Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Sự khủng hoảng của Hồi giáo 2


Chương 2

      Nhà chiến  tranh 
 

      Trong  súôt lịch  sử nhân  loại , có nhiều nền  văn minh xuất  hiện rồi lụi tàn – Trung  quốc , Ấn độ , La mã , và  trước  đó  là  nền văn minh cổ   đại  ở Trung đông . Trong những thế kỷ mà lịch sử châu Âu  gọi là thời   trung cổ , thì nền  văn minh tiến  bộ   nhất trên thế giới   chắc   hẳn là  văn minh Hồi giáo .  Hồi giáo  có thể ngang  bằng - hoặc  thậm chí  trên   một  số lãnh vực  , vượt  xa-  Ấn độ và Trung  quốc ,   nhưng   cả 2  nền văn minh này   chủ yếu   chỉ khu trú tại  1 vùng  và   trong 1 nhóm  dân tộc ,  cho nên  tác động   đối với  phần còn lại của thế giới  vì  thế   cũng  bị giới hạn .  Ngược lại , nền  văn minh Hồi giáo  , lại có tầm nhìn  tòan thế giới  , và ước vọng  cũng  rõ  ràng   như thế .
      Một  trong những nhiệm vụ chính  mà đấng  Tiến tri giao  cho   tín đồ Hồi giáo phải làm  là  thánh chiến ( jihad) .  Chữ   này đi  từ gốc Ả -rập j-b-d   với nghĩa   chính  là cố gắng  hoặc  phấn đấu . Trong  các văn bản  cổ điển  , nó đựơc  dùng sát  với nghĩa   đấu tranh  , và  từ   đó cũng  có nghĩa  là chiến đấu .  Chữ này  thường  đựơc nêu   trong  câu" phấn đấu theo  con đường  của Thượng  đế” trong kinh Qur’an ( IX,24, LX,1 và  v.v… )  và  đựơc  diễn  giải theo nhiều cách  có nghĩa là  sự phấn đấu   về đạo đức   hoặc  chiến đấu  bằng  vũ  lực . Cũng  dễ hiểu là    chữ này có ý nghĩa  gì  tùy  theo  tình huống mà người  ta cố ý gán  ý  nghĩa cho nó.  Trong kinh Qur’an , từ này  xuất hiện nhiều lần , với 2  ý nghĩa   phân biệt nhưng  có liên  quan với nhau   như trên .  Trong những chương đầu , viết  trong giai đoạn  ở Mecca , khi đấng Tiên tri  còn là thủ lãnh của  1 nhóm nhỏ   cố chống lại   nhóm đa  số cầm quyền  , thì từ này    thường có ý nghĩa là sự phấn đấu đạo đức , theo kiến giải của  một số học giả hiện nay .  Trong  những chương  sau ,  đựơc truyền bá  tại Medina , là nơi  mà  đấng Tiên tri   lãnh đạo  một nhà nước  và   chủ huy quân đội , thì từ này  lại có ý nghĩa thực tiển  rõ  rệt hơn .  Trong  số đó   thì ý nghĩa   quân sự là  thẳng thừng nhất .  Lấy  1 ví dụ    để làm rõ : "Những tín đồ nào  ở nhà , nếu không   bị đau ốm , thì  không sánh đựơc với   những  người đem tài sản và  bản thân tham  gia  chiến  đấu  theo con  đường  của Thượng đế . Thượng  đế    đặt  để những ai  đem  tài sản  và thân mình  tham gia  chiến đấu cao  hơn những  ai  ngồi  ở nhà . Thượng đế hứa    sẽ   thưởng  cho tất  cả những ai tin  nhưng  Ngài ưu ái hậu thưởng  những người đi  chiến đấu ,  trên  những  người  ở nhà .  Những tình cảm tương tự cũng  gặp trong  các chương VIII,72; IX,41,81,88 ; LXXVI,9 và v.v…
      Một  số người Hồi giáo  hiện đại , nhất là khi  giao tiếp với thế giới bên ngoài , giải thích nhiệm vụ của  jihad  theo  nghĩa  tinh  thần  và  đạo đức . Đại  đa số những người có  thẩm quyền  của  Hồi giáo  vào giai  đoạn đầu ,  lại  giải thích jihad theo những thuật ngữ quân sự bằng cách trích dẫn   các đoạn liên quan trong   kinh Qur’an , với những lời bình  , và các truyền khẩu   của đấng  Tiên tri .  Luật  Hồi giáo cho  phép  tiến hành    chiến tranh chống   lại  4 loại kẻ thù : kẻ vô đạo , kẻ bỏ đạo  ,  quân  phiến loạn   và kẻ cứơp .  Mặc dù  tất cả 4 loại   chiến tranh  trên   hợp  pháp , nhưng  chỉ có  2 loại đầu    mới đụơc coi là  jihad.   Như   vậy  jihad là 1   nghĩa vụ tôn giáo . Khi bàn về   nghĩa vụ   của  1 thánh chiến , các  luận sư    ( jurist)  Hồi giáo cổ điển  phân biệt giữa chiến tranh   tấn công  và  bảo vệ . Trong chiến tranh tấn công ,  jihad là  1 nghĩa vụ   cho toàn thể mọi tín  đồ Hồi giáo nói chung  , và   như thế   có thể chỉ do  những  người tình nguyện   và  chuyên  nghiệp đảm trách . Trong chiến tranh  phòng vệ ,   đó là 1 nghĩa vụ cho   mọi người  còn  khoẻ mạnh . Chính Usama bin Ladin  dựa vào điểm  này  để kêu gọi chiến tranh  chống lại  nước Mỹ .
      Hầu  như  trong lịch sử Hồi giáo đựơc ghi chép qua 14 thế kỷ ,  jihad thường  đựơc  diễn giải   là  cuộc chiến đấu  vũ trang   để bảo vệ hoặc tiến công   của  quyền lực  Hồi giáo .  Theo  truyền  thống Hồi giáo , thế giới  được chia   ra làm  2 nhà : Nhà   của người Hồigiáo     ( Dar al- Islam) ,  là nơi có   chính quyền   và luật pháp Hòi giáo cai trị , và Nhà của  chiến tranh  ( Dar al – Harb) , là phần còn lại của thế giới , là nơi  sinh sống  và  quan trọng  hơn  , là đựơc cai trị bởi  những  kẻ vô đạo. Đây  là cơ sở để nói rằng jihad  vẫn còn tiếp tục , chỉ bị gián đoạn bởi những   đợt  hưu  chiến  , cho tới  khi     toàn bộ thế giới hoặc chấp nhận đức tin Hồi giáo   hoặc chịu sự cai trị của  Hồigiáo . Những ai  chiến đấu cho jihad  sẽ được  tưởng thửong   ở cả   2 thế giới -  chiến lợi phẩm ở đời   này , và  kiếp sau sẽ lên   Thiên đàng .
      Ở đây cũng giống  như  trong nhiều vấn  đề khác , những lời dạy trong Qur’an đựơc giải thích cặn  kẻ   hơn  trong các hadith , tức là  những truyền  thống   liên  quan đến  lời nói và việc làm của  đấng Tiên tri .  Nhiều  hadith   đề cập tới thánh chiến .  Dưới đây chỉ nêu  vài ví dụ :  
 
      Jihad  là   nhiệm vụ   do  thủ lãnh  giao cho ngươi  , dù  ông ta  thánh  thiện  hay độc  ác .
      Một ngày , một  đêm  chiến đấu ngoài  biên ải còn có giá trị cao hơn   1 tháng   nhịn ăn  và  cầu nguyện
      Đối với kẻ tử vì đạo , vết cắn của  con kiến còn đau hơn là nhát kiếm đâm , nhát  đâm  đối với anh ta còn   dễ chịu  hơn là dòng nước  mát ngọt  ngào  trong  ngày hè nóng bức .
      Cái chết   của  kẻ không qua trận mạc  chỉ là  cái chết  của  kẻ vô  đạo .
      Thượng đế đẹp lòng khi  có chiến tù   ( những kẻ bị Hồi giáo chinh phục  )    bị lôi lên Thiên đàng  trong xiềng  xích .
      Hãy học  cách bắn cung  , bởi vì   khỏang  cách giữa  đích bắn  và người bắn cung   chỉ bằng  chiều rộng  của một  trong  những  khu vườn   trên Thiên đàng
      Thiên đàng  nằm  dưới bóng  lưỡi  gươm . 
 
      Truyền thống   cũng  đưa ra  một  số qui luật   về chiến tranh  khi tiến hành  jihad
 
      Nên  đối xử tốt với tù binh
      Việc cướp bóc là điều xấu xa kinh tởm
      Thượng  đế cấm  không  cho giết  phụ nữ và trẻ em
      Người Hồi giáo tôn trọng   các cam kết ,  miễn là  những  cam kết  này hợp pháp . 
 
 
      Những văn bản  pháp lý  chuẩn  về shari’a  thường  có  1 chương về jihad , theo nghĩa  quân sự   là 1  cuộc chiến  qui  ứơc chống lại kẻ vô  đạo và  bỏ đạo . Nhưng những  văn bản này cũng  cũng    chỉ ra    hành vi   đúng  và tôn trọng   các  qui luật  chiến  tranh   đối với các vấn đề như khơi mào và  chấm dứt  các cuộc  xung đột   và các   đối xử với    thường  dân  và tù binh ,  đó là chưa  nói  đến  các   sứ giả ngọai giao .
       Trong   phần  lớn   lịch sử Hồi giáo  được ghi chép ,   kể từ khi có  Đấng Tiên tri  trở về sau ,  từ jihad    đựơc  dùng  chủ yếu  theo nghĩa  quân sự . Muhammad   bắt  đầu  sứ mạng  tiên tri  tại  quê nhà , Mecca ,  nhưng  do   đám cầm  quyền  ngọai đạo cai trị thành  phố truy bức   cho nên   ngài  và  các giáo   đồ dời   sang  Medina , nơi đây  các  bộ lạc bản địa chào đón  họ   và  đưa đấng tiên tri  lên   vị trí  nhà hòa giải  , sau đó là thủ lãnh .  Chuyến   di hành   này   theo tiếng  Ả -rập là  Hijra , đôi khi bị gọi trệch đi   thành  Hegira   và  dịch  sai thành"sự tháo chạy". Kỷ nguyên Hồi giáo  lấy  Hijra  làm mốc tính  bắt  đầu  năm  Ả -rập . Jihad  đầu tiên   do  chính đấng  Tiên tri   ra tay   chống   lại   các nhà  cầm  quyền  tại sinh quán  của ngài  và kết  thúc   bằng  việc chinh   phục  Mecca  vào tháng  chay Ramadan   vào năm thứ 8  sau Hijra , tương  ứng  với  tháng   giêng  năm 630  Tây  lịch .  Giới lãnh đạo  Mecca  đầu hàng   mà không hề chống cự , và người   ở Mecca , trừ những ai xúc phạm đến  Đấng tiên tri  hoặc 1 người Hồi giáo , đều được   bảo đảm an tòan sinh mạng  và tài sản  ,  miễn là   họ ứng  xử phù hợp  với các  cam kết.   Nhiệm vụ tiếp theo  là  nới  rộng    quyền  lực   Hồi giáo  đến   các vùng  khác thuộc  bán đảo Ả -rập ,  và  đến   phần còn lại  của  thế giới ,  do các Calip  là  những  người kế tục  của  đấng Tiên tri .
      Trong những năm đầu của kỷ nguyên  Hồi   giáo , điều này   dường như   khả dĩ ,   có khả năng thưc hiện đựơc . Chỉ trong 1 thời gian ngắn , các đội quân  bách thắng  đã  xóa sổ   đế quốc Ba tư  cổ đại  và   sáp nhập  tất  cả lãnh thổ của đế quốc này   vào cương thổ   dưới quyền Caliph,  mở lối   xâm lăng  vào Trung  Á  và Ấn độ .  Về phía tây , Đế quốc Byzantine  tuy chưa  bị đánh bại , nhưng  phần lãnh thổ lớn cũng   đã  bị tước  mất .  Rồi   các tỉnh theo Cơ đốc  giáo  tại Syria ,Palestine, Ai cập   và Bắc Phi  cũng bị thu tóm và  sau đó  trở thành  các địa  phương  bị Hồi giáo  hóa và   Ả -rập hóa  và  đây là bàn đạp  để tiến công   sâu hơn  vào  châu Âu , chinh phục  Tây ban nha  ,  và Bồ   đào  nha   và phần lớn  miền nam nước Ý .  Vào đầu thế kỷ  thứ 8  , đội quân Ả -rập  còn  vựơt  qua  cả dãy Pyrenées  để sang nước Pháp .
      Sau nhiều thế kỷ dừơng như lúc nào cũng chiến thắng ,  jihad của người Ả -rập  cuối cùng  bị   châu Âu Cơ đốc  giáo chặn đứng  và đẩy  lùi   về phía đông  , người Byzantines  giữ vững  thành  phố Constantinople   theo  Cơ đốc  giáo ,   đẩy lùi nhiều   lọat   tấn công   của  người Ả -rập .  Về phía tây , người Cơ đốc  giáo  bắt  đầu  1 tiến trình  dai  dẵng ,  dài hơi  mà trong lịch sử Tây ban  nha   gọi là Reconquista  , hoặc là  Cuộc tái chinh  phục ,  dần   dần  hất cẳng người  Hồi giáo  ra khỏi  những lãnh thổ bị chiếm   ở Ý và bán đảo  Iberia. Họ cũng  cố thử đưa công cuộc  tái chinh  phục  sang  miền  Trung  đông   ,  và nhằm  lấy lại  đất Chúa , đã bị   người  Hồi giáo chiếm hồi thế kỷ thứ 7 .  Cố gắng này  đựơc  gọi là Thập tự chinh  đã bị   thất bại hòan tòan   và  các Thập tự binh   đã tháo lui trong hỗn  lọan .
      Nhưng  jihad   không  dừng  ở đó .  Một giai đoạn mới lại mở màn , lần  này   không phải do người Ả -rập   mà do những  kẻ tân tòng ,  đó  là người Thổ và  người  Tatar. Họ chiếm lấy  vùng  Anatolia vốn  của  người Cơ đốc  giáo ,  và  vào tháng 5/1453   họ chiếm  lấy Constantinople ,  đô thị này   từ đó trở về sau   trở thành  kinh đô   của các  sultan đế quốc    Ottoman  ,   là những  người kế nghiệp  các Caliph  lãnh  đạo   các jihad . Các  Ottoman  tại bán đảo Balkan  và  những   người Tatar   cải đạo   Hồi   tại Nga  quay  lại   cố chinh   phục   châu Âu ,  lần này đi từ hướng đông , và   có lúc  dường như cầm chắc  phần thắng .
      Nhưng một lần nữa   châu Âu  Cơ đốc  giáo   lại  đủ sức trục  xuất  các kẻ xâm lược  và    lần này   lại thành công hơn  , chống lại đựơc  thế lực  Hồi giáo .  Vào lúc này  jihad đã  hầu như chuyển  sang  thế phòng vệ - , chống lại  cuộc tái chinh phục  tại Tây ban  nha  và tại Nga ,   chống  chọi  với  các phong trào  tự giải phóng  dân  tộc  của các thần dân Cơ đốc  giáo   trong  đế quốc  Ottoman   , và cuối cùng là , như người Hồi giáo nhìn nhận ,   là để bảo vệ   ngay chính  trung tâm  Hồi giáo  khỏi  những   cuộc tấn công   của kẻ vô đạo .  Giai đọan này  được gọi  là chủ nghĩa  đế quốc .
      Ngay cả trong  giai  đoạn thoái  lui này , hình thức tấn  công  của thánh chiến  jihad cũng  không hề bị   từ bỏ .  Cho   mãi đến 1896 , người Afghan    xâm  lăng  vùng   Hindu Kush  đầy núi non  hiện nay  là   vùng đông bắc Afghanistan .  Cho tới thời điểm đó  , dân  cư ở đây  không  phải  là người  Hồi giáo  ,  và  vì thế vùng đất này  đối với  người Hồi giáo là Kafiristan , tức là"đất của những người không  tín ngưỡng". Sau khi bị người Afgan chinh phục , vùng   đất này đựơc   đặt tên    lại là  Nuristan"vùng  đất của ánh sáng". Trong cùng thời gian , jihad dưới nhiều   hình thức  đã đựơc   tiến  hành  tại  châu Phi  để chống lại những  người không theo Hồi giáo . Nhưng  trong phần lớn các trừơng hợp ,   quan  niệm , thực hành   và kinh nghiệm của jihad  trong thế giới  Hồi giáo hiện đại   chủ yếu  mang tính  tự vệ .
      Từ này đựơc  sử dụng nhiều trong  quân  sự còn tiếp tục   đến  các thời  kỳ cận  đại gần  đây .  Trong  đế quốc Ottoman , thành  phố Belgrade ,  một tiền đồn  trong cuộc chiến chó6ng lại người Áo  , đựơc   đặt  cho  một  cái tên có  vần  điệu  là  Dar al –Jihad (  Nhà của Jihad) .  Vào đầu thế kỷ 19 , khi  Muhammad ‘Ali Pasha , nhà  lãnh đạo  chủ trương  canh tân  của Ai cập ,  tiến  hành  cải cách     và   quản lý  quân đội  theo  kiểu Anh  và Pháp ,   đã đặt  ra "1  bộ chiến tranh"  để   điều  hành quân đồi . Theo  tiếng Ả -rập thì  bộ này có tên  là Bộ các vấn đề thánh chiến ( Diwan al –Jihadiyya)  và  đứng  đầu là  Quan  giám  sát   các  vấn đề thánh chiến ( Nazir al –Jihadiyya) .  Cũng  có  thể nêu ra  một  số vi  dụ khác  cho thấy  từ jihad  không còn  ý nghĩa  thánh  thần nữa  mà chỉ còn giữ hàm ý  quân sự .  Vào  thời cận đại  người ta  sử dụng lại  cả 2  ý nghĩa  quân sự và   đạo đức , nhưng   cách hiểu lại khác nhau   và  mỗi người áp dụng  mỗi cách .  Các tổ chức lớn tiếng xưng  danh Jihad hiện nay  , tại Kashmir , Chechnya ,Palestine  và  những chỗ khác   rõ ràng là không hề sử dụng tử này   theo nghĩa   phấn đấu  về mặt  đạo đức .
      Đôi khi Jihad được  xem như là  Thập tự chính của Hồi giáo, và  2  hình thức này được coi như  ít nhiều tương đương với nhau . Trong một  chừng mực nào  đó , điều này đúng -  cả 2 đều  được công bố và phát động    dưới dạng  thánh chiến  của  đức tin  chân chính chống  lại   kẻ thù vô đạo . Nhưng  ở đây có  sự khác biệt . Thập tự chinh là 1  hình thức phát triển    mới   trong lịch sử Cơ đốc  giáo  và  trong một chừng mực  là  một sự tách  rời căn  bản   ( radical ) ra khỏi những giá trị Cơ đốc  giáo cơ   bản được rao  giảng trong  Thánh kinh . Thế giới Cơ đốc  giáo luôn  bị tấn công từ thế kỷ thứ 7 , và  đã bị người  Hồi  chiếm nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn ;  quan niệm   về    1 cuộc chiến thần thánh ,hoặc thông  thường  hơn , là 1 cuộc chiến  có chính nghĩa cũng  đã  có từ xa  xưa . Tuy nhiên trong cuộc chiến   dai dẳng giữa đạo Hồi và  đạo Cơ đốc  , thì  thập  tự chinh  chỉ mới gần đây ,  qui mô hạn chế   và thời gian xảy ra tương đối  ngắn .  Jihad xuất hiện   từ lúc có  lịch  sử đạo Hồi -  trong kinh sách , trong cuộc  đời  của đấng  Tiên tri  , và  trong hành động  của   các giáo đồ cũng như  những người kế tục sau ngài .  Jihad đã liên tục hiện diện trong lịch sử đạo Hồi  và vẫn còn  giữ nguyên  tính cách  cho  đến ngày  nay .  Dĩ  nhiên là từ thập tự chinh   đi  từ gốc là  thập ác  và   nguyên  uỷ   chỉ dành cho  cuộc thánh chiến đối với người  theo đạo Cơ đốc  . Nhưng     trong thế giới Cơ đốc  giáo   ý nghĩa này đã  mất  từ lâu   và ngày nay thường được dùng  với nghĩa   là 1  nỗ lực  đạo đức   dành cho 1   thiện ý . Ta có  thể phát động  1  cuộc thập tự chinh vì  môi trừơng , vì  nước  sạch  ,  vì  các  dịch vụ xã hội tốt hơn , vì  nữ quyền  và cho nhiều  ý đồ   khác . Điểm  chính là ngày nay từ thập tự chinh  không  đựơc dùng  đúng  theo  ý nghĩa tôn  giáo ban đầu . Jihad  cũng được   dùng theo nhiều nghĩa khác nhau , nhưng không giống như  từ thập tự chinh,  nó  vẫn   giữ được  ý nghĩa gốc ban đầu .
      Những ai   bị giết   trong  Jihad  được   gọi  là tử vì đạo ( martyr) , theo tiếng  Ả -rập  và các ngôn ngữ Hồi  giáo khác  là shahid . Tiếng  Anh  martyr đi từ tiếng Hi lạp martys  có nghĩa là" nhân chứng"và  theo  tập  quán Cơ đốc  - Do thái  dùng  để chỉ những ai sẳn  sàng   chịu tra tấn   và  chết    thay   vì  từ bỏ đức tin . Như   vậy hành động tử vì đạo của người này  là   1 sự chứng kiến  hoặc  sự chứng  thực  đối với  đức tin đó , và  sẳn lòng  chịu chết vì  đức tin  này . Trong tiếng Ả -rập , shahid cũng  có  ý nghĩa" chứng kiến"và thường đựơc  dịch   thành"martyr” ,  nhưng    từ này lại có  1 hàm ý  khá  khác  biệt . Theo  thông lệ   đạo Hồi ,  thì   từ tử vì đạo ( martyrdom)   thường để chỉ cái chết   vì  jihad   và   phần thưởng được  sung sứơng bất diệt  trên thiên  đàng , được  mô tả chi tiết  trong những kinh sách tôn giáo sơ kỳ . Ngược lại ,  tự sát , là 1 trọng tội  và   đời  đời bị nguyền rũa ngay đối với những  người  đáng lẽ được  lên thiên đàng .  Các  luật  gia  cổ điển   phân biệt  rất  rõ  giữa  cái   chết  do  kẻ thù   gây ra  và cái chết  do  tự tử . Chết   do kẻ thù giết  sẽ lên trời , còn  tự tử sẽ   xuống địa ngục . Một số luật  gia  phe chính thống gần đây  cùng  một  số người khác  đã cố ý đánh đồng  và thậm chí   bỏ qua  sự khác biệt này , nhưng quan điểm  của họ không hề đựơc  chấp nhận rộng  rãi . Kẻ đánh  bom  liều chết  như  thế đã vi phạm  đáng kể vào điều cốt lõi về mặt thần  học .
      Vì lẽ thánh chiến   là 1 nghĩa  vụ đối với đức tin , cho nên   được qui định cặn   kẻ trong  shari’a .  Các chiến binh  jihad  không được  giết  phụ nữ , trẻ em  và người già  nếu không bị tấn công  trước , không đựơc hành  hạ tra tấn  tù  nhân ,  không được  tấn công  mà không  báo trước  sau  hưu chiến  và  phải tôn trọng các   cam kết. Các luật gia  và  thần  học thời trung  cổ đã thảo luận khá nhiều  về các qui luật chiến tranh , có cả những vấn đề như vũ khí nào được phép  và không  đựơc  phép  sử dụng . Thậm chí  trong  các  văn bản thời trung cổ lại bàn đến  tính  hợp lệ của chiến tranh hoả tiển và  hoá học ,  hoả tiển tức  là  các máy  bắn đá (mangonel) và máy lăng  đá ( catapult)  , còn hoá học  là  tên  có tẩm thúôc độc  và bỏ thuốc độc  vào các nguồn  nước uống  của kẻ thù . Về những điểm  này có  sự sai biệt  đáng kể . Các luật gia ,   có người  cho  phép , có  người hạn chế , có người không  nhất trí  về   việc  sử dụng những  vũ khí   này . Lý do  đưa ra  là những   vũ khí  trên  gây ra số thương vong bừa  bãi . Trong các kinh sách   chính   Hồi giáo không có  đoạn nào  cho phép khủng bố và ám sát . Trong kinh sách thậm chí không có điểm  nào -   theo  tôi biết  cho đến  nay  ( tác  giả- BL ) - bàn tới   việc  tàn sát bừa  bãi những người  vô  tội .
      Các  luật gia cũng  nhấn  mạnh  là chiến lợi phẩm phải đựơc  coi là 1 nguồn lợi  phụ , không phải là mục tiêu chính . Một  số người còn đi  xa hơn nữa khi cho rằng nếu  coi chiến lợi phẩm    là  mục  đích chính  thì sẽ làm giảm  ý nghĩa  và tước  đi những lợi  ích do Jihad mang lại  hoặc   trước mắt   hoặc  về sau này  .Jihad ,  nếu  muốn  hợp lệ ,  phải được  tiến hành"theo con đường của Thượng đế" ,  và không  đựơc vì  quyền lợi vật chất .Tuy nhiên , có nhiều tiếng  than  phiền  về việc  sử dụng  từ Jihad  đáng tôn kính cho  những  mục đích  đáng   hỗ thẹn  . Đặc biệt là  các  luật gia người Phi  phàn nàn  về việc các tay  buôn  nô lệ sử dụng từ Jihad để biện minh   cho sự cướp bóc  và đòi  quyền  làm chủ nô đối  với các  nạn nhân . Luật thánh đòi hỏi phải  đối  xử tốt với những người  không tham gia chiến đấu  nhưng lại cho phép kẻ chiến thắng nhiều  quyền  rộng  rãi  đối với tài sản  và  cả đối với nhân  thân và gia đình  của  kẻ chiến bại .Theo  những tập tục chung thời  cổ đại , kẻ thù  bị bắt   trong chiến trận và cùng  với  gia đình  sẽ   trở thành nô lệ ,   người  chiến thắng có thể đem  bán hoặc giữ lại để sử dụng . Hồi giáo  thay đổi  luật này  chút ít  bằng cách hạn  chế quyền  bắt làm nô lệ   này đối  với  những ai bị bắt  trong jihad  nhưng  đối với  các hình thức chiến tranh khác thì không có .
      Các luật lệ chiến tranh đối với  kẻ bội giáo có phần nào khác  và nghiêm khắc hơn  đối  với các luật về chiến tranh  đối với  kẻ vô đạo . Kẻ bội giáo dứơi mắt  người Hồi giáo  còn   tệ hơn là kẻ vô đạo . Kẻ vô đạo là người chưa  từng thấy đựơc ánh sáng , và luôn  hy vọng  rằng  một ngày nào đó  họ sẽ nhìn  thấy . Chừng nào mà họ còn tuân thủ một số điều kiện , thì  họ vẫn còn   nhận đựơc sự khoan dung của nhà nước Hồi giáo   và cho phép họ tiếp tục  giữ đạo  , thậm chí  việc tuân thủ các luật lệ tôn giáo của mình . Kẻ bội giáo  là  người đã  biết đựơc   đức tin  chân chính , dù là ngắn   ngủi , rồi  lại từ bỏ .  Tội này  con người không thể tha thứ được , và theo  đại đa số các luật  gia ,   kẻ phản bội phải chết - nếu là  đàn ông . Đối với  đàn  bà , do trách nhiệm đựoc  coi là ít hơn , chỉ cần  đánh roi  và  bỏ tù là đủ . Thượng đế nhân từ có thể tha thứ cho kẻ phản  bội   vào kiếp sau , nếu Ngài  muốn . Còn  con người  thì không có  thẩm quyền  như thế .  Sự phân biệt này hiện nay có phần  quan trọng , khi các nhà lãnh đạo hiếu chiến  kêu gọi 1 jihad    2 mặt -  chống  lại kẻ vô đạo bên ngoài  và chống lại kẻ bội giáo bên trong . Phần lớn , nếu không phải là tất  cả các nhà lãnh đạo Hồi giáo   mà  phương Tây chúng  ta coi như  là  bạn  và  đồng minh  thì  lại bị đa số dân chúng  của họ coi  như  là  kẻ phản bội , và tệ hơn  nữa là kẻ bội  giáo.
      Từ thời  xa xưa ,  có sự phân biệt về luật pháp  giữa những  lãnh thổ   chiếm đựơc  bằng  vũ lực ( tiếng  Ả -rập là ‘anwatan, tương  đương    với   vi et armis  của  các luật  gia  La mã )  và sulban  những lãnh thổ có đựơc qua  hình thức hưu chiến  hoặc  đầu  hàng hoà bình .  Qui định   về   của  cải cướp được   , và khái  quát hơn , là   cách đối  xử với dân chúng tại  các  vùng đất   mới chiếm   có  khác nhau   ở nhiều mặt . Theo truyền thống , sự khác biệt đựơc  hình tượng hoá tại nhà  thờ vào  mỗi ngày thứ 6 .  Tại các  vùng đất chiếm được , anwatan ,  giáo sĩ mang  1 cây gươm ,  tại vùng đất qui phục sulban ,  giáo sĩ  cầm 1 cây  gậy gỗ .  Hình ảnh lưỡi gươm  vẫn còn  đóng vai trò quan trọng . Cho tới ngày nay,    quốc  kì của  Arabia Saudi  có  2 biểu hiện  trên nền  xanh  lá cây . Một là  dòng chữ Ả -rập nêu rõ  niềm tin Hồi giáo" Thượng  đế chỉ có 1 , Muhammad  là  Tiên tri  của Người".  Biểu  tượng kia hình  ảnh  cây  gươm không lẫn vào đâu đựơc .
      Có một số thời kỳ , các luật   gia thừa nhận  1 tình  trạng trung gian giữa  nhà  Chiến  tranh   và Nhà  của Islam , đó là nhà  Hưu chiến (  Dar al-Sulh)   hoặc  Nhà của giao ứơc ( Dar al-‘Ahd)  . Nhà này bao gồm  những   quốc gia không  theo Hồi giáo , thường là Cơ đốc  giáo , khi các lãnh đạo những nơi này  có ký kết   với  các nhà lãnh đạo  Islam   để   nộp    thuế hoặc cống  vật , coi như là tương đương   với jizya hoặc thuế thân để được phép tự chủ đối với các  vấn đề nội trị . Ví dụ đầu tiên  là   cam kết   giữa  Caliph Umayyad ký vào thế kỷ thứ 7   với các ông  hoàng  theo đạo  Cơ đốc  tại Armenia . Ví dụ cổ điển  của  Nhà  Hưu  chiến  là  hiệp nghị cam kết   vào năm 652  với các  nhà  cai trị Cơ đốc  tại xứ Nubia  , theo đó xứ này  không phải nộp thuế thân , nhưng   hàng năm  phải tiến cống  một số nô lệ   nhất định .  Qua  cách    coi quà tặng như  là  1  hình thức tiến cống , các nhà lãnh đạo Hồi giáo   và các cố vấn pháp lý   có  thể điều chỉnh  luật pháp   xử lý  nhiều  mối quan hệ chính trị , quân sự   và thương mại với  các cường quốc không phải Hồi giáo. Phương thưc này  không hẵn  hoàn toàn  biến mất .
      ……….. 
 
 
      Ngay từ đầu , người Hồi giáo  đã biết  rằng  có  sự khác biệt giữa các dân tộc trong Nhà   chiến tranh . Phần lớn   các dân tộc này    thờ nhiều  thần  và thờ ngẩu tượng ,  là người  không hề gây nguy cơ  nghiêm trọng nào đối   với đạo  Hồi   và   là đối tượng  có khả năng  cải   đạo . Những  dân tộc này chủ yếu sống  ở   châu Á  và châu Phi  . Ngoại  lệ    chính là các  tín đồ Cơ đốc  giáo , được  người Hồi giáo   thừa nhận  là  có  1 tôn giáo giống như họ , và  như thế chính là kẻ kình  địch  số 1   trong  việc thống trị thế giới - hoặc  nói theo cách của họ , là sự giác ngộ thế giới (  enlightenment) .Đạo  Cơ đốc  và đạo Hồi  là  2  nền văn minh  đựơc  xây dựng  trên cơ sở tôn giáo   cho nên  xung đột  với nhau không phải  vì sự khác biệt  mà  chính do  sự giống  nhau  .
      Công trình Hồi giáo  xưa nhất  còn sót lại    nằm  ngoài  bán đảo Ả -rập  là Nhà thờ Đá   tại Jerusalem , hoàn tất  vào năm 691  hoặc 692 C.E.  Công trình này  được  xây trên  nền  1  đền thờ Do thái  cổ ,  theo  1 phong cách riêng   và  nằm gần  các   nhà thờ Cơ đốc  giáo  như  Mộ thánh   và Nhà thờ Chúa lên  trời  , là  1  thông điệp rõ  ràng  cho  người  Do thái , và quan trọng  hơn  , người  theo  đạo Cơ đốc  . Đó  là: những mặc khải của họ ,  tuy rằng  có lúc   xác thực  , nhưng  sau  đó bị những  kẻ thủ tự thiếu tư cách  làm hư hỏng  đi  cho nên   được thay thế bằng  sự mặc khải   cuối cùng  , toàn bích   hơn    nằm  trong  giáo lý Hồi giáo . Cũng như người Do thái  bị người Cơ đốc khuất phục  và   thay thế , thì  cái trật tự thế giới  Cơ đốc ngày nay  phải  được thay thế bằng  tín ngưỡng  Hồi giáo   và  các  Caliph   đạo Hồi .  Để nhấn mạnh điểm này , tại nhà   thờ Đá  có trích  những dòng từ kinh Qur’an nêu rõ  cái mà người Hồi giáo  coi là   sai lầm  của  đạo Cơ đốc" Vinh danh thay  Thượng  đế , không ai là con , là  bạn của người"và"Người là Thượng đế , chỉ có  một  , đời đời . Người không   sinh   , không ai sinh ra  Người  và  không  ai sánh bằng  Người"( Qur’an CXII) .  Điều này  quả là  một  sự thách  đố đối với  đạo Cơ đốc ngay   tại  nơi  phát sinh .  Một thiên niên kỷ sau  việc  đồn trú của  lính  Mỹ tại  Arabia  được nhiều   tín đồ Hồi giáo  và  nhất là Usama  bin Ladin  coi như là  1 thách đố tương tự , lần này  là  đạo Cơ đốc  đối với  đạo  Hồi .
      Để   làm rõ thêm  sự thách thức  đầu tiên này đối với  đạo Cơ  đốc , lần đầu tiên , vị Caliph   cho đúc đồng vàng ,  mà từ trước đến nay   chỉ có  người La mã  độc quyền .  Điểm  đáng nói  là  đồng tiền vàng Hồi giáo  đầu tiên , đồng dinar ,   lại mượn  từ   chữ La mã  denarius .  Một số   đồng tiền    có tên  vị Caliph ,  danh hiệu  là  Thống lãnh  các tín đồ , và một số câu thơ  đầy  tính luận chiến . Thông điệp rất rõ ràng . Theo cách nghĩ của Hồi giáo , thì   người Do thái, và sau  đó là người Cơ đốc đã  lầm lạc   đi  theo  những tín điều  giả dối .  Vì thế , cả 2  đạo  đều bị loại bỏ , và thay thế bằng  đạo Hồi , là  sự mặc  khải  cuối cùng  và hoàn hảo  của Thượng đế theo thứ tự . Những  câu thơ trong kinh Qur’an  được  viết  tại  Nhà thờ Đá   và trên các đồng tiền vàng  qui tội cái  mà  theo người  Hồi giáo   là những điều  sai lạc tệ hại  nhất  của   đức tin chân  thực . Dĩ nhiên  còn có  thêm  một thông điệp nữa của Caliph gởi cho Hoàng đế Cơ đốc  "Đức tin  của ngươi  đã bị băng hoại , ngươi  đã hết thời rồi. Ta đây  mới  là người cai trị của đế quốc  của  Chúa  trên   trần  gian này".
      Thông điệp  đựơc hiểu  rõ , và  Hoàng đế coi việc đúc tiền vàng như là  lý do  tuyên chiến ( casus belli) . Trong hơn một ngàn  năm , cuộc chiến  đựơc   các Caliph Hồi giáo phát động  từ nhiều kinh đô khác  nhau ở Medina , Damascus , Baghdad, Cairo   chống lại các Hoàng đế Cơ đốc giáo  tại  Constantinople , Vienna  và    các  danh xưng khác sau  này  , tại các  quốc gia   phương tây xa  xôi  hơn. Mỗi   vị vua ,  trong dời  của  mình , đều là đối  tượng chính của   Jihad.
       Dĩ nhiên , trong thực tế , việc áp dụng học  thuết về jihad  không phải lúc nào cũng  bạo lực hoặc khắc nghiệt . Tình trạng  chiến tranh  đúng theo  qui tắc    có  thể   tạm ngưng  theo hình thức đựơc  luật pháp qui định như hưu  chiến ,  nhưng hưu  chiến  này   lại khác  ít nhiều  với   cái gọi là  hiệp  uớc hoà  bình  do các cường quốc  phương  Tây ký  với nhau . Đó  là  những cuộc hưu  chiến do  Đấng  Tiến  tri  ký với  các kẻ thù  vô  thần  của  mình , và đã trở thành  cơ sở cho  những gì mà ta gọi là luật  quốc tế của  Hồi giáo .  Theo Shari’a , phải có nhiệm vụ khoan dung  đối với các tôn giáo  đã có  từ trước  do mặc khải thần  linh             ( Qur’an II,256: Không được ép  buộc  trong  tôn  giáo") . Tại  các vùng đất  do   Hồi giáo cai trị ,  luật Hồi giáo cho  phép người Do thái và Cơ đốc  được    giữ đạo   và  quán xuyến  công việc của mình ,  nhưng phải chịu  một số bó  buộc  , quan trọng nhất  là thuế thân đánh vào  nam giới trưởng thành . Thuế này , được gọi là jizya ,   đựơc  noi rõ trong  Qur’an :IX,29 :” Hãy đánh lại  những  kẻ   nào không tin vào Thượng đế   hoặc   không tin vào ngày phán xét , những  kẻ nào không cấm những điều  mà  Thượng đế   và các sứ đồ của Người  đã tuyên bố cấm , những kẻ không theo tôn giáo  của  chân  lý  , dù rằng chúng có là  dân có tên trong Sách  thành ( tức là người Do thái và  Cơ đốc )  , cho tới  khi  chính bản thân   chúng  khúm núm chịu nộp thuế jizya". Những dòng sau   đã được  diễn giải theo nhiều cách khác nhau , về mặt văn chương cũng như   trên  thực  tiển .
      Những hạn  chế khác   như không được  mặc quần áo  hoặc dấu hiệu nổi bật , cấm không được mang vũ khí , cởi ngựa , mua nô lệ Hồi giáo  hoặc  xây nhà cao  hơn  nhà  người Hồi giáo .Trừ 2 điều sau  và  thuế thân jizya ,  còn những cấm đáon trên  không phải lúc nào cũng  phải tuân thủ chặt chẽ .   Bù lại ,  những    thần   dân không theo  Hồi giáo  trong  1 nhà nước Hồi giáo  lại được hưởng quyền tự quản  rất lớn  khi xử lý   những  vấn đề thuộc  nội bộ cọng đồng bao gồm  giáo dục , đánh  thuế và  thực thi luật   của riêng họ   liên quan đến nhân thân , nhất là trong hôn nhân , li dị và  thừa kế . Thoả ứơc  hoặc  hợp đồng giữa nhà nước Hồi giáo  và  1 cọng  đồng  dân cư  không - Hồi giáo  đựoc gọi là  dhimma , và  người  trong  cọng đồng  đựơc  nhà nước  Hồi  giáo bao dung  được gọi là  dhimmi .  Theo ngôn ngữ hiện đại , người Do thái và Cơ đốc  trong 1 nhà nước  Hồi giáo  cổ điển  là  các công   dân hạng  hai, nhưng quyền  của công dân hạng  hai , đựơc  xác định  bởi luật pháp   và  mặc khải   và  đựơc  công  luận thừa nhận ,  lại còn tốt  hơn nhiều  so  với việc  hoàn toàn không có   quyền công dân  dành cho những người không theo Cơ đốc giáo  và  ngay cả đối với  một số người Cơđốc  lệch lạc  tại phương Tây .
      Jihad  cũng cũng không ngăn cản  các chính phủ Hồi giáo tìm kiếm đồng minh Cơ đốc  để chống  lại  các  kình   địch  là Hồi giáo khác  , ngay cả trong thời gian xảy ra Thập tự chinh .  
 
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét