Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Ludwig von Mises (1881-1973) - CHỦ NGHĨA TỰ DO TRUYỀN THỐNG 8
07:28
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 4
Chủ nghĩa tự do và các chính đảng
4. Chủ nghĩa tự do và đảng đòi đặc quyền đặc lợi
Những đảng đòi đặc quyền đặc
lợi, chẳng có gì ngoài chính sách bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho những
nhóm người của mình, không chỉ làm cho hệ thống nghị viện trở thành bất
khả thi mà còn phá hoại sự thống nhất quốc gia và xã hội nữa. Họ làm cho
không chỉ chế độ đại nghị mà toàn thể hệ thống chính trị và xã hội lâm
vào khủng hoảng. Về lâu dài, xã hội sẽ không thể tồn tại được nếu nó bị
chia thành từng nhóm riêng biệt, mỗi nhóm lại cố tình giành giật đặc
quyền đặc lợi cho người của nhóm mình, lúc nào cũng cảnh giác để không
bị thua thiệt và sẵn sàng hi sinh ngay cả những định chế chính trị quan
trọng nhất miễn là giành được lợi ích dù nhỏ đến đâu.
Đối với các đảng đòi đặc quyền
đặc lợi thì mọi vấn đề chính trị đều chỉ là vấn đề chiến thuật mà thôi.
Mục đích cuối cùng của họ đã được xác định ngay từ đầu. Mục tiêu của họ
là giành cho bằng được lợi thế và đặc quyền đặc lợi cho nhóm người mà họ
đại diện, những người khác trong xã hội sẽ phải trả giá. Cương lĩnh của
đảng phải tìm cách che đậy mục tiêu này và tạo cho nó vẻ chính đáng,
nhưng trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không được tuyên bố công khai mục
đích chính sách của đảng. Dù thế nào thì các đảng viên cũng biết rõ mục
đích của mình, họ không cần phải giải thích. Còn phổ biến ra ngoài đến
mức nào thì lại là vấn đề chiến thuật.
Tất cả các đảng đầu tranh giành
đặc quyền đặc quyền đặc lợi chẳng muốn gì ngoài việc bảo vệ ưu quyền cho
nhóm người của mình, họ hoàn toàn không đếm xỉa đến nguy cơ tan rã toàn
bộ cơ cấu xã hội. Họ không thể nào chống lại được sự phê phán của chủ
nghĩa tự do. Nếu đem các yêu sách của họ ra phân tích thì sẽ không phủ
nhận được rằng hoạt động của họ là phản xã hội và mang tính chất phá
hoại; thậm chí chỉ cần nghiên cứu một cách hời hợt nhất cũng đủ thấy
rằng hoạt động của những đảng vì đặc quyền đặc lợi và luôn luôn chống
báng lẫn nhau sẽ chẳng tạo ra bất kì thiết chế hữu ích nào. Chắc chắn là
những người không có khả năng nhìn xa hơn những điều đang diễn ra hàng
ngày sẽ không thấy rõ như thế. Đa số người dân không quan tâm đến những
chuyện sẽ diễn ra sau đây vài ngày. Họ chỉ nghĩ đến những chuyện diễn
hôm nay, nhiều lắm là ngày mai. Họ không bao giờ hỏi điều gì sẽ diễn ra
nếu tất cả các nhóm khác, trong khi theo đuổi đặc quyền đặc lợi của
mình, đều không quan tâm tới phúc lợi của toàn xã hội nữa. Họ hi vọng
không chỉ thực hiện được yêu sách của mình mà còn đập tan được yêu sách
của những người khác. Đối với một ít người, đấy là nói những người đòi
hoạt động của các đảng phải tuân thủ những tiêu chuẩn cao, những người
đòi hỏi rằng ngay cả hoạt động chính trị cũng phải tuân thủ các yêu cầu
đạo đức (“Chỉ hành động trên nguyên tắc mà anh có thể coi là luật phổ
quát, nghĩa là không có mâu thuẫn khi coi hành động của anh là luật mà
mọi người đều phải tuân thủ") thì hệ tư tưởng của những đảng đòi đặc
quyền đặc lợi chắc chắn chỉ là con số không.
Chủ nghĩa xã hội giành được ưu
thế đáng kể là do quan điểm của các đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc
lợi đã có những khiếm khuyết về mặt logich. Nguyên lí của chủ nghĩa xã
hội có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều người, đấy là nói những người
chưa nắm được lí tưởng vĩ đại của chủ nghĩa tự do nhưng lại có tư duy rõ
ràng và không chấp nhận yêu sách đòi đặc quyền đặc lợi cho những nhóm
người cụ thể. Ý tưởng về chủ nghĩa xã hội – ta không thể phủ nhận được
sự vĩ đại của nó, dù nó có những khiếm khuyết bẩm sinh (đã thảo luận một
cách kĩ lưỡng bên trên) - được dùng để che đậy và đồng thời khẳng định
sự yếu kém của quan điểm của các đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi.
Nó tạo ra kết quả là chuyển được sự chú ý của giới phê bình từ hoạt
động của đảng sang những vấn đề lớn hơn, những vấn đề mà dù người ta có
nghĩ thế nào thì cũng là những sự kiện đáng phải xem xét một cách thận
trọng và với sự chú ý cao nhất.
Trong một trăm năm qua lí tưởng
của chủ nghĩa xã hội đã tìm được những người ủng hộ trong số những người
chân thành và lương thiện. Nhiều người tốt nhất và trung thực nhất đã
hân hoan chấp nhận nó. Nó trở thành ngôi sao dẫn đường cho những chính
khách lỗi lạc. Nó giành được vị trí thượng phong trong các trường đại
học và là nguồn cảm hứng cho giới trẻ. Nó lấp đầy tư duy và tình cảm của
thế hệ trước và cả thế hệ hiện nay, đến một lúc nào đó lịch sử sẽ hoàn
toàn có lí khi gọi thời đại của chúng ta là thời đại xã hội chủ nghĩa.
Trong mấy chục năm gần đây, trong tất cả các nước người ta đã làm tất cả
mọi việc có thể - quốc hữu hoá và tập thể hoá các doanh nghiệp, áp dụng
những biện pháp nhằm thực thi nền kinh tế kế hoạch hoá - nhằm biến lí
tưởng xã hội chủ nghĩa thành hiện thực.
Những khiếm khuyết không thể
tránh khỏi của quản lí xã hội chủ nghĩa – ảnh hưởng tiêu cực đối với
năng suất lao động và việc hạch toán kinh tế là bất khả thi – đã dẫn tới
tình trạng là hầu như mỗi bước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa đều
trở thành mối đe doạ nghiêm trọng đối với việc cung cấp những món tiêu
dùng cho người dân. Chính cảnh thiếu thốn như thế đã chặn đứng phong
trào xã hội chủ nghĩa, còn lí tưởng xã hội chủ nghĩa – dù vẫn còn giữ
được ảnh hưởng về mặt ý thức hệ - trong lĩnh vực chính sách cụ thể, đã
trở thành tấm mặt nạ che đậy cho các đảng lao động trong cuộc đấu tranh
giành đặc quyền đặc lợi của họ.
Có thể chứng minh sự đúng đắn
của kết luận như thế đối với bất kì đảng xã hội chủ nghĩa nào, thí dụ
như các phe phái khác nhau của đảng xã hội chủ nghĩa Thiên chúa giáo.
Nhưng chúng tôi đề nghị chỉ thảo luận về những đảng xã hội chủ nghĩa
theo đường lối Marxist, không nghi ngờ gì rằng đấy chính là những đảng
xã hội chủ nghĩa quan trọng nhất.
Marx và những người kế tục ông
có thái độ thực sự nghiêm túc đối với chủ nghĩa xã hội. Marx bác bỏ tất
cả những biện pháp mà các đảng đấu tranh đòi đặc quyền đặc lợi – nhân
danh các nhóm và các giai tầng trong xã hội - kiền nghị. Ông không bao
giờ tỏ ra nghi ngờ giá trị của những luận cứ của phe dân chủ khi phe này
cho rằng những hành động can thiệp như thế chỉ dẫn tới kết quả là năng
suất lao động sẽ giảm. Khi suy nghĩ, viết và nói một cách nhất quán, ông
đều giữ quan điểm cho rằng mọi hành động can thiệp của chính phủ hoặc
của các tổ chức xã hội có lực lưỡng cưỡng chế khác nhằm thay đổi cơ chế
của hệ thống tư bản chủ nghĩa đều là những hành động vô nghĩa vì chúng
không dẫn đến những kết quả mà họ kì vọng, ngược lại chúng sẽ chỉ làm
giảm hiệu suất của nền kinh tế mà thôi. Marx muốn đưa giai cấp công nhân
vào cuộc đấu tranh nhằm thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không
phải nhằm giành một số đặc quyền đặc lợi trong lòng xã hội dựa trên
quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Marx muốn một đảng lao động xã
hội chủ nghĩa, chứ không phải đảng tiểu-tư sản nhắm vào những cải cách
vụn vặt, như ông nói.
Marx, do lòng trung thành mù
quáng đối với những định kiến xuất phát từ hệ thống triết học kinh viện
của chính mình, đã không thể nhìn thấy các sự kiện như chúng vốn là. Ông
nghĩ rằng những người công nhân, được những tác gia dưới ảnh hưởng của
ông tổ chức thành đảng “xã hội chủ nghĩa” sẽ bình tĩnh quan sát quá
trình tiến hoá của hệ thống tư bản theo đúng như học thuyết và sẽ không
trì hoãn cái ngày chủ nghĩa tư bản hoàn toàn chín muồi cho sự tước đoạt
những kẻ từng tước đoạt và “biến thành” chủ nghĩa xã hội. Ông không thấy
rằng các đảng lao động, cũng như các đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc
lợi đang xuất hiện nhan nhản khắp nơi, trong khi về nguyên tắc họ chấp
nhận cương lĩnh xã hội chủ nghĩa, nhưng trong chính sách cụ thể họ lại
chỉ quan tâm đến việc giành đặc quyền đặc lợi ngay trước mắt cho giai
cấp công nhân mà thôi. Lí thuyết của Marx về sự thống nhất lợi ích của
công nhân toàn thế giới lại nhắm đến những mục đích hoàn toàn khác. Nó
đã giúp một số nhóm công nhân che đậy một cách cực kì khéo léo sự kiện
là những nhóm công nhân khác phải trả giá cho chiến thắng của họ. Điều
đó có nghĩa là trong lĩnh vực lập pháp gọi là “thân lao động” cũng như
trong những cuộc đấu tranh của các tổ chức công đoàn, lợi ích của người
vô sản không bao giờ trùng hợp với nhau. Về khía cạnh này, học thuyết
marxist cũng có ích cho các đảng đấu tranh cho đặc quyền đặc lợi của
giai cấp công nhân y như tôn giáo đã giúp ích cho đảng trung tâm và các
đảng phái khác của các giáo sĩ ở Đức, hay tinh thần dân tộc đã giúp cho
các đảng mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa, hay luận điểm cho rằng lợi
ích của những người sản xuất nông nghiệp là giống nhau đã giúp ích cho
các đảng nông dân, hay học thuyết về tính tất yếu của các sắc thuế nhằm
bảo vệ lao động trong nước đã giúp ích cho các đảng theo đuổi chính sách
bảo hộ nền sản xuất nội địa vậy. Các đảng dân chủ xã hội càng phát
triển thì ảnh hưởng của phong trào công đoàn - đấy là nói ngay trong nội
bộ cách đảng đó – càng gia tăng và các đảng đó càng ngày càng giống như
tổ chức công đoàn, tức là tổ chức coi mọi vấn đề chỉ là hạn chế số
thành viên và tăng lương cho người của mình mà thôi.
Chủ nghĩa tự do chẳng có gì
chung với những đảng phái này hết. Nó đứng trên cực đối lập với tất cả
các đảng phái đó. Nó không hứa mang đến cho bất kì ai bất cứ ưu tiên ưu
đãi nào. Nhằm bảo vệ xã hội, nó đòi hỏi mọi người phải hi sinh. Nhưng hi
sinh như thế - đúng hơn phải nói là hi sinh những lợi ích trực tiếp –
dĩ nhiên, chỉ là tạm thời và sẽ được đền bù bằng những lợi ích lớn hơn
và lâu dài hơn. Tuy nhiên, hiện thời đấy đúng là hi sinh. Vì vậy, ngay
từ đầu, trong cuộc đấu tranh với các đảng phái khác, chủ nghĩa tự do đã
nằm trong hoàn cảnh đặc biệt. Ứng cử viên của các đảng phái bài tự do
hứa mang lại cho mỗi nhóm cử tri đặc quyền đặc lợi khác nhau: người sản
xuất bán được giá cao, còn người tiêu dùng thì được mua với giá thấp;
quan chức được hưởng lương cao, còn người đóng thuế thì đóng thấp. Anh
ta sẵn sàng đồng ý với mọi chi tiêu lấy từ ngân sách quốc gia hay từ túi
người giàu. Anh ta chẳng coi nhóm nào là quá nhỏ và sẵn sàng tìm sự ủng
hộ của họ bằng cách lấy tiền nhà nước để mua quà tặng họ. Còn ứng cử
viên của đảng tư do thì chỉ có thể nói với tất cả cử tri rằng tìm kiếm
đặc quyền đặc lợi là hành động phản xã hội.
5. Công tác tuyên truyền của đảng và tổ chức đảng
Khi các ý tưởng tự do được
truyền bá từ quê hương mình, tức là Tây Âu, sang Trung và Đông Âu thì
các thế lực truyền thống - chế độ quân chủ, giới quí tộc và tăng lữ -
dựa vào những phương tiện đàn áp mà họ nắm trong tay cảm thấy hoàn toàn
yên tâm. Họ thấy không cần phải dùng vũ khí trí tuệ đề chiến đấu với chủ
nghĩa tự do và tư tưởng của thời Khai Sáng. Họ cho rằng đàn áp, ngược
đãi và bỏ tù những người bất đồng còn có ích hơn. Họ ca ngợi bộ máy trấn
áp và bạo lực của quân đội và cảnh sát. Mãi sau này họ mới kinh hoàng
nhận ra rằng hệ tư tưởng mới đã chinh phục được tâm trí của các quan
chức và binh lính và bằng cách đó đã tước được vũ khí của họ. Sự thất
bại của chế độ cũ trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa tự do đã dạy cho
những người ủng hộ nó một sự thật đơn giản là không có gì mạnh hơn tư
tưởng và những lí thuyết gia của các hệ tư tưởng và chỉ có dùng tư tưởng
mới chống lại được tư tưởng mà thôi. Họ nhận thức được rằng tin vào vũ
lực là ngu vì chỉ có thể sử dụng được người cầm súng nếu họ sẵn sàng
tuân thủ và cuối cùng thì tư tưởng chính là nền tảng của mọi chính quyền
và khả năng chi phối của nó.
Công nhận chân lí xã hội học đó
là một trong những niềm tin chủ yếu làm nền tảng cho lí thuyết chính trị
của chủ nghĩa tự do. Từ đó chủ nghĩa tự do rút ra kết luận rằng về lâu
dài chân lí và công bằng sẽ phải chiến thắng vì thắng lợi của nó trong
lĩnh vực tư tưởng là sự kiện không thể nghi ngờ. Ai giành được chiến
thắng trong lĩnh vực này cuối cùng cũng sẽ giành được chiến thắng trong
lĩnh vực công việc cụ thể vì không có lực lượng khủng bố nào có thể đè
bẹp được nó. Vì vậy mà ta không phải lo lắng cho sự lan truyền của chủ
nghĩa tự do. Dù có xảy ra chuyện gì thì nó vẫn sẽ chiến thắng.
Có thể hiểu được những người
chống đối chủ nghĩa tự do nếu lúc nào ta cũng nghĩ rằng họ họ chỉ làm
những chuyện trái ngược với những điều mà chủ nghĩa tự do dạy mà thôi,
nghĩa là họ bác bỏ và phản ứng lại với những tư tưởng của chủ nghĩa tự
do. Họ không thể đưa ra được học thuyết toàn diện và nhất quán về kinh
tế và xã hội, có thể đối chọi được với hệ tư tưởng của chủ nghĩa tự do
vì chủ nghĩa tự do là kết luận khả dĩ duy nhất có thể được rút ra từ học
thuyết như thế. Còn cái cương lĩnh hứa hẹn mang lại điều gì đó cho một
nhóm người hay một vài nhóm người không có hi vọng được toàn dân ủng hộ
và sẽ thất bại về chính trị ngay từ đầu. Như vậy nghĩa là các đảng đó sẽ
phải dàn xềp để buộc những nhóm người mà đảng nhắm tới phải nằm hoàn
toàn trong tầm kiểm soát của đảng và giữ mãi họ trong tình trạng như
thế. Họ phải làm mọi cách để chủ nghĩa tự do không tìm được người ủng hộ
trong những giai cấp mà họ lệ thuộc vào.
Các tổ chức đảng được thành lập
cho mục đích như thế, đấy là những tổ chức sẽ giữ chặt từng cá nhân đến
mức họ chẳng dám nghĩ đến việc bỏ đảng nữa. Ở Đức và Áo, nơi hệ thống
này đã phát triển một cách chu đáo và ở các nước Đông Âu, nơi các hệ
thống này được sao chép lại, hiện nay từng cá nhân đã là đảng viên chứ
không còn là người công dân bình thường nữa. Ngay từ lúc còn bé người đó
đã được đảng chăm sóc rồi. Hoạt động thể dục thể thao và hoạt động xã
hội được tổ chức theo đường lối của đảng. Từ hệ thống hợp tác xã, nông
dân phải thông qua đó mới nhận được tiền trợ cấp và tài trợ cho những
người sản xuất nông nghiệp; đến những định chế giúp các chuyên gia thăng
tiến và thị trường lao động cũng như hệ thống quĩ tiết kiệm - tất cả
đều được quản lí theo đường lối của đảng. Muốn được tôn trọng, đấy là
nói trong tất cả những vấn đề mà chính quyền có thể tự do hành động, cá
nhân buộc phải dựa vào sự ủng hộ của đảng. Trong những hoàn cảnh như
thế, sao lãng công việc của đảng sẽ làm người ta nghi ngờ, còn ra khỏi
đảng thì có nghĩa là sẽ gặp những khó khăn nghiêm trọng về mặt kinh tế,
nếu không nói là sẽ bị phá sản về mặt kinh tế và tẩy chay về mặt xã hội.
Các đảng đấu tranh giành đặc
quyền đặc lợi có cách xử lí đặc biệt đối với những người có tay nghề
cao. Những nghề tự do như luật sư, bác sĩ, nhà văn, nghệ sĩ, không có đủ
người để có thể thành lập những đảng riêng nhằm bảo vệ quyền lợi của
chính họ. Vì vậy mà họ ít chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng đặc quyền đặc
lợi giai cấp. Những người làm nghề tự do chính là những người ủng hộ chủ
nghĩa tự do một cách ngoan cường nhất và lâu dài nhất. Cuộc chiến đấu
không khoan nhượng và nhẫn tâm nhằm đòi cho bằng được những quyền lợi
đặc biệt của các đảng phái sẽ chẳng mang lại cho họ điều gì. Đấy là điều
mà các đảng hoạt động như các nhóm áp lực coi là điều cực kì đáng lo.
Họ không thể chấp nhận việc giới trí thức tiếp tục gắn bó với chủ nghĩa
tự do. Họ sợ rằng nếu các tư tưởng tự do, được một vài người trí thức
tái phát triển và giải thích một cách cặn kẽ, đủ sức làm cho quần chúng
đảng viên của họ chấp nhận và ủng hộ thì hàng ngũ của họ sẽ bị thưa thớt
dần. Họ vẫn còn nhớ những tư tưởng như thế đã gây ra những mối nguy
hiểm như thế nào đối với chế độ đặc quyền đặc lợi của xã hội đẳng cấp.
Vì vậy mà các đảng đấu tranh đòi đặc quyền đặc lợi đã tự tổ chức một
cách có hệ thống nhằm buộc những người làm nghề tự do phải phụ thuộc vào
họ. Chuyện đó đã xảy ra ngay sau khi các đảng này đưa giới trí thức vào
nắm quyền trong bộ máy của đảng. Các bác sĩ, luật sư, nhà văn, nghệ sĩ
phải tham gia vào tổ chức của bệnh nhân, khách hàng, độc giả và người
bảo trợ cho mình và phụ thuộc vào các tổ chức như thế. Những người lừng
khừng hay đấu tranh chống lại đều bị tẩy chay và buộc phải chiều theo.
Việc khuất phục những người làm
nghề tự do còn được tiếp tục bằng thủ tục bổ nhiệm vị trí giảng dạy và
chức vụ trong bộ máy nhà nước. Ở những nơi mà hệ thống đảng đã phát
triển một cách đầy đủ thì chỉ có các đảng viên đại diện cho đảng đang
cầm quyền hoặc theo thoả thuận (dù là thoả thuận ngầm) của tất cả các
đảng đầu tranh giành đặc quyền mới được bổ nhiệm vào các chức vụ như thế
mà thôi. Và cuối cùng, là dùng biện pháp đe doạ tẩy chay, ngay cả báo
chí độc lập cũng bị các đảng phái kiểm soát.
Đòn cuối cùng trong việc tổ chức
các đảng này chính là thành lập các đơn vị vũ trang của chính họ. Tổ
chức theo lối nhà binh, bắt chước mô hình của quân đội quốc gia, các đơn
vị này soạn thảo kế hoạch hành động và chuyển quân, họ có vũ khí và sẵn
sàng tấn công. Họ mang cờ quạt và kèn đồng diễu binh qua các đường phố,
đấy chính là lời cảnh báo với thế giới rằng thời đại của những cuộc vận
động và chiến tranh bất tận đang tới gần.
Cho đến lúc này, có hai sự kiện
có thể làm dịu bớt nguy cơ xuất hiện tình hình như vừa nói. Thứ nhất, đã
có sự cân bằng quyền lực giữa các đảng phái trong các cường quốc quan
trọng nhất. Còn ở những nơi không có sự cân bằng như thế, thí dụ như ở
Nga và Ý, thì mặc dù một số người dân vẫn còn công nhận một số nguyên
tắc còn sót lại của chủ nghĩa tự do, người ta đã sử dụng quyền lực của
nhà nước nhằm đàn áp và khủng bố những người ủng hộ các đảng đối lập.
Sự kiện thứ hai, không để cho
tình hình rơi vào hoàn cảnh xấu nhất, là ngay cả các dân tộc căm ghét
chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản đến tận xương tuỷ vẫn hi vọng vào
đầu tư từ những nước vốn là thí dụ điển hình của tinh thần tự do và tư
bản chủ nghĩa – mà trước hết là từ Mĩ. Không có nguồn tín dụng từ những
nước này thì người ta sẽ thấy ngay hậu quả của chính sách ăn vào vốn mà
họ đang làm. Chủ nghĩa bài tư bản chỉ có thể tồn tại bằng cách ăn bám
vào chủ nghĩa tư bản mà thôi. Vì vậy mà nó phải tính đến dư luận xã hội ở
phương Tây, nơi chủ nghĩa tự do vẫn còn được mọi người công nhận, dù về
mặt hình thức thì đã phai nhạt đi nhiều. Nói chung, các nhà tư sản chỉ
muốn cho những người trong tương lai có thể trả được nợ vay, còn những
đảng phá hoại thì lại kêu gào về “ảnh hưởng mang tính toàn cầu của chủ
nghĩa tư bản”.
6. Chủ nghĩa tự do: “đảng của tư bản”
Dễ dàng nhận ra là nếu không phủ
nhận ngay chính bản chất của chủ nghĩa tự do thì không thể nào đặt nó
cùng hàng với các đảng đấu tranh giành đặc quyền đặc lợi được. Nó hoàn
toàn khác biệt với các đảng kia. Các đảng đó chiến đấu và ca ngợi bạo
lực, còn chủ nghĩa tự do thì ngược lại, chỉ muốn hoà bình và cạnh tranh
về tư tưởng mà thôi. Vì lí do đó mà tất cả các đảng, dù họ có chia rẽ
với nhau đến đâu, đã lập ra mặt trận thống nhất nhằm chống lại chủ nghĩa
tự do.
Kẻ thù của chủ nghĩa tự do vu
cho chủ nghĩa tự do là đảng đấu tranh vì lợi ích của giai cấp tư sản.
Đấy là đặc trưng của phương pháp tư duy của họ. Đơn giản là họ chỉ có
thể coi hệ tư tưởng chính trị là hình thức bảo vệ cho đặc quyền đặc lợi
của một số người nào đó, bất chấp sự thịnh vượng chung của toàn xã hội.
Không nên coi chủ nghĩa tự do là
đảng đấu tranh cho những lợi ích đặc biệt, cho đặc quyền đặc lợi vì
quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất không phải là đặc quyền chỉ có lợi
cho những nhà tư sản mà là định chế có ích cho toàn thể xã hội, và như
thế cũng có nghĩa là có ích cho từng người một. Đấy không chỉ là ý kiến
của những người theo phái tự do, ở một mức độ nào đó ngay những người
đối lập với họ cũng nghĩ như thế. Khi những người marxist bảo vệ quan
điểm cho rằng chủ nghỉa xã hội chưa thể trở thành hiện thực khi thế giới
chưa “chín muồi”, vì hệ thống xã hội sẽ không bao giờ biến mất “trước
khi tất cả các lực lượng sản xuất có thể có trong xã hội cũ phát triển
hết cái không gian mà hệ thống này giành cho chúng”, thì họ cũng thừa
nhận, ít nhất là tại thời điểm hiện nay, sự cần thiết của định chế sở
hữu tư nhân đối với xã hội. Ngay cả những người Bolshevik, những người
mà mới gần đây còn tuyên truyền cách hiểu của họ về chủ nghĩa Marx
(dường như thế giới đã chín muồi rồi) bằng bom đạn, giáo gươm và giá
treo cổ, thì nay cũng buộc phải thú nhận rằng họ đã quá vội vàng. Thế mà
nếu chủ nghĩa tư bản và “thượng tầng kiến trúc” pháp lí của nó, tức là
sở hữu tư nhân, là điều kiện không thể bỏ qua được thì liệu người ta có
thể nói rằng hệ tư tưởng coi sở hữu tư nhân là nền tảng của xã hội là hệ
tư tưởng chỉ ủng hộ cho lợi ích kỉ của giai cấp tư sản nhằm chống lại
lợi ích của toàn thể xã hội được không?
Cho rằng sở hữu tư nhân là không
thể thiếu được – dù là tạm thời hay vĩnh viễn, nhưng các hệ tư tưởng
bài tự do lại tin rằng sở hữu tư nhân phải bị các sắc lệnh hoặc những
hành động can thiệp của nhà nước điều tiết và hạn chế. Cái họ đề xuất
không phải là chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản mà là chủ nghĩa can
thiệp. Nhưng kinh tế học đã chứng minh rằng chủ nghĩa can thiệp là hành
động tự sát. Nó không đạt được mục đích mà những người ủng hộ cho nó đặt
ra. Nghĩa là sẽ là sai lầm khi cho rằng bên cạnh chủ nghĩa xã hội (tài
sản công) và chủ nghĩa tư bản (tài sản tư) còn có thể có cách tổ chức
hợp tác xã hội hữu hiệu thứ ba, mà cụ thể là chủ nghĩa can thiệp. Những
cố gắng nhằm đưa chủ nghĩa can thiệp vào thực tiễn chắc chắn sẽ dẫn tới
những điều kiện trái ngược với dự định của các tác giả của nó. Lúc đó họ
sẽ phải đối mặt với sự lựa chọn: hoặc là từ bỏ mọi hành động can thiệp
và bằng cách đó để mặc cho sở hữu tư nhân tự hoạt động hoặc là thay sở
hữu tư nhân bằng chủ nghĩa xã hội.
Không chỉ những nhà kinh tế học
theo trường phái tự do mới ủng hộ luận điểm này. (Dĩ nhiên là tư tưởng
thịnh hành cho rằng các nhà kinh tế học chia rẽ theo đảng phái là tư
tưởng hoàn toàn sai lầm). Chính Marx, trong tất cả những tranh luận về
lí thuyết của mình cũng chỉ thấy có hai lựa chọn: chủ nghĩa xã hội hay
là chủ nghĩa tư bản. Ông thường chế nhạo và coi khinh những nhà cải cách
cách - những người bị “tư tưởng tiểu tư sản” cầm tù - bác bỏ chủ nghĩa
xã hội, đồng thời lại muốn tái cấu trúc chủ nghĩa tư bản. Kinh tế học
thậm chí không bao giờ có ý định chứng minh rằng hệ thống sở hữu tư nhân
được nhà nước điều tiết và cản trở là hệ thống khả thi hết. Khi những
“người xã hội chủ nghĩa xa lông” muốn chứng minh điều đó bằng mọi giá,
họ liền bắt đầu bằng cách phủ nhận kiến thức khoa học trong lĩnh vực
kinh tế và cuối cùng họ đã tuyên bố rằng nhà nước làm gì cũng đều có lí
cả. Vì khoa học đã chứng minh được sự phi lí của chính sách do họ đề
xuất, họ liền tìm cách bác bỏ cả logic lẫn khoa học.
Việc chứng minh tính khả thi của
chủ nghĩa xã hội cũng ở trong tình trạng tương tự như thế. Những người
cầm bút trước Marx đã cố gắng tìm cách chứng minh, nhưng vô ích. Họ
không thể làm được, cũng như họ không thể bác bỏ được những ý kiến phản
đối đầy giá trị, dựa trên những phát hiện của khoa học, về tính khả thi
của những điều không tưởng của họ. Tưởng như đến giữa thế kỉ XIX tư
tưởng xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn bị mất giá rồi. Nhưng Marx đã xuất
hiện. Chắc chắn là Marx đã không chứng minh - điều không thể chứng minh
được - rằng chủ nghĩa xã hội là khả thi, ông chỉ làm một việc đơn giản
là tuyên bố rằng việc xuất hiện chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Từ khẳng
định tuỳ tiện đó và từ tiền đề - mà ông ta tưởng là hiển nhiên - cho
rằng tất cả những gì xảy ra trong giai đoạn sau của lịch sử loài người
đều tiến bộ hơn giai đoạn trước, Marx rút ra kết luận rằng chủ nghĩa xã
hội sẽ hoàn hảo hơn chủ nghĩa tư bản và vì vậy là đương nhiên không thể
nghi ngờ về tính khả thi của nó. Vì vậy mà bận tâm về tính khả thi của
chủ nghĩa xã hội, thậm chí nghiên cứu các vấn đề của chế độ xã hội đó là
thái độ thiếu khoa học. Tất cả những người muốn làm việc đó đều bị
những người xã hội chủ nghĩa tẩy chay và bị dư luận xã hội, do những
người xã hội chủ nghĩa kiểm soát, rút phép thông công. Mặc dù có những
khó khăn như thề, nhưng kinh tế học đã nghiên cứu về mặt lí thuyết cơ
cấu của hệ thống xã hội chủ nghĩa và chứng minh một cách rõ ràng rằng
tất cả các kiểu chủ nghĩa xã hội đều bất khả thi vì không thể thực hiện
được việc hạch toán kinh tế. Những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội không
dám trả lời vấn đề này, tất cả những điều họ đưa ra đều vô giá trị và
chẳng có ý nghĩa gì. Điều đã được khoa học chứng minh về mặt lí thuyết
lại được những thất bại của những cuộc thí nghiệm của chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa can thiệp khẳng định trên thực tế.
Vì vậy mà lời khẳng định, như
nhiều người thường nói, rằng bảo vệ chủ nghĩa tư bản là công việc của
bọn tư sản và doanh nhân; lợi ích của họ mâu thuẫn với lợi ích của các
nhóm khác nhưng lại được hệ thống tư bản chủ nghĩa khuyến khích, chỉ là
những lời tuyên truyền loè bịp, nhắm vào sự nhẹ dạ của quần chúng mà
thôi. Người “giàu” cũng không có nhiều lí do ủng hộ định chế sở hữu tư
nhân hơn là người “nghèo”. Nếu quyền lợi đặc biệt, trực tiếp của họ bị
đe doạ thì họ khó mà là người theo phái tự do được. Quan niệm cho rằng
bảo vệ chủ nghĩa tư bản chi có lợi có cho các giai cấp hữu sản vì họ có
thể giữ mãi tài sản của mình là do người ta đã không hiểu được bản chất
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nơi mà sở hữu liên tục được chuyển từ
tay người kém năng lực sang tay người có nhiều năng lực hơn. Trong xã
hội tư bản, chỉ có thể giữ được tài sản của mình nếu ta thường xuyên
giành lại được nó qua những vụ đầu tư thông minh. Người giàu, tức là
người đã có tài sản, chẳng có lí do đặc biệt nào để muốn giữ mãi hệ
thống cạnh tranh tự do mở rộng cửa cho tất cả mọi người, đặc biệt nếu
đấy là tài sản thừa kế chứ không phải tự họ làm ra thì họ còn sợ chứ
chẳng muốn gì cạnh tranh. Ngược lại, họ rất muốn chủ nghĩa can thiệp vì
bao giờ nó cũng có xu hướng bảo tồn sự phân chia tài sản giữa những
người đang nắm giữ số tài sản đó. Nhưng họ cũng không hi vọng được chủ
nghĩa tự do ưu ái, trong hệ thống này người ta không quan tâm tới những
yêu sách đã thuộc về quá khứ nhằm bảo vệ lợi ích cho những khối tài sản
đã định hình.
Doanh nhân chỉ có thể phát đạt
khi ông ta cung cấp cho người tiêu dùng những thứ họ cần. Khi thế giới
hừng hực chuẩn bị chiến tranh, người theo phái tự do tìm cách giải thích
cho mọi người lợi ích của hòa bình, còn doanh nhân thì sản xuất đại
pháo và súng máy. Nếu dư luận xã hội hiện nay ủng hộ đầu tư vào nước Nga
thì người theo phái tự do lại có thề tìm cách giải thích rằng đầu tư
vào quốc gia, nơi chính phủ công khai tuyên bố rằng mục tiêu cuối cùng
của nó là tước đoạt tất cả vốn tư bản thì có khác gì ném hàng hóa xuống
biển. Nhưng doanh nhân vẫn không ngần ngại cung cấp hàng hóa cho nước
Nga, với điều kiện là ông ta co thể chuyển rủi ro cho những người khác,
đấy có thể là nhà nước mà cũng có thể là những nhà tư sản kém thông minh
hơn, những người bị dư luận dẫn dắt, còn chính dư luận xã hội thì lại
bị đồng tiền của Nga xỏ mũi. Người theo trường phái tự do đấu tranh
chống lại xu hướng thương mại tự cấp tự túc. Nhưng nhà sản xuất người
Đức lại xây nhà máy ở các tỉnh miền Đông, tức là những tỉnh không cho
hàng hóa của Đức thâm nhập, nhằm phục vụ thị trường ở đây trong khi thị
trường bị ảnh hưởng bởi thuế bảo hộ. Doanh nhân và các nhà tư sản có đầu
óc sáng suốt có thể nhận thấy hậu quả tai hại của chính sách bài tự do
đối với toàn xã hội, nhưng, như những doanh nhân và tư sản, họ không
chống lại mà tìm cách thích nghi với hoàn cảnh.
Không có giai cấp nào có thể ủng
hộ chủ nghĩa tự do nhằm bảo vệ những lợi ích ích kỉ, gây thiệt hại cho
toàn thể xã hội và các tầng lớp khác chỉ vì một lí do đơn giản: chủ
nghĩa tự do không phục vụ cho lợi ích đặc biệt nào. Chủ nghĩa tự do
không thể hi vọng vào sự giúp đỡ mà người ta dành cho các đảng bài tự do
vì những người muốn tìm đặc quyền đặc lợi đều gắn bó với những đảng đó
rồi. Khi người theo phái tự do xuất hiện trước cử tri nhằm tranh chức vụ
trong chính quyền và được hỏi rằng ông ta hay đảng của ông ta định làm
gì cho họ và nhóm của họ thì ông ta chỉ có thể trả lời như sau: Chủ
nghĩa tự do phục vụ tất cả mọi người, nhưng không phục vụ đặc quyền đặc
lợi của bất cứ ai.
Là người theo trường phái tự do
nghĩa là phải nhận thức được rằng về lâu dài đặc quyền đặc lợi dành cho
một nhóm nhỏ, gây thiệt hại cho những người khác, nhất định sẽ dẫn đến
tranh đấu (nội chiến); mặt khác, không thể ban phát đặc quyền đặc lợi
cho đa số vì như thế giá trị của đặc quyền đặc lợi sẽ không còn, kết quả
duy nhất mà người ta nhận được sẽ là: suy giảm năng suất lao động xã
hội.
7. Tương lai của chủ nghĩa tự do
Tất cả các nền văn minh trước
đây đều bị diệt vong hay ít nhất cũng lâm vào tình trạng trì trệ trước
khi đạt đến mức độ phát triển về mặt vật chất mà nền văn minh châu Âu
đương đại đã đạt được. Các dân tộc bị những cuộc chiến tranh với kẻ thù
bên ngoài cũng như những cuộc xung đột nội bộ làm cho tan hoang.
Chế độ vô chính phủ đẩy lùi quá
trình phân công lao động; các thành phố, nền thương mại và công nghiệp
suy tàn; và cùng với sự tan rã của nền tảng kinh tế, sự tao nhã về mặt
trí thức và đức hạnh phải nhường chỗ cho ngu dốt và bạo tàn. Người châu
Âu hiện nay đã làm cho những mối liên kết xã hội giữa các cá nhân và các
dân tộc trở mạnh mẽ chưa từng thấy trong suốt chiều dài của lịch sử.
Đấy chính là thành tựu của hệ tư tưởng của chủ nghĩa tự do, từ cuối thế
kỉ XVII chủ nghĩa này tiếp tục gây được ảnh hưởng đối với trái tim và
khối óc của nhiều người. Chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản đã đặt nền
móng cho tất cả những điều kì diệu đặc trưng cho lối sống hiện nay của
chúng ta.
Hiện nay nền văn minh của chúng
ta đã bắt đầu phát ra mùi tử khí. Nhiều kẻ tay ngang tuyên bố ầm ĩ rằng
tất cả các nền văn minh, trong đó có nền văn minh của chúng ta, đều phải
sụp đổ: đấy là qui luật tất yếu. Giờ cáo chung của châu Âu đã điểm,
những kẻ tiên tri của ngày phán xử cuối cùng cảnh báo như vậy, thế mà
cũng có người tin. Tâm trạng chán nản bắt đầu hiện diện khắp nơi.
Nhưng nền văn minh của chúng ta
sẽ không thể nào chết được, đấy là nói nếu nó không tự hủy hoại chính
mình. Không có kẻ thù bên ngoài nào có thể phá hoại được nó như người
Tây Ban Nha đã từng phá huỷ nền văn minh của người Aztec vì trên trái
đất này không có kẻ nào có thể địch lại được với những người đại diện
của nền văn minh đương đại. Chỉ có kẻ thù bên trong mới có thể đe doạ
được nó. Nền văn minh hiện đại chỉ có thể bị huỷ diệt nếu tư tưởng bài
tự do, thù địch với sự hợp tác xã hội, hất cẳng được những tư của chủ
nghĩa tự do.
Càng ngày càng có nhiều người
nhận thức được rằng sự tiến bộ về mặt vật chất chỉ có thể trở thành hiện
thực trong xã hội tư bản-tự do. Ngay cả nếu điều này không được những
người bài tự do không công nhận một cách trực tiếp thì họ lại công nhận
nó một cách gián tiếp trong những bài tụng ca tán dương tư tưởng ổn định
và trật tự. Họ bảo rằng sự thăng tiến về mặt vật chất của những thế hệ
gần đây dĩ nhiên là rất tốt và rất có ích. Nhưng đây là lúc phải ngừng
lại. Nhịp sống hối hả và cuồng nhiệt của chủ nghĩa tư bản đương đại phải
nhường chỗ cho sự suy tư thâm trầm. Người ta phải có thời gian suy
ngẫm, và như vậy là một hệ thống kinh tế mới, không chạy theo những sự
cách tân và những món hàng mới một cách điên cuồng, phải thay thế cho
chủ nghĩa tư bản. Người mơ mộng hoài vọng về những điều kiện kinh tế của
thời Trung cổ - không phải hoài vọng về cái thời Trung cổ như nó vốn là
mà hoài vọng về hình ảnh mà anh ta tự nghĩ ra, dù chẳng có liên quan gì
với hiện thực lịch sử hết. Hoặc là quay sang phương Đông – dĩ nhiên là
cũng không phải phương Đông thực mà chỉ là phương Đông trong giấc mơ của
anh ta mà thôi. Thật là những người hạnh phúc vì lúc đó không có công
nghệ và nền văn hoá hiện đại như bây giờ! Tại sao chúng ta lại có thể dễ
dàng từ bỏ cái thiên đường đó như thế?
Những người kêu gọi quay về với
những hình thức tổ chức kinh tế đơn giản cần nhớ rằng chỉ có hệ thống tổ
chức kinh tế của chúng ta mới có điều kiện giữ được lối sống mà chúng
ta cùng với rất nhiều người dân trái đất đã quen. Quay về với thời Trung
cổ nghĩa là tiêu diệt hàng trăm triệu người. Đúng là những người muốn
ổn định và trật tự có nói rằng không được đi quá xa đến như thế. Giữ gìn
những thứ đã có và không tiến thêm nữa là đủ.
Những người ca tụng trật tự và
ổn định quên mất một điều rằng trong con người – đấy là nói con người
như một thực thể biết tư duy – đã có sẵn ước mơ cải thiện điều kiện vật
chất của chính mình. Đấy chính là động cơ hoạt động của con người, không
thể nào xóa bỏ được. Nếu con người không được hoạt động vì lợi ích của
xã hội, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của chính mình thì anh ta chỉ còn
có một con đường: áp bức và cướp đoạt một cách tàn bạo để làm cho mình
giàu lên và làm cho những người khác nghèo đi.
Đúng là tất cả những căng thẳng
và tranh đấu nhằm nâng cao mức sống không làm cho con người hạnh phúc
hơn. Nhưng bản chất của con người là luôn luôn phấn đấu nhằm cải thiện
điều kiện vật chất của mình. Nếu nguyện vọng này không được thỏa mãn thì
anh ta sẽ trở thành một kẻ ngu dốt và vũ phu. Quần chúng sẽ chẳng thèm
nghe những lời kêu gọi phải sống khiêm nhường và an phận. Những triết
gia răn dạy như thế là những người tự lừa mình chăng? Nếu ta bảo với
người dân rằng ông cha họ khổ hơn rất nhiều thì họ sẽ trả lời rằng vì
sao họ lại không thể sống tốt hơn.
Như vậy là, dù xấu hay tốt, dù
có được người kiểm duyệt về mặt đức hạnh cho phép hay là không, thì con
người đã luôn luôn và sẽ mãi mãi phấn đấu nhằm cải thiện điều kiện sống
của mình. Đấy là số phận của con người, không ai có thể thoát được. Sự
hiếu động và bất an của con người hiện đại là do sự kích động của tâm
trí, của hệ thần kinh và các giác quan mà ra. Khôi phục lại tình trạng
trong trắng, ngây thơ của thời niên thiếu là việc bất khả thi, đưa người
ta quay trở lại với tình trạng thụ động của thời quá khứ cũng là việc
khó khăn không kém.
Nhưng từ bỏ sự tiến bộ về mặt
vật chất thì người ta sẽ được gì? Hạnh phúc và an lạc, hòa bình và hòa
hợp trong tâm hồn không thể hình thành một cách đơn giản chỉ vì người ta
không còn phấn đấu nhằm đáp ứng một cách tốt hơn nhu cầu của mình nữa.
Những người có học tưởng rằng nghèo túng và diệt dục sẽ tạo điều kiện
đặc biệt thuận lợi cho sự phát triển triển trí tuệ của con người. Nhưng
đấy là điều hoàn toàn nhảm nhí. Khi thảo luận những vấn đề như thế này
ta phải tránh các sáo ngữ và phải gọi đúng tên của sự vật. Tình trạng
giàu có hiện nay được thể hiện trước hết ở sự sùng bái cơ thể con người:
vệ sinh, sạch sẽ và thể thao. Hiện nay đấy vẫn còn là món xa xỉ phẩm
của những người khá giả – không chỉ ở Mĩ, mà còn ở những nơi khác nữa –
nhưng nó sẽ trở thành thông dụng với tất cả mọi người trong một tương
lai không xa, nếu kinh tế vẫn phát triển với tốc độ hiện nay. Quần chúng
không được hưởng thụ những thành quả của nền văn minh vật chất, như
những người khá giả hiện nay, thì đời sống nội tâm của con người có thể
phát triển được hay không? Một người nhếch nhác thì có thể hạnh phúc
được không?
Chỉ có thể trả lời những người
tán tụng thời Trung cổ rằng chúng ta không biết người thời đó có cảm
thấy hạnh phúc hơn người thời nay hay không. Còn những người quảng bá
lối sống của phương Đông thì chúng ta có thể hỏi rằng châu Á có đúng là
thiên đường như họ nói hay không?
Tán dương một cách trơ trẽn nền
kinh tế trì trệ, coi đấy là lí tưởng xã hội là luận cứ còn lại cuối cùng
mà kẻ thù của chủ nghĩa tự do phải dựa vào nhằm biện hộ cho học thuyết
của họ. Nhưng phải luôn luôn nhớ rằng xuất phát điểm của họ là lời kết
án cho rằng chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tư bản cản trở sự phát triển
lực lượng sản xuất và phải chịu trách nhiệm trước sự nghèo đói của quần
chúng. Kẻ thù của chủ nghĩa tự do nói rằng mục tiêu của họ là trật tự xã
hội có khả năng tạo ra nhiều của cải hơn là chế độ mà họ đang công
kích. Còn bây giờ, sau khi đã bị những cuộc phản kích của kinh tế học và
xã hội học đẩy vào đến chân tường, họ buộc phải công nhận rằng chỉ có
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do, chỉ có sở hữu tư nhân và các doanh
nhân được hoạt động mà không bị gây khó dễ, mới có thể bảo đảm được năng
suất lao động cao nhất.
Người ta thường nói rằng các
đảng chính trị hiện nay bị chia rẽ bởi những mâu thuẫn căn bản trong
quan điểm triết học của họ. Lí lẽ không thể giải quyết được những vấn đề
như thế. Thảo luận những mâu thuẫn có tính đối kháng như thế chắc chắn
là công việc vô ích. Mỗi bên sẽ vẫn giữ quan điểm của mình vì đấy là thế
giới quan mà lí lẽ không thể nào lay chuyển được. Mục tiêu phấn đấu của
mỗi người mỗi khác. Không thể có chuyện là những người phấn đấu cho
những mục tiêu khác nhau đó lại chấp nhận một phương pháp hành động
được.
Không có gì vô lí hơn là lời
khẳng định như thế. Ngoại trừ một vài người kiên định với lối sống khổ
hạnh, đấy là những người tìm cách từ bỏ tất cả những thứ phù phiếm của
cuộc đời và cuối cùng, đạt đến trạng thái chẳng còn mong ước và cũng
không cần hành động nữa, thực chất đấy chính là trạng thái tự phủ nhận
chính mình, còn tất cả những người da trắng khác, dù có quan điểm khác
nhau như thế nào về những vấn đề siêu nhiên, đều thích hệ thống xã hội
có năng suất lao động cao hơn là hệ thống có năng suất lao động thấp
hơn. Ngay cả những người tin rằng nhu cầu của con người ngày càng được
đáp ứng một cách tích hơn không phải là việc hay và tốt nhất là hãy sản
xuất ít đi – mặc dù khó tin là có nhiều người nghĩ như thế - cũng không
muốn là thời gian làm việc vẫn thế nhưng hàng hóa lại ít hơn. Chắc chắn
là họ muốn làm ít đi và kết quả là sản xuất ít đi, chứ không phải là
muốn vẫn làm như thế nhưng sản xuất lại ít đi.
Mâu thuẫn đối kháng về mặt chính
trị hiện nay không phải là cuộc luận chiến về những vấn đề triết học cơ
bản mà là những đáp án khác nhau đối với câu hỏi: làm sao đạt được mục
đích - mà ai cũng công nhận là hợp pháp – một cách nhanh nhất và ít tốn
kém nhất? Mục đích mà mọi người đều hướng tới chính là đáp ứng các nhu
cầu của con người một cách tốt nhất, đấy là thịnh vượng và giàu có. Dĩ
nhiên đấy không phải là tất những điều mà người ta khao khát, nhưng đấy
là tất cả những gì người ta có thể hi vọng giành được cùng với sự trợ
giúp của những phương tiện bên ngoài và hợp tác xã hội. Còn sự thanh
thản nội tâm – hạnh phúc, bình an, phấn khởi – thì mỗi người phải tự tìm
lấy trong chính mình.
Chủ nghĩa tự do không phải là
một tôn giáo, không phải là một thế giới quan, không phải là một đảng
của những lợi ích đặc biệt. Chủ nghĩa tự do không phải là tôn giáo cho
nên nó không đòi hỏi người ta phải tin hay là sùng bái vì nó không có gì
bí mật và cũng không có một tín điều nào hết. Chủ nghĩa tự do không
phải là thế giới quan vì nó không tìm cách giải thích vũ trụ, nó cũng
không giải thích và không tìm cách giải thích ý nghĩa và muc đích của
đời sống của con người. Chủ nghĩa tự do cũng không phải là đảng của
những lợi ích đặc biệt vì nó không cung cấp và không tìm cách cung cấp
bất kì lợi thế nào cho bất kì ai hay bất kì nhóm người nào. Hoàn toàn
không phải như thế. Đấy là hệ tư tưởng, là học thuyết về quan hệ qua lại
giữa những thành viên của xã hội và đồng thời, áp dụng học thuyết đó
đối với hàng vi của con người trong xã hội cụ thể. Nó không hứa hẹn
những điều vượt quá khả năng của xã hội và không cần đến xã hội. Chủ
nghĩa tự do chỉ tìm cách cung cấp cho con người một thứ - đấy là gia
tăng phúc lợi của mọi người diễn ra một cách hòa bình, không bị rối
loạn, nhằm bảo vệ họ khỏi những khó nhọc và đau khổ đến từ bên ngoài,
đấy cũng là nhiệm vụ của các định chế xã hội nữa. Tăng hạnh phúc và giảm
khổ đau chính là mục đích của nó.
Không có giáo phái hay đảng
chính trị nào có thể nghĩ rằng kêu gọi ý thức của người dân là để từ bỏ
sự nghiệp của mình. Ngôn từ hoa mĩ, nhạc điệu và giọng ca, khẩu hiệu và
cờ, hoa là những biểu tượng, còn các lãnh tụ thì tìm mọi cách làm cho đồ
đệ gắn bó với bản thân mình. Chủ nghĩa tự do hoàn toàn không làm những
việc như thế. Nó không có cờ đảng, không có đảng ca và không có thần
tượng, không có biểu tượng và không có khẩu hiệu. Nó chỉ có thực chất và
lí lẽ. Đấy là những điều sẽ dẫn nó đến thắng lợi.
Nguồn: http://mises.org/liberal.asp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét