David Brown | Trà Mi lược dịch
Chiến
lược quốc tế của Việt Nam đang chuyển hướng một cách đáng kể. Trong
nhiều năm qua, Việt Nam hy vọng cầm cự được bá quyền của Trung Quốc bằng
cách tỏ ra tiêng nể Bắc Kinh.
kkhủng hoàng ở Biển Đong: tàu TQ xịt vòi rồng vào thuyền của Việt Nam (tháng 5, 2014). Nguôn : Aisa Sentinel.
Hà Nội thôi e ngai và học yêu nước Mỹ nước Mỹ
Để đạt mục tiêu, các giới chức Hà Nội đã
nuôi dưỡng mối quan hệ với Trung Quốc và giao hảo với tất cả các nước,
đặc biệt là các nước láng giềng ASEAN, nhưng không liên minh với bấy kỳ
quốc gia nào.
Tuy nhiên, trong những tháng gần đây,
chiến lược này đã đảo ngược. Hồi đầu tháng Năm (2014), Trung Quốc đã đưa
giàn khoan trị gía cả tỷ USD và hơn 100 tàu thuyền đến vùng biển chỉ
cách bờ biển miền Trung 130 hải lý, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam (EEZ – vùng biển rộng 200 hải lý tính từ bờ biển của quốc gia
là jhu vực quốc gia đó có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên đặc
biệt.) Hà Nội phản ứng bằng cách gởi 30 đề nghị ngoại giao đến Bắc Kinh;
Trung Quốc không chấp nhật bất kỳ đề nghị nào của Hà Nội, và cũng không
thèm tiếp Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi Ủy
viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì đến Hà Nội vào ngày 18 tháng
Sáu, không phải để xin lỗi nhưng, đúng hơn, để lên lớp Việt Nam vì các
cuộc biểu tình chống giàn khoan 981 và đã cho phép tổ chức các cuộc biểu
tình chống Trung Quốc. Phương tiện truyền thông Trung Quốc miêu tả
chuyên đi cua họ Dương như một cơ hội cho Việt Nam “để tự chế trước khi
quá muộn.”
Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam không phải là một bất ngờ. Ít nhất là từ năm
2009, Bắc Kinh đã có mục đích làm bá chủ ở Biển Đông, và khu vực dầu khí
ngoài khơi Việt Nam đã trở thành một mục tiêu chính. Mối đe dọa của Bắc
Kinh gây ra đã khiến hai công ty dầu đa quốc gia BP và ConocoPhillips,
cả hai đều có đầu tư lớn ở Trung Quốc, lần lượt từ bỏ những dự án khai
thác trong vùng biển của Việt trong năm 2009 và 2012. Năm 2011, các tàu
thuyền Trung Quốc đã quấy rối tàu khảo sát của công ty Dầu khí Việt Nam.
Trong năm 2012, Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (CNOOC) dã mời các công ty
nước ngoài đấu thầu quyền thăm dò chín khu vực lãnh thổ chồng lấn với
vùng EEZ của Việt Nam.
Vào cuối tháng Bẩy, 2014, tin đồn đã
tràn ngập Việt Nam rằng Bộ Chính trị của đảng CSVN đã bỏ phiếu 9-5 ủng
hộ việc “đứng lên chống lại Trung Quốc”. Cũng có tin cho rằng một phiên
họp bất thường của 200 thành viên Ban chấp hành Trung ương Đảng sẽ họp
để xem xét và xác nhận thái độ mới của Bộ Chính trị. Những tin đồn trên
có thể chỉ đơn giản là phản ảnh những mơ tưởng của quần chúng đến nay đã
sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc hơn so với giới lãnh đạo của đảng CSVN.
Bắc Kinh và Hà Nội vẫn là bạn bè theo quy ước; Lê Hồng Anh, Bộ trưởng
Bộ Công An của Việt Nam và là người tích cực thuộc phe thân Trung Quốc,
đã được đón tiếp một cách tương xứng ở Bắc Kinh hồi giữa tháng Tám, và
không còn nghi ngờ gì, cũng đã bị Trung Quốc cảnh cáo về những khuynh
hướng nhằm chống lại Trung Quốc trong đảng CSVN. Mặc dù vậy, rất có thể
Việt Nam sẽ sớm đi hai bước có thể thay đổi cục diện.
Thứ nhất, Việt Nam sẽ có thể thách thức
Trung Quốc ở tòa án quốc tế, đi đến một phán quyết cho rằng tuyên bố
khẳng định về “chủ quyền lịch sử” của Bắc Kinh trên gần như toàn bộ Biển
Đông là bất hợp pháp và chiến thuật của Trung Quốc là bất khả chấp
thuận. Hà Nội đã cứu xét một chiến thuật như vậy từ năm ngoái, khi
Philippines mời Việt Nam tham gia cùng đi kiện Trung Quốc tại Tòa án
Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Hà Nội lại quyết định không tham gia với
Philippines lúc đó. Nhưng vào ngày 14 tháng Năm, hai tuần sau khi Bắc
Kinh đưa giàn khoan 981 vào vùng EEZ của Việt Nam, Thủ tướng CHXHCN Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng nói với newswires rằng chính phủ của ông đang dự
tính có hành động pháp lý. Vào cuối tháng Bẩy 2014, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh đã triệu tập một cuộc hội thảo cao cấp theo yêu
cầu của Chính phủ để đư ra những đề nghị những chiến lược pháp lý.
Thứ hai, Việt Nam có thể tiến tới một
mối quan hệ thân mật hơn về ngoại giao và quân sự với Hoa Kỳ – không
phải là một liên minh chính thức nhưng một quan hệ đối tác dựa trên lợi
ích chung trong việc ngăn chặn quyền bá chủ của Trung Quốc ở Biển Đông.
Phạm Bình Minh, Bộ trưởng ngoại giao của Việt Nam và là một trong bốn
phó thủ tướng chính phủ, sẽ là nhân vật trung tâm trong các nỗ lực nêu
trên. Vài ngày sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan 981 hoạt động ở biển
Viêt Nam, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry mời Bộ trưởng Minh đến thăm
Washington. Chuyến đi sẽ diễn ra vào cuối tháng Chín.
Trước chuyến đi của Minh, Evan Medeiros,
Giám đốc cấp cao về các vấn đề châu Á của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ,
đã yên lặng đến thăm Hà Nội vào cuối tháng Bảy. Ngay sau Medeiros,
Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain và Sheldon Whitehouse đã đến Việt Nam, và
hai tuần sau đó Đại tướng Martin Dempsey Tổng tham Liên quân Hoa Kỳ đã
có chuyến thăm bốn ngày ở Hà Nội được giới truyền thông Việt Nam đưa tin
rộng rãi. Cả hai ông McCain và Dempsey đều đã ngỏ ý rõ ràng rằng đã sẵn
sàng để bỏ việc cấm vận về mặt chuyển giao vũ khí gây chết người cho
quân đội Việt Nam. Cả hai cũng đề cập đến sự cần thiết phải tăng cường
“nhận thức về lĩnh vực hàng hải” của Việt Nam.
Một số trong giới quan sát cho rằng,
đứng xa với Bắc Kinh về mặt chính trị, Việt Nam có thể kích động một
cuộc chiến tranh kinh tế với Trung Quốc mà Việt Nam không thể đủ khả
năng chịu đựng. Nhưng nỗi sợ hãi này đã bị thổi phồng. Việt Nam xuất
khẩu than, dầu, gỗ và các sản phẩm nông nghiệp sang Trung Quốc và nhập
khẩu thiết bị máy móc và hàng tiêu dùng giá rẻ; phần trao đổi này của
mối quan hệ thương mại song phương không những tương đối cân bằng, mà cả
hai nước còn có thể dễ dàng tìm thấy thị trường khác cho những mặt hàng
đó. Nếu có một vấn đề, thì nó nằm trong các bộ phận phụ tùng, dệt may,
dây kéo, nút bấm, và giày điện tử được Trung Quốc gửi đến Việt Nam để
lắp ráp và tái xuất cảng: mặc dù lượng hàng nhập cảng này tạo ra một
thâm hụt rất lớn cho Hà Nội, chúng có thể được bù đắp dễ dàng bằng số
hàng may mặc và các thiết bị kỹ thuật số bán của Việt Nam sang châu Âu,
Nhật Bản, Hoa Kỳ, và các nơi khác trên thế giới. Việt Nam có thể mất một
hoặc hai năm để thiết lập lại các thị trường đó nếu Trung Quốc giận dữ
đến mức cắt đứt giao thương.
Nhưng ở đây một lần nữa, Mỹ dường như
đang cung cấp cho Việt Nam một nơi ẩn náu nhiều tiềm năng; đó là hiệp
định thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một chuỗi đàm phán
mà Việt Nam đã tham gia từ năm 2009; Việt Nam là nước kém phát triển
nhất trong số 12 đối tác đàm phán TPP và sẽ có số hàng xuất khẩu tăng
vọt 33% sau khi hiệp ước TPP có hiệu lực. Quy định dự đoán trong hiệp
định sẽ dành đặc quyền cho hàng may mặc hoàn toàn làm tại các nước thành
viên TPP; Trung Quốc, Nam Hàn, Đài Loan và các công ty Việt Nam đang
xây dựng khả năng tìm nguyên liệu của Việt Nam cho hàng may mặc và giày
dép nội địa.
Hà Nội muốn Hoa Kỳ đồng ý dỡ bỏ lệnh cấm
bán vũ khí gây chết người trên, một bước mà Washington đã đặt điều kiện
là Hà Nội phải cải thiện việc đối xử với những người bất đồng chính
kiến. Đối với cả hai chính phủ, đó là một vấn đề nguyên tắc. Có một
khoảng cách lớn giữa việc Hoa Kỳ đòi hỏi chính quyền cộng sản phải Việt
Nam tôn trọng các quyền chính trị cơ bản (của con người) và lòng tin của
giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam rằng chịu đựng những hoạt động dân chủ
sẽ là một mối đe dọa sống còn với hệ thống (quyền lực) của họ.
Về vấn đề này các quyền tự do chính trị,
Hà Nội, Washington, hoặc cả hai phải đi đến thỏa hiệp nếu họ muốn tiến
xa hơn nữa, nhưng cả hai nước đều không có nhiều chỗ để xoay sở. Nhiều
dân biểu Quốc hội Mỹ sẽ e ngại chính sách thân thiện với Hà Nội, ngay cả
khi họ biết rằng như thế sẽ giải quyết được mộng bá chủ khu vực của
Trung Quốc là lợi ích chung cho cả hai nước. Về phần mình, tầm nhìn của
Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam về trật tự chính trị đã hạn chế khả
năng của họ để đi đến có thỏa hiệp về quyền con người. Tuy nhiên, nếu Hà
Nội không thể cam kết mở rộng các lĩnh vực tham gia chính trị, hay
Washington không thể có một cái nhìn xa hơn thì các mối quan hệ chiến
lược đã thảo luận từ lâu sẽ vẫn nằm ngoài tầm với.
Đây là một quyết định khó khăn đối với
chính quyền Obama. Ở Biển Đông, Bắc Kinh không còn là một quốc gia “trỗi
dậy trong hòa bình” – thay vào đó, Trung Quốc đã trở thành kẻ đi bắt
nạt hàng xóm. Chính trị của Việt Nam, có thể thường xuyên là điều khó
nuốt, nhưng Việt Nam lại là nước, duy nhất ở Đông Nam Á, có thể, nếu
khuyến khích đúng cách, và sẵn sàng chống lại sự mù quáng của Trung
Quốc.
Nguồn: Vietnam’s Pivot. How Hanoi Learned to Stop Worrying and Love the United States. By David Brown. Foreign Affairs, SEPTEMBER 9, 2014.
David Brown
Tác giả là một nhân viên ngoại giao Mỹ tại Việt Nam trước 1975; sau
đó ông lần lượt làm việc ở các tòa đại sứ Mỹ ở các nước Đông Nam Á và
hiện nay được xem là một chuyên gia về Đông Á.
David Brown cũng trở lại làm việc ở Việt Nam trong những dự án giáo
dục, bảo tồn môi trường trong những năm 2005-10 và hiện vẫn thường xuyên
đi lại giữa Việt Nam và Mỹ. Ngoài ra, David Brown còn là tác giả của
nhiều bài viết phân tích về tình hình biển Đông và về vấn đề thời sự ở
Việt Nam trên ba tờ báo Asia Times Online, Asia Sentinel và Yale Global.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét