Trung Á
và Ấn độ . Về phía tây , Đế
quốc Byzantine tuy chưa
bị đánh bại , nhưng phần lãnh
thổ lớn cũng đã bị
tước mất . Rồi
các tỉnh theo Cơ đốc giáo
tại Syria ,Palestine, Ai cập
và Bắc Phi cũng bị thu tóm và
sau đó trở thành các địa
phương bị Hồi giáo hóa
và Ả -rập hóa và
đây là bàn đạp để tiến công
sâu hơn vào châu Âu ,
chinh phục Tây ban nha ,
và Bồ đào nha
và phần lớn miền nam nước Ý .
Vào đầu thế kỷ thứ 8 ,
đội quân Ả -rập còn vựơt
qua cả dãy Pyrenées để
sang nước Pháp .
Sau nhiều
thế kỷ dừơng như lúc nào cũng chiến
thắng , jihad của người
Ả -rập cuối cùng bị
châu Âu Cơ đốc giáo chặn đứng
và đẩy lùi về phía
đông , người Byzantines
giữ vững thành phố
Constantinople theo
Cơ đốc giáo , đẩy
lùi nhiều lọat
tấn công của người
Ả -rập . Về phía tây , người
Cơ đốc giáo bắt
đầu 1 tiến trình dai
dẵng , dài hơi mà trong
lịch sử Tây ban nha
gọi là Reconquista , hoặc là
Cuộc tái chinh phục ,
dần dần hất cẳng
người Hồi giáo ra khỏi
những lãnh thổ bị chiếm
ở Ý và bán đảo Iberia. Họ cũng
cố thử đưa công cuộc tái chinh
phục sang miền
Trung đông ,
và nhằm lấy lại đất Chúa
, đã bị người Hồi
giáo chiếm hồi thế kỷ thứ 7 .
Cố gắng này đựơc gọi là
Thập tự chinh đã bị
thất bại hòan tòan và
các Thập tự binh đã tháo
lui trong hỗn lọan .
Nhưng
jihad không
dừng ở đó . Một giai
đoạn mới lại mở màn , lần này
không phải do người Ả -rập
mà do những kẻ tân tòng ,
đó là người Thổ và người
Tatar. Họ chiếm lấy vùng
Anatolia vốn của người
Cơ đốc giáo , và
vào tháng 5/1453 họ
chiếm lấy Constantinople ,
đô thị này từ đó trở về
sau trở thành kinh
đô của các sultan
đế quốc Ottoman
, là những người
kế nghiệp các Caliph
lãnh đạo các
jihad
. Các Ottoman tại bán
đảo Balkan và những
người Tatar cải đạo
Hồi tại Nga quay
lại cố chinh
phục châu Âu , lần
này đi từ hướng đông , và
có lúc dường như cầm chắc
phần thắng .
Nhưng một
lần nữa châu Âu Cơ
đốc giáo lại
đủ sức trục xuất các kẻ
xâm lược và
lần này lại thành công
hơn , chống lại đựơc thế
lực Hồi giáo . Vào lúc
này
jihad đã hầu như chuyển
sang thế phòng vệ - , chống
lại cuộc tái chinh phục
tại Tây ban nha và tại
Nga , chống chọi
với các phong trào tự
giải phóng dân tộc
của các thần dân Cơ đốc giáo
trong đế quốc Ottoman
, và cuối cùng là , như người Hồi
giáo nhìn nhận , là để
bảo vệ ngay chính
trung tâm Hồi giáo khỏi
những cuộc tấn công
của kẻ vô đạo . Giai đọan này
được gọi là chủ nghĩa đế
quốc .
Ngay cả
trong giai đoạn thoái
lui này , hình thức tấn công
của thánh chiến jihad
cũng không hề bị
từ bỏ . Cho mãi
đến 1896 , người Afghan
xâm lăng vùng
Hindu Kush đầy núi non
hiện nay là vùng
đông bắc Afghanistan . Cho tới
thời điểm đó , dân cư ở
đây không phải là
người Hồi giáo ,
và vì thế vùng đất này
đối với người Hồi giáo là
Kafiristan , tức là"đất của những
người không tín ngưỡng". Sau
khi bị người Afgan chinh phục , vùng
đất này đựơc đặt tên
lại là Nuristan"vùng đất
của ánh sáng". Trong cùng thời gian
, jihad
dưới nhiều hình thức
đã đựơc tiến hành
tại châu Phi để chống
lại những người không theo Hồi
giáo . Nhưng trong phần lớn
các trừơng hợp , quan
niệm , thực hành và kinh
nghiệm của jihad trong
thế giới Hồi giáo hiện đại
chủ yếu mang tính tự vệ
.
Từ này đựơc
sử dụng nhiều trong quân
sự còn tiếp tục đến
các thời kỳ cận đại gần
đây . Trong đế quốc
Ottoman , thành phố Belgrade ,
một tiền đồn trong cuộc chiến
chó6ng lại người Áo , đựơc
đặt cho một cái
tên có vần điệu là
Dar al –Jihad ( Nhà của
Jihad) . Vào đầu thế kỷ 19
, khi Muhammad ‘Ali Pasha ,
nhà lãnh đạo chủ trương
canh tân của Ai cập ,
tiến hành cải cách
và quản lý quân
đội theo kiểu Anh
và Pháp , đã đặt
ra "1 bộ chiến tranh" để
điều hành quân đồi . Theo
tiếng Ả -rập thì bộ này có tên
là Bộ các vấn đề thánh chiến ( Diwan
al –Jihadiyya) và đứng
đầu là Quan giám
sát các vấn đề
thánh chiến ( Nazir al –Jihadiyya) .
Cũng có thể nêu ra
một số vi dụ khác
cho thấy từ jihad
không còn ý nghĩa thánh
thần nữa mà chỉ còn giữ hàm ý
quân sự . Vào thời cận
đại người ta sử dụng lại
cả 2 ý nghĩa quân sự và
đạo đức , nhưng cách
hiểu lại khác nhau và
mỗi người áp dụng mỗi cách .
Các tổ chức lớn tiếng xưng
danh Jihad hiện nay ,
tại Kashmir , Chechnya ,Palestine
và những chỗ khác
rõ ràng là không hề sử dụng tử này
theo nghĩa phấn đấu
về mặt đạo đức .
Đôi khi
Jihad được xem như là
Thập tự chính của Hồi giáo, và
2 hình thức này được coi như
ít nhiều tương đương với nhau .
Trong một chừng mực nào
đó , điều này đúng - cả 2 đều
được công bố và phát động
dưới dạng thánh chiến
của đức tin chân chính
chống lại kẻ thù
vô đạo . Nhưng ở đây có
sự khác biệt . Thập tự chinh là 1
hình thức phát triển
mới trong lịch sử Cơ đốc
giáo và trong một chừng
mực là một sự tách
rời căn bản (
radical ) ra khỏi những giá trị Cơ
đốc giáo cơ bản
được rao giảng trong
Thánh kinh . Thế giới Cơ đốc
giáo luôn bị tấn công từ thế
kỷ thứ 7 , và đã bị người
Hồi chiếm nhiều vùng lãnh thổ
rộng lớn ; quan niệm
về 1 cuộc chiến
thần thánh ,hoặc thông thường
hơn , là 1 cuộc chiến có chính
nghĩa cũng đã có từ xa
xưa . Tuy nhiên trong cuộc chiến
dai dẳng giữa đạo Hồi và đạo
Cơ đốc , thì thập
tự chinh chỉ mới gần đây ,
qui mô hạn chế và thời
gian xảy ra tương đối ngắn .
Jihad xuất hiện từ
lúc có lịch sử đạo Hồi -
trong kinh sách , trong cuộc
đời của đấng Tiên tri
, và trong hành động của
các giáo đồ cũng như những
người kế tục sau ngài .
Jihad
đã liên tục hiện diện trong lịch sử
đạo Hồi và vẫn còn giữ
nguyên tính cách cho
đến ngày nay . Dĩ
nhiên là từ thập tự chinh
đi từ gốc là thập ác
và nguyên uỷ
chỉ dành cho cuộc thánh chiến
đối với người theo đạo Cơ đốc
. Nhưng
trong thế giới Cơ đốc giáo
ý nghĩa này đã mất từ
lâu và ngày nay thường
được dùng với nghĩa
là 1 nỗ lực đạo đức
dành cho 1 thiện ý . Ta
có thể phát động 1
cuộc thập tự chinh vì môi
trừơng , vì nước sạch
, vì các dịch vụ
xã hội tốt hơn , vì nữ quyền
và cho nhiều ý đồ
khác . Điểm chính là ngày nay
từ thập tự chinh không
đựơc dùng đúng theo
ý nghĩa tôn giáo ban đầu .
Jihad cũng được
dùng theo nhiều nghĩa khác nhau ,
nhưng không giống như từ
thập tự chinh, nó
vẫn giữ được ý
nghĩa gốc ban đầu .
Những ai
bị giết trong
Jihad được gọi
là tử vì đạo ( martyr) , theo tiếng
Ả -rập và các ngôn ngữ Hồi
giáo khác là shahid .
Tiếng Anh martyr
đi từ tiếng Hi lạp martys
có nghĩa là" nhân chứng"và
theo tập quán Cơ đốc
- Do thái dùng để chỉ
những ai sẳn sàng
chịu tra tấn và
chết thay
vì từ bỏ đức tin . Như
vậy hành động tử vì đạo của người
này là 1 sự chứng
kiến hoặc sự chứng
thực đối với đức tin đó
, và sẳn lòng chịu chết
vì đức tin này . Trong
tiếng Ả -rập ,
shahid cũng có ý
nghĩa" chứng kiến"và thường đựơc
dịch thành"martyr” ,
nhưng từ này lại
có 1 hàm ý khá
khác biệt . Theo thông
lệ đạo Hồi , thì
từ
tử vì đạo ( martyrdom)
thường để chỉ cái chết
vì
jihad và
phần thưởng được sung sứơng
bất diệt trên thiên đàng
, được mô tả chi tiết
trong những kinh sách tôn giáo sơ kỳ
. Ngược lại , tự sát , là 1
trọng tội và đời
đời bị nguyền rũa ngay đối với những
người đáng lẽ được lên
thiên đàng . Các luật
gia cổ điển phân
biệt rất rõ giữa
cái chết do
kẻ thù gây ra và
cái chết do tự tử . Chết
do kẻ thù giết sẽ lên trời ,
còn tự tử sẽ xuống
địa ngục . Một số luật gia
phe chính thống gần đây cùng
một số người khác đã cố
ý đánh đồng và thậm chí
bỏ qua sự khác biệt này ,
nhưng quan điểm của họ không
hề đựơc chấp nhận rộng
rãi . Kẻ đánh bom liều
chết như thế đã vi phạm
đáng kể vào điều cốt lõi về mặt thần
học .
Vì lẽ thánh
chiến là 1 nghĩa
vụ đối với đức tin , cho nên
được qui định cặn kẻ
trong shari’a . Các
chiến binh jihad
không được giết phụ nữ ,
trẻ em và người già nếu
không bị tấn công trước ,
không đựơc hành hạ tra tấn
tù nhân , không được
tấn công mà không báo
trước sau hưu chiến
và phải tôn trọng các
cam kết. Các luật gia và
thần học thời trung cổ
đã thảo luận khá nhiều về các
qui luật chiến tranh , có cả những
vấn đề như vũ khí nào được phép
và không đựơc phép
sử dụng . Thậm chí trong
các văn bản thời trung cổ lại
bàn đến tính hợp lệ của
chiến tranh hoả tiển và hoá
học , hoả tiển tức là
các máy bắn đá (mangonel) và
máy lăng đá ( catapult)
, còn hoá học là tên
có tẩm thúôc độc và bỏ thuốc
độc vào các nguồn nước
uống của kẻ thù . Về những
điểm này có sự sai biệt
đáng kể . Các luật gia ,
có người cho phép , có
người hạn chế , có người không
nhất trí về việc
sử dụng những vũ khí
này . Lý do đưa ra là
những vũ khí trên
gây ra số thương vong bừa bãi
. Trong các kinh sách
chính Hồi giáo không có
đoạn nào cho phép khủng bố và
ám sát . Trong kinh sách thậm chí
không có điểm nào -
theo tôi biết cho đến
nay ( tác giả- BL ) -
bàn tới việc tàn
sát bừa bãi những người
vô tội .
Các
luật gia cũng nhấn mạnh
là chiến lợi phẩm phải đựơc
coi là 1 nguồn lợi phụ , không
phải là mục tiêu chính . Một
số người còn đi xa hơn nữa khi
cho rằng nếu coi chiến lợi
phẩm là mục
đích chính thì sẽ làm giảm
ý nghĩa và tước đi những
lợi ích do Jihad mang
lại hoặc trước mắt
hoặc về sau này .Jihad
, nếu muốn hợp lệ
, phải được tiến
hành"theo con đường của Thượng đế" ,
và không đựơc vì quyền
lợi vật chất .Tuy nhiên , có nhiều
tiếng than phiền
về việc sử dụng từ
Jihad đáng tôn kính cho
những mục đích đáng
hỗ thẹn . Đặc biệt là
các luật gia người Phi
phàn nàn về việc các tay
buôn nô lệ sử dụng từ
Jihad để biện minh
cho sự cướp bóc và đòi
quyền làm chủ nô đối với
các nạn nhân . Luật thánh đòi
hỏi phải đối xử tốt với
những người không tham gia
chiến đấu nhưng lại cho phép
kẻ chiến thắng nhiều quyền
rộng rãi đối với tài sản
và cả đối với nhân thân
và gia đình của kẻ chiến
bại .Theo những tập tục chung
thời cổ đại , kẻ thù bị
bắt trong chiến trận và
cùng với gia đình
sẽ trở thành nô lệ ,
người chiến thắng có thể đem
bán hoặc giữ lại để sử dụng . Hồi
giáo thay đổi luật này
chút ít bằng cách hạn
chế quyền bắt làm nô lệ
này đối với những ai bị
bắt trong jihad
nhưng đối với các hình
thức chiến tranh khác thì không có .
Các luật lệ
chiến tranh đối với kẻ bội
giáo có phần nào khác và
nghiêm khắc hơn đối với
các luật về chiến tranh đối
với kẻ vô đạo . Kẻ bội giáo
dứơi mắt người Hồi giáo
còn tệ hơn là kẻ vô đạo
. Kẻ vô đạo là người chưa từng
thấy đựơc ánh sáng , và luôn
hy vọng rằng một ngày
nào đó họ sẽ nhìn thấy .
Chừng nào mà họ còn tuân thủ một số
điều kiện , thì họ vẫn còn
nhận đựơc sự khoan dung của nhà nước
Hồi giáo và cho phép họ
tiếp tục giữ đạo , thậm
chí việc tuân thủ các luật lệ
tôn giáo của mình . Kẻ bội giáo
là người đã biết đựơc
đức tin chân chính , dù là
ngắn ngủi , rồi
lại từ bỏ . Tội này con
người không thể tha thứ được , và
theo đại đa số các luật
gia , kẻ phản bội phải
chết - nếu là đàn ông . Đối
với đàn bà , do trách
nhiệm đựoc coi là ít hơn , chỉ
cần đánh roi và bỏ
tù là đủ . Thượng đế nhân từ có thể
tha thứ cho kẻ phản bội
vào kiếp sau , nếu Ngài muốn .
Còn con người thì không
có thẩm quyền như thế .
Sự phân biệt này hiện nay có phần
quan trọng , khi các nhà lãnh đạo
hiếu chiến kêu gọi 1
jihad 2 mặt -
chống lại kẻ vô đạo bên ngoài
và chống lại kẻ bội giáo bên trong .
Phần lớn , nếu không phải là tất
cả các nhà lãnh đạo Hồi giáo
mà phương Tây chúng ta
coi như là bạn và
đồng minh thì lại bị đa
số dân chúng của họ coi
như là kẻ phản bội , và
tệ hơn nữa là kẻ bội
giáo.
Từ thời
xa xưa , có sự phân biệt về
luật pháp giữa những
lãnh thổ chiếm đựơc
bằng vũ lực ( tiếng Ả
-rập là ‘anwatan, tương
đương với
vi et armis của các
luật gia La mã )
và
sulban những lãnh thổ có
đựơc qua hình thức hưu chiến
hoặc đầu hàng hoà bình .
Qui định về
của cải cướp được
, và khái quát hơn , là
cách đối xử với dân chúng tại
các vùng đất mới
chiếm có khác nhau
ở nhiều mặt . Theo truyền thống , sự
khác biệt đựơc hình tượng hoá
tại nhà thờ vào mỗi ngày
thứ 6 . Tại các vùng đất
chiếm được , anwatan ,
giáo sĩ mang 1 cây gươm ,
tại vùng đất qui phục sulban
, giáo sĩ cầm 1 cây
gậy gỗ . Hình ảnh lưỡi gươm
vẫn còn đóng vai trò quan
trọng . Cho tới ngày nay,
quốc kì của Arabia Saudi
có 2 biểu hiện trên nền
xanh lá cây . Một là
dòng chữ Ả -rập nêu rõ niềm
tin Hồi giáo" Thượng đế chỉ
có 1 , Muhammad là Tiên
tri của Người". Biểu
tượng kia hình ảnh cây
gươm không lẫn vào đâu đựơc .
Có một số
thời kỳ , các luật gia
thừa nhận 1 tình trạng
trung gian giữa nhà
Chiến tranh và Nhà
của Islam , đó là nhà Hưu
chiến ( Dar al-Sulh)
hoặc Nhà của giao ứơc ( Dar
al-‘Ahd) . Nhà này bao gồm
những quốc gia không
theo Hồi giáo , thường là Cơ đốc
giáo , khi các lãnh đạo những nơi
này có ký kết với
các nhà lãnh đạo Islam
để nộp
thuế hoặc cống vật , coi như
là tương đương với
jizya hoặc thuế thân để được
phép tự chủ đối với các vấn đề
nội trị . Ví dụ đầu tiên là
cam kết giữa
Caliph Umayyad ký vào thế kỷ thứ 7
với các ông hoàng theo
đạo Cơ đốc tại Armenia .
Ví dụ cổ điển của Nhà
Hưu chiến là hiệp
nghị cam kết vào năm 652
với các nhà cai trị Cơ
đốc tại xứ Nubia , theo
đó xứ này không phải nộp thuế
thân , nhưng hàng năm
phải tiến cống một số nô lệ
nhất định . Qua cách
coi quà tặng như là 1
hình thức tiến cống , các nhà lãnh
đạo Hồi giáo và các cố
vấn pháp lý có thể
điều chỉnh luật pháp
xử lý nhiều mối quan hệ
chính trị , quân sự và
thương mại với các cường quốc
không phải Hồi giáo. Phương thưc này
không hẵn hoàn toàn biến
mất .
………..
Ngay từ đầu
, người Hồi giáo đã biết
rằng có sự khác biệt
giữa các dân tộc trong Nhà
chiến tranh . Phần lớn
các dân tộc này
thờ nhiều thần và thờ
ngẩu tượng , là người
không hề gây nguy cơ nghiêm
trọng nào đối với đạo
Hồi và là
đối tượng có khả năng
cải đạo . Những
dân tộc này chủ yếu sống ở
châu Á và châu Phi .
Ngoại lệ
chính là các tín đồ Cơ đốc
giáo , được người Hồi giáo
thừa nhận là có 1
tôn giáo giống như họ , và như
thế chính là kẻ kình địch
số 1 trong việc
thống trị thế giới - hoặc nói
theo cách của họ , là sự giác ngộ
thế giới ( enlightenment) .Đạo
Cơ đốc và đạo Hồi là
2 nền văn minh đựơc
xây dựng trên cơ sở tôn giáo
cho nên xung đột với
nhau không phải vì sự khác
biệt mà chính do
sự giống nhau .
Công trình
Hồi giáo xưa nhất còn
sót lại nằm
ngoài bán đảo Ả -rập là
Nhà thờ Đá tại Jerusalem
, hoàn tất vào năm 691
hoặc 692 C.E. Công trình này
được xây trên nền
1 đền thờ Do thái cổ ,
theo 1 phong cách riêng
và nằm gần các
nhà thờ Cơ đốc giáo như
Mộ thánh và Nhà thờ Chúa
lên trời , là 1
thông điệp rõ ràng cho
người Do thái , và quan trọng
hơn , người theo
đạo Cơ đốc . Đó là:
những mặc khải của họ , tuy
rằng có lúc xác
thực , nhưng sau
đó bị những kẻ thủ tự thiếu tư
cách làm hư hỏng đi
cho nên được thay thế
bằng sự mặc khải
cuối cùng , toàn bích
hơn nằm
trong giáo lý Hồi giáo . Cũng
như người Do thái bị người Cơ
đốc khuất phục và
thay thế , thì cái trật tự thế
giới Cơ đốc ngày nay
phải được thay thế bằng
tín ngưỡng Hồi giáo
và các Caliph
đạo Hồi . Để nhấn mạnh điểm
này , tại nhà thờ Đá
có trích những dòng từ kinh
Qur’an nêu rõ cái mà người Hồi
giáo coi là sai
lầm của đạo Cơ đốc"
Vinh danh thay Thượng đế
, không ai là con , là bạn của
người"và"Người là Thượng đế ,
chỉ có một , đời đời .
Người không sinh
, không ai sinh ra Người
và không ai sánh bằng
Người"( Qur’an CXII) .
Điều này quả là một
sự thách đố đối với đạo
Cơ đốc ngay tại
nơi phát sinh . Một
thiên niên kỷ sau việc
đồn trú của lính Mỹ tại
Arabia được nhiều
tín đồ Hồi giáo và nhất
là Usama bin Ladin coi
như là 1 thách đố tương tự ,
lần này là đạo Cơ đốc
đối với đạo Hồi .
Để
làm rõ thêm sự thách thức
đầu tiên này đối với đạo Cơ
đốc , lần đầu tiên , vị Caliph
cho đúc đồng vàng , mà từ
trước đến nay chỉ có
người La mã độc quyền .
Điểm đáng nói là
đồng tiền vàng Hồi giáo đầu
tiên , đồng dinar
, lại mượn từ
chữ La mã
denarius . Một số
đồng tiền có tên
vị Caliph , danh hiệu là
Thống lãnh các tín đồ , và một
số câu thơ đầy tính luận
chiến . Thông điệp rất rõ ràng .
Theo cách nghĩ của Hồi giáo , thì
người Do thái, và sau đó là
người Cơ đốc đã lầm lạc
đi theo những tín điều
giả dối . Vì thế , cả 2
đạo đều bị loại bỏ , và thay
thế bằng đạo Hồi , là sự
mặc khải cuối cùng
và hoàn hảo của Thượng đế theo
thứ tự . Những câu thơ trong
kinh Qur’an được viết
tại Nhà thờ Đá và
trên các đồng tiền vàng qui
tội cái mà theo người
Hồi giáo là những điều
sai lạc tệ hại nhất của
đức tin chân thực . Dĩ nhiên
còn có thêm một thông
điệp nữa của Caliph gởi cho Hoàng đế
Cơ đốc "Đức tin của
ngươi đã bị băng hoại , ngươi
đã hết thời rồi. Ta đây mới
là người cai trị của đế quốc
của Chúa trên
trần gian này".
Thông điệp
đựơc hiểu rõ , và Hoàng
đế coi việc đúc tiền vàng như là
lý do tuyên chiến ( casus
belli) . Trong hơn một ngàn
năm , cuộc chiến đựơc
các Caliph Hồi giáo phát động
từ nhiều kinh đô khác nhau ở
Medina , Damascus , Baghdad, Cairo
chống lại các Hoàng đế Cơ đốc giáo
tại Constantinople , Vienna
và các danh
xưng khác sau này , tại
các quốc gia
phương tây xa xôi hơn.
Mỗi vị vua , trong
dời của mình , đều là
đối tượng chính của
Jihad.
Dĩ nhiên ,
trong thực tế , việc áp dụng học
thuết về jihad không
phải lúc nào cũng bạo lực hoặc
khắc nghiệt . Tình trạng chiến
tranh đúng theo qui tắc
có thể tạm ngưng
theo hình thức đựơc luật pháp
qui định như hưu chiến ,
nhưng hưu chiến này
lại khác ít nhiều với
cái gọi là hiệp uớc hoà
bình do các cường quốc
phương Tây ký với nhau .
Đó là những cuộc hưu
chiến do Đấng Tiến
tri ký với các kẻ thù
vô thần của mình ,
và đã trở thành cơ sở cho
những gì mà ta gọi là luật
quốc tế của Hồi giáo .
Theo Shari’a , phải có nhiệm vụ
khoan dung đối với các tôn
giáo đã có từ trước
do mặc khải thần linh
( Qur’an II,256:
Không được ép buộc trong
tôn giáo") . Tại các
vùng đất do Hồi
giáo cai trị , luật Hồi giáo
cho phép người Do thái và Cơ
đốc được giữ
đạo và quán xuyến
công việc của mình , nhưng
phải chịu một số bó buộc
, quan trọng nhất là thuế thân
đánh vào nam giới trưởng thành
. Thuế này , được gọi là jizya
, đựơc noi rõ
trong Qur’an :IX,29 :”
Hãy đánh lại những kẻ
nào không tin vào Thượng đế
hoặc không tin vào ngày
phán xét , những kẻ nào không
cấm những điều mà Thượng
đế và các sứ đồ của
Người đã tuyên bố cấm , những
kẻ không theo tôn giáo của
chân lý , dù rằng chúng
có là dân có tên trong Sách
thành ( tức là người Do thái
và Cơ đốc ) , cho
tới khi chính bản thân
chúng khúm núm chịu nộp thuế
jizya". Những dòng sau
đã được diễn giải theo nhiều
cách khác nhau , về mặt văn chương
cũng như trên thực
tiển .
Những hạn
chế khác như không được
mặc quần áo hoặc dấu hiệu nổi
bật , cấm không được mang vũ khí ,
cởi ngựa , mua nô lệ Hồi giáo
hoặc xây nhà cao hơn
nhà người Hồi giáo .Trừ 2 điều
sau và thuế thân
jizya
, còn những cấm đáon trên
không phải lúc nào cũng phải
tuân thủ chặt chẽ . Bù
lại , những
thần dân không theo
Hồi giáo trong 1 nhà
nước Hồi giáo lại được hưởng
quyền tự quản rất lớn
khi xử lý những
vấn đề thuộc nội bộ cọng đồng
bao gồm giáo dục , đánh
thuế và thực thi luật
của riêng họ liên quan
đến nhân thân , nhất là trong hôn
nhân , li dị và thừa kế . Thoả
ứơc hoặc hợp đồng giữa
nhà nước Hồi giáo và 1
cọng đồng dân cư
không - Hồi giáo đựoc gọi là
dhimma , và người
trong cọng đồng đựơc
nhà nước Hồi giáo bao
dung được gọi là
dhimmi . Theo ngôn ngữ
hiện đại , người Do thái và Cơ đốc
trong 1 nhà nước Hồi giáo
cổ điển là các công
dân hạng hai, nhưng quyền
của công dân hạng hai , đựơc
xác định bởi luật pháp
và mặc khải và
đựơc công luận thừa nhận
, lại còn tốt hơn nhiều
so với việc hoàn toàn
không có quyền công dân
dành cho những người không theo Cơ
đốc giáo và ngay cả đối
với một số người Cơđốc
lệch lạc tại phương Tây .
Jihad
cũng cũng không ngăn cản các
chính phủ Hồi giáo tìm kiếm đồng
minh Cơ đốc để chống lại
các kình địch
là Hồi giáo khác , ngay cả
trong thời gian xảy ra Thập tự chinh
.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét